Hòa thượng Thích Thanh Kiểm (1921 - 2000)
I. THÂN THẾ
Hòa thượng Thích Thanh Kiểm, đạo hiệu Chân Từ, thế danh Vũ Văn Khang, sinh ngày 23/12/1921 (Tân Dậu) tại làng Tiêu Bảng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Thân phụ là cụ ông Vũ Văn Khánh, thân mẫu là cụ bà Đỗ Thị Thinh. Hòa thượng là con thứ ba trong bốn anh chị em (hai trai, hai gái).
II. XUẤT GIA TU HỌC
1. Xuất gia
Lên 6 tuổi, Hòa thượng được song thân cho theo học chữ Hán với các cụ đồ tại địa phương. Năm 15 tuổi, Hòa thượng noi gương chị gái là sư bà Đàm Hữu, phát tâm xuất gia với sư cụ chùa Liên Đàm, xã Linh Đường, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội (nay là phường Hoàng Liệt, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội). Về sau xin y chỉ với Thượng tọa Thích Thanh Khoát trụ trì chùa Bạch Chữ, thuộc sơn môn Trung Hậu, tỉnh Vĩnh Phú (nay thuộc huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội). Đến năm 18 tuổi, Hòa thượng được Bổn sư cho đăng đàn thọ giới Sa di tại chùa Tây Thiên (Trung Hậu). Năm 22 tuổi, Hòa thượng đăng đàn thọ giới Cụ túc, viên mãn tam đàn giới pháp tại chùa Linh Ứng, làng Trung Hậu, tỉnh Vĩnh Phú.
2. Tu học
Từ năm 1937 - 1950, Hòa thượng đã lần lượt tham học các trường Phật học: Bằng - Sở, Cao Phong, Trung Hậu, Bồ Đề, Hương Hải, Quán Sứ và tốt nghiệp Trường Cao đẳng Phật học tại Quán Sứ. Năm 1951, Hòa thượng được cử làm Thư ký Giáo hội Tăng già Bắc Việt, kiêm Giảng sư. Trong chương trình đào tạo Tăng tài cho Phật giáo, năm 1953 Giáo hội Tăng già Việt Nam cử Hòa thượng và Hòa thượng Thích Tâm Giác đi du học tại Nhật Bản. Tại Đại học đường Rissho ở thủ đô Tokyo, Hòa thượng đã lần lượt thi đậu các văn bằng: Cử nhân Phật học, Thạc sĩ Phật học (1959), Tiến sĩ Phật học (1961).
III. HÓA ĐẠO
1. Trước Giải phóng
Sau khi tốt nghiệp, năm 1962, Hòa thượng trở về quê hương phục vụ đạo pháp. Tại Sài Gòn, năm 1963, Hòa thượng đã cùng quý Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức Tăng Ni, Phật tử tích cực đấu tranh chống sự đàn áp Phật giáo của chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm. Cuối năm 1963, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ra đời, Hòa thượng được cử làm Vụ trưởng Vụ Phiên dịch thuộc Tổng vụ Hoằng Pháp do cố Hòa thượng Thích Trí Thủ làm Tổng vụ trưởng.
Từ năm 1964 - 1974, Hòa thượng cùng Hòa thượng Thích Tâm Giác xây dựng chùa Vĩnh Nghiêm (Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh), mua đất để xây dựng Tu viện Vĩnh Nghiêm sau này (Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh), Thiền viện Vĩnh Nghiêm (thành phố Vũng Tàu), chùa Vân Sơn (huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) và nhiều chùa khác nữa. Đồng thời, Hòa thượng cùng chư tôn đức Tăng Ni, Phật tử Miền Vĩnh Nghiêm lấy chùa Vĩnh Nghiêm làm trụ sở cho Miền. Hòa thượng là Phó Đại diện Miền, Phó ban Kiến thiết kiêm thủ quỹ xây dựng chùa Vĩnh Nghiêm. Năm 1973, Hòa thượng Thích Tâm Giác viên tịch, Hòa thượng được suy cử làm Chánh Đại diện Miền kiêm Trụ trì chùa Vĩnh Nghiêm cho đến ngày viên tịch.
