Khi Đức Thích Tôn còn tại thế, Tăng già được sự bao dung nhân cách vĩ đại của Ngài, nên đã ít xảy ra vi phạm tội lỗi. Nhưng nếu có chỗ vi phạm là do nơi quần chúng không tốt của Lục quần Tỳ kheo trà trộn, nên Đức Thích Tôn đã chế định ra ít nhiều về giới luật. Sau khi Đức Thích Tôn nhập diệt, Ngài Đại Ca Diếp cố giữ cho giới luật của Phật đã chế định không bị thất thoát, quyết tâm tuân thủ và truyền trì. Nhưng sau khi Đức Thích Tôn nhập diệt 100 năm thì Giáo đoàn của Phật giáo cũng không nằm trong “Chính pháp nhất vị”, mà đã phân liệt thành 2 phái tư tưởng cũ-mới đối lập, nên đã phát sinh ra phái truyền thừa về hình thức của giới luật thành “Thượng Tọa bộ (Sthaviravāda)”, sau gọi là Tuyết Sơn bộ (Haimavata), và nắm bắt về tinh thần của giới luật mà hình thành “Đại Chúng bộ (Mahāsaṅghika)”. Thế rồi sau đó, 2 bộ này có những bất đồng tư tưởng, lại lần lượt phân liệt thành các bộ nhỏ khác. Như Đại Chúng bộ chia thành 8 bộ:
Nhất Thuyết bộ (Eka-vyavahārika).
Thuyết Xuất Thế bộ (Lokottara-vāda).
Kê Dận bộ (Kaukkuṭika).
Đa Văn bộ (Bāhuśrutīya).
Thuyết Giả bộ (Prajnàptivadinàh).
Chế Đa Sơn bộ (Caityasailàh).
Tây Sơn Trụ bộ (Aparasailàh).
Bắc Sơn Trụ bộ (Uttarassailàh).
Và Thượng Tọa bộ cũng chia thành 10 bộ:
Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ (Saivàstivàdàh) còn gọi là Thuyết Nhân bộ (Hatuvàdàh).
Độc Tử bộ (Vātsī-putrīyāḥ).
Pháp Thượng bộ (Dharmattariyàh).
Hiền Trụ bộ (Bhadrayànihàh).
Chính Lượng bộ (Sàmmitiyàh).
Mật Lâm Sơn bộ (Sandagirikàh).
Hóa Địa bộ (Mahìsàsakàh).
Pháp Tạng bộ (Dharmaguptakàh).
Ẩm Quang bộ (Kàsyapiyàh).
Kinh Lượng bộ (Sautràntikàh).
Như vậy, 2 bộ phận liệt thành 18 bộ, cộng thêm 2 bộ căn bản, gọi là “20 bộ phái Tiểu thừa”. Trong các bộ phái kể trên, các bộ đều có những bộ luật riêng cho bộ mình. Trong Luật Tạng Hán Dịch, Tứ Phần Luật thuộc Pháp Tạng bộ, Ngũ Phần Luật thuộc Hóa Địa bộ, Thập Tụng Luật thuộc Hữu bộ, Ma Ha Tăng Kỳ Luật thuộc Đại Chúng bộ, Căn bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da dĩ nhiên là luật sở truyền của Hữu bộ. Luật Pāli sở thuộc hệ Thượng Tọa bộ, gọi là “Phân Biệt Thuyết bộ”, do Giáo đoàn Phật giáo Tích Lan là “Đại Tịnh xá Tự phái” (Màhàvihara) truyền trì. “Đại Tịnh xá Tự phái”: gọi tắt là Đại Tự phái thuộc Thượng Tọa bộ (Theravāda). Nghi thức thọ giới nương vào giới luật được thực hành đầu tiên ở Trung Quốc là thời đại Tam quốc, thời đại Quảng Luật thì chưa hoàn toàn truyền tới nên chưa nhất trí về giáo nghĩa “Giới thể” và “Giới hạnh”, ngay khi Quảng Luật đã truyền tới, vấn đề đó cũng vẫn chưa được giải quyết. Mãi đến thời Luật sư Pháp Thông đời Bắc Ngụy, Ngài chuyên nghiên cứu về Tứ Phần Luật, do đó mới giải quyết nhất trí được vấn đề giữa “Giới thể” và “Giới hạnh”. Đệ tử của Pháp Thông là Luật sư Đạo Phú, được trao truyền tư tưởng của thầy, trước tác bộ Tứ Phần Luật Sớ, gồm 6 quyển.
