(701 - 1200 Tây lịch)
I. Mối quan hệ giữa Mật giáo và Ấn Độ giáo
Mật giáo là tiếng gọi tắt của Bí mật Phật giáo. Trên phương diện giáo lý và giáo tướng của Mật giáo thì được phát triển từ tư tưởng của Đại thừa Phật giáo, nhưng ở phương diện sự tướng của Mật giáo thì chịu ảnh hưởng nghi thức tác pháp của Tân Bà La Môn giáo, tức là Ấn Độ giáo. Thí dụ như đồ hình Mandala (Mạn Trà La) của Mật giáo, trong đồ hình đó, một mặt thì phối trí các hình chư Phật, một mặt kết hợp các vị thần của Bà La Môn giáo. Mandala của Mật giáo có nhiều thứ khác nhau, nhưng Mandala chính để tượng trưng cho Chân thực giới của Mật giáo thì phối trí Ngũ Phật hay Lục Phật. Tức là ở trung tâm của đồ hình Mandala có hình Đại Nhật Phật, bốn phương của đồ hình có bốn Đức Phật là A Sơ Phật, Bảo Sinh Phật, Bất Không Thành Tựu Phật, và A Di Đà Phật, gọi là Ngũ Phật, hoặc trên năm Đức Phật này lại thêm Đức Phật Kim Cương Tát Đỏa (Vajrasattva), gọi là Lục Phật. Ngoài ra còn có rất nhiều Mandala của chư Bồ tát và các thần của ngoại giáo. Các đồ hình Mandala tuy nhiều, nhưng hình tướng và màu sắc của nó đại khái có hai phương pháp là hóa hiện và điều phục. Hóa hiện có ý nghĩa là chư Phật và Bồ tát vì mục đích hóa độ chúng sinh, nên phương tiện quyền hiện ra hình tướng các thần của ngoại giáo. Thí dụ như Đức Quan Âm hóa hiện ra 33 thân là Phạm Thiên, Đế Thích và Đại Tự Tại Thiên v.v. Điều phục có ý nghĩa là chư Phật và Bồ tát dùng rất nhiều uy lực quyền thế để chinh phục các thần của ngoại đạo, khiến các thần đó quay về với Phật giáo. Vì lý do có mối quan hệ như vậy nên hình tướng của chư Phật, Bồ tát và các thần của Ấn Độ giáo dần dần trở thành một quan điểm chung nhau.
Sự tướng của Mật giáo như các cách tụng thần chú, quán Du già v.v. không phải là lối thực hành đặc biệt của Mật giáo mà là chịu ảnh hưởng từ tập tục cổ truyền của dân tộc Ấn Độ và Bà La Môn giáo. Thí dụ như pháp thiền định của Phật giáo thì chú trọng ở chỗ đạt tới trí tuệ, nhưng phép quán Du già của Mật giáo lại chú trọng ở mục tiêu cầu phúc trừ tai cho thế gian.
Sau hết là sự quan hệ mật thiết giữa Tính Lực phái (phái Sàkta) của Ấn Độ giáo, và phái Kim Cương thừa (Vajrayàna) của Mật giáo. Vốn Tính lực phái thì sùng bái nữ thần Durga, nghi thức của phái này rất là bí mật, có nhiều trò ma thuật, nhiều hình thức dâm đãng. Sau, lối thực hành của phái này ảnh hưởng vào lối thực hành của phái “Kim Cương thừa”, nên phái Kim Cương thừa dần dần bị đọa lạc vào vòng tà đạo, và cũng là nguyên nhân đọa lạc của Mật giáo.
Sự giao thiệp giữa Mật giáo và Ấn Độ giáo cứ mỗi ngày một rõ rệt, một mặt thì Mật giáo tiếp nhận các yếu tố hành pháp của Ấn Độ giáo, một mặt thì Ấn Độ giáo tiếp nhận các lối hành pháp của Mật giáo, nên hai giáo trở thành một trạng thái hỗn hợp khó thể phân biệt được rõ ràng.
II. Tư tưởng Mật giáo được thành lập
Khởi nguyên tư tưởng của Mật giáo có thể đã có từ thời đại nguyên thủy kinh điển. Vì trong nguyên thủy kinh điển có thấy chép các thần chú thủ hộ trong các bộ luật và trong kinh khổng tước. Nhưng đó chỉ là sự phôi thai của tư tưởng Mật giáo. Tư tưởng Mật giáo được thành lập một cách đích xác là ở khoảng thế kỷ thứ VII, khi bộ Đại Nhật Kinh được xuất hiện ở Nam Ấn Độ. Sau khi bộ kinh này xuất hiện thì Mật giáo cũng được thành lập. Bộ kinh này gọi đủ tức là Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Thần Biến Gia Trì Kinh, gồm 7 quyển, 63 phẩm. Tư tưởng căn bản của bộ kinh này là “Tức sự nhi chân”, rút ở hệ thống tư tưởng của Hoa Nghiêm Kinh. Mật giáo lấy bộ kinh này làm căn cứ và gọi là phái “Chân Ngôn thừa” (Mantra yàna). Phái này là phái thuần túy của Mật giáo, nên gọi là “Hữu Đạo Mật giáo”. Phái này đại biểu cho phần lý luận của Mật giáo.
