Luật bộ lấy Luật tạng làm chỗ căn cứ, nên gọi là Luật. Khi Đức Phật còn tại thế, nhân những sự việc đã xảy ra mà chế giới, tùy cơ duyên mà giảng dạy. Sau khi Phật diệt độ, Ngài Ưu Ba Ly kết tập Luật tạng. Sau đó 100 năm, Luật lại lần lượt chia ra nhiều bộ. Các bộ luật truyền tới Trung Quốc gồm có 4 bộ:
1. Tát Bà Đa Bộ, tức Thập Tụng Luật.
2. Đàm Vô Đức Bộ, tức Tứ Phần Luật.
3. Ma Ha Tăng Kỳ Bộ, tức Tăng Kỳ Luật.
4. Di Sa Tắc Bộ, tức Ngũ Phần Luật.
Giáo nghĩa của giới luật không ngoài điều “chỉ ác” và “tu thiện”, hoặc gọi là “chỉ trì” và “tác trì”.
Chỉ trì là môn chỉ ác, tác trì là môn tu thiện. Trong môn chỉ trì lại chia ra Tăng Ni 2 giới. Hai thứ Chỉ trì và Tác trì này bao trùm hết thảy giới luật của 4 bộ kể trên. Nay đem phân loại theo nội dung đó như sau:
Ngoài ra còn các bộ đại trước tác của Luật sư Đạo Tuyên để khai triển về Luật học cũng nằm trong 2 môn “chỉ trì” và “tác trì” này. Vì Ngài nương theo giáo nghĩa của Tứ Phần Luật làm căn bản. Trong Tứ Phần Luật có chia ra 4 bộ phận:
Phần đầu nói về giới pháp của Tỳ kheo, phần 2 nói về giới pháp của Tỳ kheo ni, 2 phần này thuộc về “Chỉ trì môn”.
Phần 3 và phần 4 nói về các pháp an cư, tự tứ, gồm 20 Kiền độ (thiên), 2 phần này thuộc về “Tác trì môn”. Nên:
1. Tứ Phần Luật Hành Sự Sao, 3 quyển, thuyết minh về pháp hành trì giới luật hằng ngày của Tăng già, thì quyển thượng, quyển hạ thuộc “Tác trì môn”, quyển trung thuộc “Chỉ trì môn”.
2. Tứ Phần Luật Yết Ma Sớ, 4 quyển, giải thích về nghi thức tác pháp thọ giới, kết giới v.v. thuộc “Tác trì môn”.
3. Tứ Phần Luật Giới Bản Sớ, 4 quyển, giải rõ về bản thể của giới, thuộc “Chỉ trì môn”.
4. Thập Tỳ Ni Nghĩa Sao, 3 quyển, đều nương vào “Chỉ trì môn” mà soạn ra.
5. Tỳ kheo Ni Sao, 3 quyển, giải thuyết về cả hai môn “Chỉ trì” và “Tác trì”.