Sau đó, Luật sư Tuệ Quang (468 - 537) được truyền thừa khoa văn trên, nghiên cứu tinh tường Tứ Phần Luật, thành lập ra hệ thống cơ sở cho tông này. Tới Luật sư Đạo Tuyên (596 - 667) thì Ngài hoàn thành được hệ thống Tứ Phần Luật tông, gọi là “Nam Sơn tông”. Luật tông trong đời Đường có tất cả 3 tông phái, nhưng duy có Nam Sơn tông là được thịnh hành và hiện còn truyền thừa tới nay. Hệ thống Luật tông này còn được thịnh hành ở Nhật Bản, Cao Ly và cả Việt Nam. Giới luật của tông này thuộc Tiểu thừa, nhưng phần giải thích có khuynh hướng Đại thừa.
Đại thừa giới được nói đến ở các kinh như Phạm Võng Kinh, Anh Lạc Kinh và Thiện Giới Kinh. Nội dung của Phạm Võng Kinh nói về 10 cấm giới trọng và 48 giới khinh. Giới Đại thừa này thông cho cả 2 hàng Tăng và Tục. Về Đại thừa giới thì tương đương với 2 bộ phận “Chỉ ác tác thiện”, nhưng phần quy tắc (tác trì) thì không nhất định. Do đó, những nghi thức, tác pháp, hành sự thuộc môn “Tác thiện” trong Tăng già đã không tồn tại. Phụng hành giới Đại thừa, nhưng lại phải tuân theo Tiểu thừa luật.
Môn Tác thiện dù có nằm trong Tiểu thừa giới, nhưng vì chưa mãn túc và đặc biệt môn Tác thiện trong Đại thừa giới không tồn tại, nên các tông phái thuộc Đại thừa đương nhiên phải nỗ lực chế định. Trong các tông phái duy có Thiền tông đã chế tác được “Thanh quy”, để quy định về tập đoàn sinh hoạt của hòa hợp chúng. Từ thời Tổ Đạt Ma đến Lục Tổ Huệ Năng, các Ngài đều cư trụ ở trong các chùa Luật Chế. Nhưng Tứ Tổ Đạo Tín và Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn đều trụ ở chùa Chính Giác thuộc núi Song Phong ở Tây Bắc huyện Hoàng Mai tỉnh Hồ Bắc, trước sau hơn 60 năm. Đồ chúng từ các nơi quy tụ về tu học không phải là 500 người mà là hàng ngàn người, làm thay đổi nếp Thiền phong đã có từ trước. Sinh hoạt của đại chúng lấy việc tự cấp, tự túc làm cốt yếu, không phải chỉ riêng tọa thiền, mà hết thảy việc canh tác, nấu cơm, quét nhà, làm việc công cộng v.v. cũng đều bao quát trong việc tu hành, mỗi mỗi việc đều coi là giá trị tuyệt đối.