Tới khoảng cuối thế kỷ thứ VII, lại có bộ Kim Cương Đính Kinh xuất hiện, bộ kinh này gồm có 18 hội, 10 vạn bài tụng. Nội dung của bộ kinh này thuộc hệ thống “Du già hành phái”, nương vào tâm thức mà tổ chức thành. Hệ thống Mật giáo y vào bộ kinh này làm căn bản, gọi là phái “Kim Cương thừa” (Vajra yàna). Nhưng phái Mật giáo này về sau kết hợp với Tính lực phái của Ấn Độ giáo, đọa lạc vào vòng tà đạo, nên lại gọi là “Tả đạo Mật giáo”. Phái này đại biểu cho phần thực tế của Mật giáo.
III. Sự phát triển của Mật giáo
Hai hệ thống “Chân Ngôn thừa” và “Kim Cương thừa” của Mật giáo sau khi xuất hiện, thì tư tưởng Mật giáo phát triển mạnh mẽ trên lãnh thổ Ấn Độ. Trong hai hệ thống này, “Chân Ngôn thừa” thì chú trọng phần lý luận, nên kém phát triển ở phương diện thực tế, trái lại “Kim Cương thừa” chú trọng phần thực tế, nên kém phát triển ở phương diện lý luận. Từ khoảng thế kỷ thứ X trở về sau, vì “Kim Cương thừa” kết hợp với phái Tính lực của Ấn Độ giáo, nên phái này đặt ra nhiều phương pháp thực hành theo tà giáo, dần dần đi vào vòng đọa lạc, lấy chủ nghĩa khoái lạc, dục vọng cho là diệu lý chí chân, làm mất hẳn cái bản lai chân tướng của Phật giáo.
Trong lúc Mật giáo đang phát triển, các vương triều Pàla thuộc Đông Ấn đều bảo hộ Phật giáo, nhất là vua Dharmapàla (Pháp Hộ), dựng ra ngôi chùa rất lớn ở thế kỷ thứ VIII, tức là ngôi chùa Vikramasilà, để làm nơi đạo tràng căn bản cho Mật giáo. Các bậc thạc học của Mật giáo phần nhiều đều xuất thân từ ngôi chùa này.
Vì thế, ngôi chùa này cũng là nơi trước tác của nhiều bộ kinh điển thuộc Mật giáo. Thí dụ như bộ Như Lai Tam Nghiệp Bí Mật Kinh (Tathàgata Guhyaka Guhyasamàja), Sàdhanamàlà và rất nhiều các “Nghi quỹ” (Tantra) v.v. Như Lai Tam Nghiệp Bí Mật Kinh có ghi chép rất nhiều lối tác pháp kỳ quái, đó chính là ảnh hưởng tư tưởng phái Tính lực của Ấn Độ giáo.
Trên phương diện truyền bá tư tưởng Mật giáo và làm cho Mật giáo được phát triển ở Ấn Độ, Trung Quốc, Tây Tạng và các nước khác thì có các vị đại học giả như Ngài Thiện Vô Úy (Subha Karasimha, 637 - 735), người Trung Ấn; Ngài Kim Cương Trí (Vajra Bodhi, 671 - 741), người Nam Ấn, và Ngài Bất Không Kim Cương (Amoghavajra, 705 - 774), người Sri Lanka. Ba vị này không những làm cho Mật giáo hưng thịnh ở trong nước, mà các Ngài đều cùng lần lượt đem tư tưởng Mật giáo sang Trung Quốc, phiên dịch nhiều kinh điển của Mật giáo sang chữ Hán, làm cho Mật giáo ở Trung Quốc phát triển rất mạnh mẽ. Cũng ở thế kỷ thứ VIII, lại có Ngài Liên Hoa Sinh (Padmasambava) xuất hiện, Ngài đem Mật giáo truyền bá sang Tây Tạng và sáng lập ra Lạt Ma giáo ở Tây Tạng. Từ thế kỷ thứ VIII trở về sau, cũng có nhiều vị học giả của Mật giáo xuất hiện, đều là những vị xuất thân ở chùa Vikramasila. Đặc biệt ở thế kỷ thứ XI, có Ngài Dipankarasrijnàna tức là Atisa ra đời, Ngài cũng sang Tây Tạng truyền tư tưởng Mật giáo, và trở thành một nhà đại phiên dịch của Tây Tạng. Còn các nước thuộc Đông Nam Á như: Sri Lanka, Myanmar, Campuchia, đảo Java, Sumatra v.v. Mật giáo cũng đều được truyền vào. Chính lối kiến trúc cung thành như: Angkor Thom và Angkor Wat của Campuchia ở thế kỷ thứ XII, đó cũng là những kết tinh của tư tưởng Mật giáo.
