1. Khái thuyết về giáo nghĩa của Phạm Võng Bồ Tát Giới Kinh.
Phạm Võng Kinh nói đủ là Phạm Võng Kinh Lô Xá Na Phật Thuyết Bồ Tát Tâm Địa Giới Phẩm Đệ Thập. Kinh này chia thành quyển thượng và hạ. Pháp sư Tăng Triệu, trong Tứ Thánh (Đạo Sinh, Tăng Triệu, Đạo Dung, Tăng Duệ), môn hạ của Tam Tạng La Thập, có viết lời tựa Phạm Võng Kinh. Nếu y vào lời tựa này thì Phạn bản của Phạm Võng Kinh ban đầu (lúc đầu) gồm có 120 quyển, trong đó có 61 phẩm, Ngài La Thập chỉ mới phiên dịch một phẩm Tâm Địa Giới Phẩm lại chia ra 2 quyển, thượng và hạ.
Quyển thượng thuyết minh về phẩm vị của các Bồ tát: Thập Phát Thú (Thập Trụ), Thập Trưởng Dưỡng (Thập Hành), Thập Kim Cương (Thập Hồi Hướng) và Thập Địa. Quyển hạ nói rõ về 10 giới trọng và 48 giới khinh.
Nương vào Phạm Võng Kinh của Ngài Tam Tạng La Thập đã dịch, các Ngài Đạo Dung, Đàm Ảnh gồm 300 người đều y vào Ngài Tam Tạng La Thập để thọ giới Bồ tát của Phạm Võng. Đó là giới pháp của Phạm Võng được truyền thọ đầu tiên ở Trung Quốc. Những người đã được thọ giới, hàng ngày thường đọc tụng các giới “thập trọng và tứ thập bát khinh giới”, thực hành rất nghiêm khắc, nên mới rút ra những bộ phận nói về “10 trọng giới và 48 khinh giới”, từ phần kệ tụng của Phật Lô Xá Na nói cho tới cuối bài kệ ở quyển hạ, biến thành một quyển riêng, gọi là Bồ Tát Giới Kinh hay Bồ Tát Giới Bản.
Căn cứ theo Bồ Tát Giới Kinh Nghĩa Lý 2 quyển, của Đại sư Thiên Thai Trí Giả thì Phạm Võng Kinh theo phán giáo thì thuộc Nhất thừa giáo, và là phần giới thọ trì cộng thông cho cả hai hàng xuất gia và tại gia.
Giáo nghĩa cũng khác nhau giữa Tiểu thừa Thanh văn giới và Phạm Võng Bồ tát giới. Có mấy điều chủ yếu:
Thứ nhất, Tiểu thừa giới là “Ngũ Thiên Thất Tụ”, Phạm Võng giới là “Nhị Thiên Tam Tụ”. Biểu đồ khái yếu như sau:
Tiểu thừa 5 Thiên 7 Tụ:
Ghi chú: Năm Thiên là nương ở chỗ nặng nhẹ của tội quả. Bảy Tụ là những loại tụ căn cứ ở tội tính và nguyên nhân của tội. Thâu lan giá gọi là Phương tiện tội (tức nhân tội) của Ba la di và Tăng tàn. Ác tác là tội phạm về thân. Ác thuyết là tội phạm về khẩu.
Đại thừa 2 Thiên 3 Tụ:
Liệt kê các tên giới của 10 giới trọng và 48 giới khinh như sau:
A. 10 Giới Trọng:
1. Giới sát sinh.
2. Giới trộm cướp.
3. Giới dâm.
4. Giới vọng ngữ.
5. Giới bán rượu.
6. Giới nói lỗi tứ chúng.
7. Giới khen mình chê người.
8. Giới sẻn tiếc mắng đuổi.
9. Giới tâm sân không nhận hối lỗi.
10. Giới hủy báng Tam bảo.
B. 48 Giới Khinh:
1. Giới không kính thầy bạn.
2. Giới uống rượu.
3. Giới ăn thịt.
4. Giới ăn ngũ tân.
5. Giới không dạy người sám hối.
6. Giới không cung cấp thính pháp.
7. Giới lười không nghe pháp.
8. Giới trái Đại thừa hướng Tiểu thừa.
9. Giới không khán bệnh.
10. Giới chứa dụng cụ sát sinh.
11. Giới đi sứ.
12. Giới buôn bán.
13. Giới hủy báng.
14. Giới phóng hỏa.
15. Giới dạy giáo lý cạn hẹp.
16. Giới vì lợi nói pháp không thứ lớp.
17. Giới cậy thế cầu xin.
18. Giới không hiểu làm thầy.
19. Giới nói lưỡi hai chiều.
20. Giới không phóng sinh cứu sinh.
21. Giới sân đánh trả thù.
22. Giới kiêu mạn không thính pháp.
23. Giới kiêu mạn sẻn pháp.
24. Giới không tập học Đại thừa.
25. Giới không khéo hòa chúng.
26. Giới thọ lợi dưỡng riêng.
27. Giới thọ biệt thỉnh.
28. Giới biệt thỉnh Tăng.
29. Giới tà mệnh tự sống.
30. Giới quản lý cho bạch y.
31. Giới không cứu chuộc.
32. Giới tổn hại chúng sinh.
33. Giới tà nghiệp nghe xem.
34. Giới tạm bỏ Bồ đề tâm.
35. Giới không phát nguyện.
36. Giới không phát thệ.
37. Giới vào chỗ hiểm nạn.
38. Giới trái tôn ty thứ tự.
39. Giới không tu phước tuệ.
40. Giới lựa chọn thọ giới.
41. Giới vì lợi làm thầy.
42. Giới vì người ác thuyết giới.
43. Giới không thẹn nhận thí.
44. Giới không cúng dường kinh điển.
45. Giới không giáo hóa chúng sinh.
46. Giới thuyết pháp không như Pháp.
47. Giới chế hạn phi Pháp.
48. Giới phá Pháp.
Ghi Chú: Tam tụ tịnh giới và 10 giới trọng là giới pháp cộng thông cho cả hai hàng tại gia và xuất gia. Trong 48 giới khinh:
Giới thứ: 18, 25, 26, 40, 41 là những giới chế cho Tỳ kheo và Tỳ kheo ni.
Giới thứ: 12, 27, 33, 43, 48 là những giới chỉ chế đối với người xuất gia.
Thứ hai, trần thuật về “Tiệm chế” và “Đốn chế” của hai giới Đại thừa, Tiểu thừa cùng trái nhau.
Giới của Tiểu thừa được chế định theo thứ lớp ở nơi phạm lỗi của các đệ tử Phật, từ lúc Phật sơ chuyển pháp luân ở Lộc Dã Uyển cho tới khi Phật nhập Niết bàn nơi Sa la Song thọ. Giới Phạm Võng, Phật Lô Xá Na vì Biện Hải Vương và Vương tử mà kết thành luôn 58 giới. Nên giới Tiểu thừa là Tiệm chế, còn giới Đại thừa thuộc Đốn chế.
Tiểu thừa giới có 4 Ba la di, Phạm Võng giới lại nói 10 Ba la di. Lại, giới Tiểu thừa nói Dâm, Đạo, Sát, Vọng theo thứ lớp, giới Phạm Võng nói Sát, Đạo, Dâm, Vọng theo thứ lớp. Ở Tiểu thừa, giới Dâm để thứ nhất, vì việc dâm dục người nào cũng khó giữ và dễ phạm, đã phạm thời không thoát khỏi sinh tử, nên giới Dâm để đầu là trọng chế. Nhưng ở giới Phạm Võng, giới sát sinh trở nên Tính tội, nên trọng chế để ở hàng đầu. Lại, chỗ chế của Tiểu thừa giới chỉ hạn chế hai nghiệp thân, khẩu; Phạm Võng giới thì thông cả ba nghiệp thân, khẩu, ý. Lại ở giới Tiểu thừa phán ở tội khinh, giới Phạm Võng lại phán ở tội trọng. Như lấy trộm của Phật nơi chùa tháp, ở Tiểu thừa cho là tội khinh nhưng ở Đại thừa lại là trọng tội.