Đức Thích Tôn thuyết giáo, Ngài đã phủ nhận chế độ giai cấp, nếu ai đã là người quyết chí xuất gia đều được dự vào “Thanh tịnh đại hải chúng”, đều là chúng phạm hạnh thanh tịnh. Nên người xuất gia đã được thọ giới cần phải giữ giới thanh tịnh. Vì lẽ, cứ mỗi mỗi giới Đức Phật đã chế định đều có cái công năng đoạn trừ phiền não, giải thoát sinh tử, được 10 công đức lớn, mà trong Tứ Phần Luật gọi là “Mười ý nghĩa”, Luật tạng Pāli (Dasa Atthavase) gọi là Mười lợi.
A. “Mười ý nghĩa” trong Tứ Phần Luật:
1. Nhiếp thủ ư Tăng - Vì kiện toàn Tăng già thành thanh tịnh chúng.
2. Linh Tăng hoan hỷ - Vì tu phạm hạnh, mầm thiện tăng trưởng, nên tâm hoan hỷ.
3. Linh Tăng an lạc - Vì hoan hỷ được an lạc nơi thiền định.
4. Linh vị tín giả tín - Vì người chưa tin phạm hạnh thanh tịnh mà sinh lòng tin.
5. Dĩ tín giả linh tăng trưởng - Vì người đã tin rồi khiến lòng tin tăng trưởng.
6. Nan điều giả linh điều thuận - Vì người khó điều phục khiến được điều thuận.
7. Tàm quý giả đắc an lạc - Vì người biết hổ thẹn được an vui.
8. Đoạn hiện tại hữu lậu - Vì đoạn hết được phiền não hiện tại.
9. Đoạn vị lai hữu lậu - Vì đoạn diệt được phiền não ở vị lai.
10. Chính pháp đắc cửu trụ - Vì do trì phạm hạnh mà chính pháp được cửu trụ.
B. “Mười lợi” trong Luật tạng Pāli:
1. Samghasutthutàya - Vì tính kiện toàn của Tăng già.
2. Samghaphà-sutàya - Vì an trụ của Tăng già.
3. Dummankuman puggalànam-niggahàya - Vì ức chế kẻ ác.
4. Pesalànam bikkùnam phàsuvihàraya - Vì an trụ của thiện Tỳ kheo.
5. Ditthadhammikànam àsavànam samvaràya - Vì đoạn phiền não hiện thế.
6. Samparàyikanam àsavànam patighàtàya - Vì đoạn diệt phiền não ở vị lai.
7. Appasannànam pasàdaya - Vì khiến người chưa tin sinh tin.
8. Pasannànam bhiyyobhàvàya - Vì người đã tin, lòng tin thêm kiên cố.
9. Saddhammatthiliyà - Vì chính pháp cửu trụ.
10. Vinayà nuggahàya - Vì yêu chuộng kính trọng luật.
“Mười ý nghĩa” trong Tứ Phần Luật và “Mười lợi” trong Luật tạng Pāli đều gồm 10 hạng mục, các hạng mục đều tương tự nhau. Đó đều là những hạng mục chủ đích khiến cho thanh tịnh và trang nghiêm Giáo đoàn, khiến các Tỳ kheo thanh chúng tu hành phạm hạnh, đoạn phiền não, chứng Niết bàn.
Niết bàn có nghĩa là phủ nhận cái ngã, cách cố đỉnh tân (bỏ cái xấu cũ, dựng nên cái mới), để đạt tới nhân cách hoàn toàn, quyết không phải nơi an lạc của tự kỷ. Thế nên, trong lĩnh vực Tăng già, ngoài việc tu tập phạm hạnh cho phần tự lợi còn phải tích cực nghĩa vụ giáo hóa để kiện toàn phần lợi tha. Vì tu tập phạm hạnh là phương diện tự giác hướng thượng, việc hoằng duyên là phương diện hướng hạ giác tha, nên sứ mệnh của Tăng già phải chu toàn gồm cả Bi, Trí. Nghĩa là một mặt phải noi theo nhân cách vĩ đại của Đức Thích Tôn, y theo Giới luật, thật tiễn tu hành, phát huy triệt để tinh thần hòa hợp chúng, để bảo trì kỷ cương trật tự, trang nghiêm Tăng đoàn; mặt khác phải nương theo Đại thừa giới; Nhiếp luật nghi giới, Nhiếp thiện pháp giới và Nhiếp chúng sinh giới, để “Thống lý đại chúng, tất cả vô ngại”.