Đích tôn của Tổ Huệ Năng là Mã Tổ, có 800 người trong hội hạ và cũng đã xây dựng thành đạo tràng riêng biệt của Thiền. Bách Trượng Hoài Hải (720 - 814), người được truyền pháp của Mã Tổ, đã soạn ra bộ Thanh Quy đầu tiên, làm quy củ cho Thiền môn, đời gọi là Bách Trượng Thanh Quy. Thanh Quy là di sản đặc biệt của văn hóa Trung Quốc trọng vọng về lễ tục. Bộ Bách Trượng Thanh Quy đương thời lúc đó đã bị thất lạc không còn lưu truyền tới hiện nay, nhưng xem trong các bộ Thiền Môn Quy Thức, Thiền Uyển Thanh Quy, Bách Trượng Quy Thằng Tụng, trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục cũng có thể biết mường tượng được nội dung của Bách Trượng Thanh Quy. Ngài Bách Trượng còn kiến lập thiền viện độc lập, không phụ thuộc vào các chùa luật. Trên núi Bách Trượng, Ngài không dựng Phật điện, mà chỉ kiến lập Pháp đường. Vị trụ trì gọi là Trưởng lão, nơi ở trụ trì gọi là nhà “Phương trượng”. Trưởng lão là vị Hóa chủ, người thay mặt Phật, Tổ nơi Pháp đường để thượng đường, thăng tòa nói pháp. Đại chúng khi vào Tăng đường, theo thứ tự năm đã kết hạ an cư mà định trật tự. Trong nơi tham thiền có đặt ra “Trường liên sàng” (giường dài ngồi liền nhau) làm giá treo để treo các đạo cụ. Ngồi thiền lâu muốn nghỉ, để gối lên thành giường, đặt sườn bên phải xuống mà ngủ. Cách ngủ này gọi là “Đới đao thụy”. Đại chúng của toàn Viện thời chiêu tham mộ tụ, nếu khi Trưởng lão thượng đường, hết thảy đều tập hợp để nghe pháp và trao đổi vấn đáp. Ngoài ra còn có phần độc tham thọ giáo. Trong lúc chiêu tham mộ thỉnh, Đại chúng đều tiến thoái theo nhịp mõ cá, khánh đá, oai nghi chỉnh tề không để rối loạn. Về việc ăn dùng có 2 bữa cháo sáng, trai trưa trong ngày, giữ gìn tiết kiệm, trong lúc làm việc, Đại chúng trên dưới đều phải tận tâm kiệt lực.
Trong nơi Tăng đường đặt ra “10 vụ”, gọi là “Liêu xá”, mỗi cục Liêu xá có một thủ lĩnh, gọi là “Liêu ty”, dưới Liêu ty lại có nhiều người quản lý công việc. Dưới quyền chỉ đạo của thủ lĩnh (Liêu ty) còn có 10 chức như Duy na, Phạn đầu, Thái đầu, còn 7 chức nữa không ghi rõ tên.
Nếu là người mượn hình tướng trà trộn vào hàng Thanh chúng, hoặc làm huyên náo trong chúng, vị Duy na phải kiểm cử, bỏ hết những đồ biện đạo xuống rồi đuổi ra khỏi Thiền viện. Nếu là người phạm tội, hoặc bị đánh đòn, hoặc sám hối trước đại chúng, hoặc bị đốt y bát rồi đuổi ra khỏi cửa, đều được quy định trong Thanh quy. Các Thiền viện trong thiên hạ đều phỏng theo bản Thanh quy này mà chế tác. Như vậy, giới luật của Thiền tông, theo các quy tắc như trên, thuộc phần “Tác thiện môn”.
Bách Trượng Thanh Quy được lưu truyền rất sâu rộng ở đời, nhưng do sự biến thiên của thời đại, tình thế của địa phương, phong tập của tự viện, tính cách của gia sự, nên đã bị cải biến dần dần. Tiếp sau có bộ Thiền Uyển Thanh Quy 10 quyển của Tông Trách (1103), Hiệu Đính Thanh Quy 2 quyển của Duy Miễn (1274), Sắc Tứ Bách Trượng Thanh Quy 2 quyển của Đức Huy (1336), đều là những bộ Thanh quy chủ yếu của Phật giáo Trung Quốc.
Trong các bộ Thanh quy về phần nội dung là phần sinh mệnh mới của giới luật, nhưng đồng thời cũng là phần sa đọa vào hình thức, vì có chứa đựng phong phú phần tục lễ. Cho nên, Trình Minh Đạo - một Nho sĩ đã khen: “Tam đại lễ nhạc, tại truy y trung”, nghĩa là lễ nhạc của 3 đời Hạ, Thương, Chu đều được tồn tại nơi Thiền đường.