2. Sau Giải phóng
Từ năm 1975 - 1981, Hòa thượng là Ủy viên Ban Liên lạc Phật giáo yêu nước. Năm 1980, Hòa thượng là thành viên trong Ban Vận động Thống nhất Phật giáo Việt Nam. Sau khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam được thành lập, Hòa thượng được đại hội suy cử làm Uỷ viên Ban Hoằng pháp Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Phó ban Trị sự Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh.
Từ Đại hội Phật giáo Toàn quốc nhiệm kỳ I về sau, Hòa thượng được suy cử vào nhiều chức vụ như sau:
- Trưởng ban Phật giáo chuyên môn (1981 - 1997).
- Trưởng ban Kinh tế Tài chính Trung ương, Phó ban Giáo dục Tăng Ni kiêm Phó ban Phật giáo Quốc tế (1992).
- Phó ban Tư tưởng Văn hóa - Đạo đức Phật giáo (1994) tại Phân viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam.
- Chứng minh Ban Hoằng pháp Trung ương kiêm Phó Viện trưởng Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội.
- Phó ban Trị sự Thành hội, Ủy viên Phật giáo Quốc tế, sau đó là Trưởng ban Phật giáo Quốc tế Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Các Phật sự khác
Với trình độ Phật học uyên thâm, quảng bác và giới đức trang nghiêm, thanh tịnh, xứng đáng làm mô phạm chốn tùng lâm, Hòa thượng đã tham gia giảng dạy, giáo dục và đào tạo Tăng tài cho Phật giáo, là Giáo sư Viện Cao đẳng Phật học, Đại học Vạn Hạnh, Trường Cao cấp Phật học, Trung cấp Phật học, Học viện Phật giáo Việt Nam,… Để khêu đèn trí tuệ Văn Thù phát triển Phật pháp và tạo điều kiện cho hàng hậu thế, Hòa thượng đã nhận giáo dưỡng 20 vị Tăng Ni sinh miền Bắc vào học Trường Cao cấp Phật học Việt Nam Cơ sở 2 (nay là Học viện Phật giáo Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh) và đào tạo rất nhiều Tăng Ni. Những vị đó hiện nay đang giữ nhiều trọng trách quan trọng trong Giáo hội.
Từ những thập niên 60 (thế kỷ XX) về sau, Hòa thượng được thỉnh làm Giới sư, Tôn chứng sư, Yết ma A xà lê, Tuyên Luật sư, Chứng minh truyền giới, Đàn đầu Hòa thượng trong các giới đàn tại Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Lâm Đồng, Long An,…
Ngoài ra, Hòa thượng còn tham gia các hoạt động an sinh xã hội, cứu trợ, giúp đỡ đồng bào nghèo, đồng bào bị thiên tai lũ lụt tại các tỉnh thành,... Tổ chức làm xí nghiệp sản xuất tương chao và thành lập chẩn y viện để giúp đỡ cho các bệnh nhân nghèo.
Trong thời kỳ đảm nhiệm chức Trưởng ban Kinh tế Tài chính Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Hòa thượng đã tích cực tham gia trồng hàng trăm héc-ta rừng tại thị trấn Madagui, tỉnh Lâm Đồng và thành lập Quỹ Tín dụng Hiền Đức để huy động tiền nhàn rỗi trong Tăng Ni Phật tử, tích cực kêu gọi mọi người tham gia mua trái phiếu chính phủ, góp phần xây dựng đất nước.
Ngoài các công tác hoằng dương Phật pháp, tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức, Hòa thượng còn lưu lại nhiều tác phẩm văn hóa giáo dục Phật giáo:
- Diễn thuyết tập - Hà Nội, 1951.