IV. Quân Hồi giáo xâm nhập và bi kịch của Phật giáo
Từ thế kỷ thứ VIII, quân Hồi giáo thuộc hệ thống Thổ Nhĩ Kỳ đã xâm nhập vào phía Tây Bắc Ấn Độ. Rồi từ thế kỷ này cho tới thế kỷ thứ XI, đã bao lần quân Hồi giáo xâm nhập, đánh phá Trung Ấn Độ, gây nhiều tai hại cho Phật giáo và gieo bao nỗi đau khổ cho dân tộc Ấn Độ. Để phản kháng quân Hồi giáo, các tôn giáo của Ấn Độ liên kết lại, lập thành một tôn giáo gọi là “Thời Luân giáo” (Kàlacakra Tantra), tôn giáo này là một biến hình của Mật giáo. Nhưng tới đầu thế kỷ thứ XIII, tức là năm 1203, quân Hồi giáo do tướng Iktyàr Uddìn chỉ huy, đem đại quân tiến vào Trung Ấn Độ, tiêu diệt vương triều Sena, rồi làm bá chủ khắp Trung Ấn. Trung Ấn trở thành lãnh thổ của đế quốc Hồi giáo. Sau đó, thế lực của Hồi giáo dần dần lan đi các nơi.
Vì mục đích lập ra một đế quốc Hồi giáo, nên quân đội Hồi giáo rất hung ác, tàn bạo. Đi đến nơi nào, nếu là người khác giáo thì họ đều giết hại. Vậy nên, Phật giáo cũng như Ấn Độ giáo, đều bị thảm họa chung, trong lúc quân Hồi giáo xâm nhập. Nhưng riêng về Phật giáo, thì quân Hồi giáo lại đối đãi tàn ngược hơn; họ phá hủy chùa tháp, thiêu đốt kinh điển, tịch thu bảo vật, hãm hại Tăng Ni, làm cho Phật giáo hầu như đến chỗ tiêu diệt. Các vị cao Tăng lúc bấy giờ, một mặt thì phải ẩn náu trong rừng núi, một mặt chạy trốn sang Tây Tạng hoặc nước khác. Đó thực là một trang sử rất đau thương trong lịch sử Phật giáo.
Phật giáo ở Ấn Độ trải qua 1.700 năm lịch sử, đã từng làm chủ về tư tưởng của toàn Ấn Độ, thay được địa vị độc tôn của Bà La Môn giáo, nhất là Phật giáo ở dưới thời đại hai vương triều A Dục vương và Ca Nị Sắc Ca cực kỳ phồn thịnh. Phật giáo đã phát triển thành một đại tôn giáo của thế giới. Qua thời đại Đại thừa Phật giáo tới thời đại Mật giáo, đã có biết bao những vị Thánh tăng, đại học sĩ ra đời, tổ chức Phật giáo thành một hệ thống giáo học có quy mô khoa học. Nhưng theo định luật biến thiên, di chuyển của thời đại có thịnh tất phải có suy, nên Phật giáo cũng không thoát khỏi cái vòng định luật đó.
Tuy nhiên, Phật giáo bị suy tàn ở Ấn Độ lúc đương thời, nhưng ánh sáng của Phật giáo đã lan tràn đi các ngả, chiếu vào mọi chốn, khắp nơi, và hiện nay ánh sáng đó đang chiếu trở về nơi bản xứ.
Nghĩa là, từ cuối thế kỷ XIV cho tới hiện nay, Phật giáo trên dải đất Ấn Độ đã có cơ hội phục hưng và đang phát triển. Tính trong số những người đứng ra vận động phục hưng thì nhà Phật học uyên thâm là Anagarika Dharmapala là người có công huân hơn cả.
Angarika Dharmapala là người Sri Lanka. Ông là con một nhà tín đồ Phật giáo ở Colombo, thủ đô của Sri Lanka. Ngay từ khi còn nhỏ, ông thường phải theo học ở trường học của Thiên Chúa giáo, mỗi ngày phải đọc kinh cầu nguyện tại trường, tuy vậy, ông vẫn tỏ ra là con một tín đồ thuần thành của Phật giáo. Nhân khi Đại tá Henry Steel Ocott, người Hoa Kỳ, qua Sri Lanka chấn hưng Phật giáo, thì ông A. Dharmapala là một người giúp việc đắc lực cho Đại tá. Vì thế, lòng mộ đạo của ông ngày một vững. Sự nghiên cứu đạo Phật ngày một uyên thâm, đi đôi với mục đích duy nhất của ông là phải chấn hưng Phật giáo tại Sri Lanka và Ấn Độ.
Năm 1891 là năm ông 29 tuổi. Ông qua Ấn Độ chiêm bái các nơi Phật tích, trước hết, ông tới Lộc Dã Uyển (Mrgadana), nơi thuyết pháp đầu tiên của Đức Phật, tại nơi đây, ông đã chứng kiến di cảnh điêu tàn nơi Thánh địa. Rồi ông lại tiếp tục tới chiêm bái Bồ Đề đạo tràng, hay gọi là nơi Phật thành đạo (Phật Đà Già Da, Buddha Gayà). Gặp cảnh sinh tâm, nên ông vô cùng xúc động mà phát ra lời thệ nguyện1: “Uy nghiêm thay! Nơi Thánh tích! Thực quả là một thắng cảnh không gì so sánh bằng của thế giới. Mỗi Phật tử chúng ta, ai nấy cũng phải có nhiệm vụ bảo hộ duy trì nơi Thánh địa này tới khi nào có các vị tu hành tới quản đốc, không thể để cho một Thánh địa vĩ đại như thế này phải đoạn tuyệt”. Rồi ông lấy ngày 21 tháng 01 năm 1891, ngày ông chiêm bái làm ngày kỷ niệm phục hưng Phật giáo Ấn Độ.
1 Theo Phật Giáo Đại Niên Giám năm 1961, trang 73 (Nhật Bản).
Năm 1892, ông đi truyền bá đạo Phật ở Calcutta, và thường diễn thuyết với đề tài “Sự quan hệ giữa Phật giáo và Ấn Độ giáo”. Đồng thời, ông cho phát hành tờ Tạp chí Bồ Đề (Bodhi Journal) làm cơ quan truyền bá Phật giáo, và liên lạc với Phật giáo đồ của các nước trên thế giới, kêu gọi sự ủng hộ “phục hưng Phật tích” tại Ấn Độ.
Ông còn tiếp tục đi đến các nước Nhật Bản, Hawaii, Hoa Kỳ, châu Âu để liên kết sự hộ trì thiết thực của các nước. Sau khi trở về, ông sáng lập một hội Phật giáo để đảm nhiệm công cuộc vận động chấn hưng Phật giáo tại Ấn Độ, lấy tên là “Hội Đại Bồ đề Ấn Độ” (Maha Bodhi Society of India).
Tới ngày 13 tháng 7 năm 1930, ông chính thức được thế phát xuất gia. Càng về tuổi già, sự hoạt động của Ngài càng tinh tiến. Mỗi khi diễn thuyết trước các tín đồ, Ngài thường trịnh trọng tuyên bố: “Phật giáo đồ Ấn Độ đã bị hủy diệt một thời gian dài 800 năm, ngày nay mọi người họ đã và đang tiếp tục quay trở về cố quốc. Tất cả chúng ta hãy thức tỉnh, vượt lên chế độ giai cấp và tín điều, với mục đích duy nhất của Hội Đại Bồ đề là đem giáo lý của đức Phật tặng mọi người dân Ấn Độ”.
Công việc hoạt động của Ngài đang tiến hành, tới tháng 12 năm 1932, Ngài bị bệnh mà mất. Các đệ tử của Ngài kế thừa sự nghiệp, duy trì Hội Đại Bồ đề cho tới hiện nay. Hội này là một trong những hội Phật giáo hoạt động mạnh nhất tại Ấn Độ.
Nhờ có Hội Đại Bồ đề hoạt động và các hội Phật giáo khác ở Ấn Độ, nên số tín đồ của Phật giáo Ấn Độ ngày một tăng, mỗi ngày một phát triển. Hơn thế, Ấn Độ hiện nay là một nước ban bố chính thể cộng hòa, tất nhiên phải coi “bốn giai cấp bình đẳng” làm nền tảng căn bản cho “chủ nghĩa Dân chủ”, mà yếu tố này lại rất hợp với chủ nghĩa “Từ bi bình đẳng, phá bỏ giai cấp” của Phật giáo chủ trương. Vì vậy, hiện nay các vị lãnh tụ, các chính trị gia của Ấn Độ đều hằng lưu ý đến công cuộc chấn hưng Phật giáo tại bản xứ.
Theo sự thống kê năm 1957 của Hội Quốc Liên về dân số Ấn Độ như sau:
Diện tích: 3.288.876 km2.
Dân số: 392.440.000 người.
Thủ đô: New Delhi.
Tín đồ Phật giáo ước: 4.000.000 người.