- Phật pháp sơ học - Hà Nội, 1952.
- Nghiên cứu về tư tưởng bản giác của Phật giáo (Nhật ngữ).
- Lịch sử Phật giáo Trung Quốc.
- Lược sử Phật giáo Ấn Độ.
- Lược giảng Kinh Pháp Hoa.
- Khóa hư lục.
- Kinh Viên Giác.
- Thiền lâm bảo huấn.
- Pháp Hoa yếu lược.
- Luật học đại cương.
- Luận A Tỳ Đàm Câu Xá.
- Sách dạy cắm hoa Nhật Bản ngành Sògetsuryu.
Và nhiều bài đăng trên các báo Phật giáo: Phương Tiện, Đuốc Tuệ, Vạn Hạnh, Từ Bi, Giác Ngộ,…
Từ năm 1987, Tổ đình Vĩnh Nghiêm được chọn làm nơi mở Trường hạ cấp Thành phố, Hòa thượng luôn đảm nhiệm ngôi vị Phó Thiền chủ kiêm Hóa chủ, chuyên lo việc tu học, ẩm thực cho chư Tăng. Năm 1988, Trường Cơ bản Phật học được mở tại chùa Vĩnh Nghiêm, Hòa thượng làm Hiệu phó đặc trách Giám luật cho đến ngày xả báo an tường.
Để đền đáp công ơn Thầy Tổ và trang nghiêm ngôi Tam bảo, Hòa thượng đã cùng sơn môn pháp phái nỗ lực trùng tu chốn Tổ Trung Hậu, tỉnh Vĩnh Phú, hoàn thành trang nghiêm tú lệ, xứng đáng là cơ sở Phật giáo tại địa phương và Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Nhằm giao lưu học hỏi Phật giáo thế giới, và đưa Tăng Ni trong nước đi đào tạo tại nước ngoài, Hòa thượng đã đón tiếp và giao lưu hợp tác với rất nhiều phái đoàn Phật giáo quốc tế như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan,…
Đối với công đức của Hòa thượng đã hiến dâng trọn đời cho đạo pháp và chúng sinh cũng như xã hội, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tặng Huy chương Vì sự nghiệp Đoàn kết Toàn dân, Bằng khen Người tốt Việc tốt và nhiều bằng tuyên dương công đức,...
IV. VIÊN TỊCH
Những tưởng Hòa thượng trên bước đường phục vụ đạo pháp và chúng sinh còn đóng góp nhiều hơn nữa, thế nhưng vào ngày 26/10/2000, Hòa thượng lâm trọng bệnh. Mặc dù đã được Giáo hội, Thành hội Phật giáo, Ban Đại diện Phật giáo Quận 3, môn phái Tổ đình Vĩnh Nghiêm và các y, bác sĩ bệnh viện Chợ Rẫy tận tình cứu chữa, nhưng Hòa thượng đã thuận lý vô thường, thâu thần an nhiên thị tịch vào lúc 1 giờ 30 ngày 30/12/2000 (nhằm ngày 5 tháng Chạp năm Canh Thìn) tại phương trượng chùa Vĩnh Nghiêm, trụ thế 80 năm, hạ lạp 58 năm.
Thế là Hòa thượng đã từ bỏ huyễn thân, trở về thế giới Niết bàn vô dư bất diệt, nhưng công đức và đạo hạnh của Hòa thượng vẫn còn lưu lại thế gian, trong tâm tư ký ức của Tăng Ni, Phật tử Việt Nam, trong lịch sử Phật giáo Việt Nam hiện tại và mai sau.
NAM MÔ MA HA SA MÔN TỲ KHEO BỒ TÁT GIỚI, PHÁP HÚY THÍCH THANH KIỂM, HIỆU CHÂN TỪ, VŨ CÔNG ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG THIỀN TỌA HẠ