Chào cờ xong, bốn đứa chúng tôi hớn hở kéo nhau về lớp. Cô giáo Mùi đi bên chúng tôi. Cô vừa cười vừa bảo:
- Thế là hôm nay nhờ các em mà cô cũng được biểu dương đấy nhé! Khen lớp 7A tức là khen cả trò cả thầy chứ, các em nhỉ!
Chúng tôi cười sung sướng. Cô giáo ngoảnh lại tôi nói tiếp:
- Hoan hô Việt vừa ốm dậy đã được việc tốt. À, chiều nay làm xong việc ở vườn địa lý, Việt ghé vào nhà cô chơi nhé!
- Thưa cô, học xong em đến ngay ạ.
- Không! Hôm nay học đến 12 giờ mới hết tiết cuối cùng, em phải về ăn cơm kẻo đói. Chiều mới được đến đấy!
Cô giáo nói thế rồi cắp quyển sách lịch sử bước vào lớp 5D.
Hôm nay, cảnh vật trước mắt tôi đều như nhuốm một màu sắc mới. Dải khăn đỏ trên vai các bạn tôi dường như thắm hơn mọi ngày và rặng xà cừ bên mái lớp bỗng óng lên một màu xanh hết sức trẻ trung. Tôi học bài nào cũng thấy thích thú hơn nhiều. Các thầy giảng đến đâu, tôi hiểu ngay. nhớ ngay đến đấy. Cuối giờ toán, thầy Minh ra cho cả lớp một bài tập ngắn. Lúc thu bài, vẻ mặt thầy vui lắm, có lẽ vì hầu hết học sinh đều làm được bài. Giá thằng Chiến đi học, không chừng nó làm được cũng nên. Hôm nay vì sao nó nghỉ nhỉ? Tôi áy náy vì mối quan hệ giữa tôi với nó hình như có một cái nút thắt nào đó vẫn chưa gỡ được. Chẳng rõ nó có còn giận tôi không? Hai ba hôm rồi, vào lớp, nó ngồi yên một chỗ, hết giờ lại cắm cúi về. Tính tôi thích vui, mà nó thì mặt mày cứ ủ ê, khó hiểu, khó gần quá!
Buổi chiều, ghi bảng “Tình hình thời tiết” xong, tôi vào ngay nhà tập thể, tìm cô giáo. Rón rén bước qua hàng hiên dài hun hút, tôi dừng lại, đứng thập thò trước cửa phòng số 12. Cô giáo đang dỗ con. Đứa lớn, thằng cu Tuấn, cứ giật giật món tóc dày và đen mượt của mẹ, nằng nặc đòi: “Mẹ mua ngựa gỗ cho con cơ!”. Đứa bé thì quá quắt hơn, vừa khóc thét lên như còi tàu, vừa đạp đôi chân bụ bẫm vào thành nôi lịch bịch.
Tiếng kẹt cửa làm cô giáo quay mặt ra. Tôi bước vào, bẽn lẽn chào cô. Cô giáo đứng dậy, niềm nở:
- Việt đã đến đấy à. Ngồi tạm xuống đây nào!
Nhà cô giáo bày biện sơ sài quá. Một bức vách dán báo ngăn giữa nơi ngủ và nơi làm việc. Một cái bàn mộc kê sát vách. Hai chồng sách vở cao xếp ngay ngắn trên bàn. Trên vách chẳng thấy tranh ảnh gì, chỉ có một câu khẩu hiệu kẻ chữ hồng rất đẹp: “Tất cả vì học sinh thân yêu của chúng ta!”.
Cu Tuấn thôi không vòi nữa, chạy lại nhìn tôi bằng đôi mắt to rất kháu. Tôi bế phắt nó lên đùi. Cô giáo vừa đẩy nôi vừa hỏi tôi đủ chuyện, nào là đã khỏe hẳn chưa, mỗi bữa ăn được mấy bát cơm, nào là bài vở các bạn ghi hộ còn thiếu bài nào không, nào là bà tôi đã bắt đầu nhận việc ở cửa hàng hợp tác xã mua bán của xã chưa... Tôi bèn kể cho cô nghe về bà tôi, chuyện bà nhận xét bọn thằng Mạnh, cái Quế “chúng nó vui tính mà tốt quá nhỉ!”, kể cả chuyện bà tôi đến giờ vẫn còn cất giữ cẩn thận nắm lá mơ lông của cái Cúc. Hai thầy trò cùng cười. Con bé nằm trong nôi đã gà gà ngủ cũng mở choàng mắt ra, ngơ ngác... Tôi bạo dần, bèn hỏi cô giáo rằng vì sao môn tập làm văn của tôi tiến chậm thế, bài nào cũng chỉ ba cộng với bốn trừ! Cô giáo khuyên tôi nên tập ghi nhật ký, vừa để tu dưỡng, rèn luyện tư tưởng đạo đức, vừa để trau dồi thêm môn văn. Cô bảo rằng đọc sách cũng giúp ích nhiều cho môn văn, nhưng... Sực nhớ điều gì, cô hỏi:
- À, bố em đã viết thư về chưa?
- Rồi ạ. Em nhận được thư cha em từ chiều thứ năm.
Tôi khoe thêm: lần này cha tôi gửi lên cả một gói sách!
Cô giáo gật gật đầu và hỏi cha tôi gửi lên những cuốn gì. Tôi kể vanh vách: “Em bé bên bờ sông Lai Vu” này, “Vừ A Dính” này, “Đất nước xa xăm” này, “Gương chiến đấu của những người cộng sản” này. Tôi đọc tên mỗi quyển, cô giáo lại gật đầu một cái. Chợt cô hỏi:
- Có quyển “Lý Tự Trọng” không?
- Có ạ, quyển “Lý Tự Trọng” của nhà xuất bản Thanh niên...
- Quyển ấy hay lắm Việt ạ. Cô định cuối tháng này tổ chức cho đội mình thảo luận về cuốn ấỳ đấy. Thế còn cuốn “Lều số 13”?
- Dạ, cuốn gì ạ?
- “Lều số 13”. Không có à? Tiếc nhỉ. Chuyện thiếu nhi Đức đấy. Chuyện vui mà có ý nghĩa sâu sắc lắm.
Tôi cau mày cố nhớ... “Lều số 13”, à... đúng là trong gói sách có quyển ấy, nhưng tôi đọc tên sách, nhìn cái bìa thấy chả có gì hấp dẫn nên tôi quên bẵng đi. Tôi bèn reo lên:
- Có! Có, cô ạ! Cha em mua cả cuốn “Lều số 13”!
- Có thế chứ! Cô đã mách với bố em rằng nếu ở hiệu sách Tràng Tiền bán hết cuốn ấy rồi thì cứ chịu khó tìm ở mấy hiệu sách nhỏ, thế nào cũng còn mà!
Tôi chợt hiểu ra... ồ, thảo nào!... Từ trước đến nay, biết tôi mê sách, cha tôi vẫn chiều tôi, cho tôi tiền rồi tùy tôi thích quyển nào cứ mua mà đọc. Bây giờ, cha tôi lại chọn mua sách tận Hà Nội gửi lên...
Ngồi im một lúc, tôi rụt rè hỏi cô giáo:
- Thưa cô, cô gọi em vào, cô bảo việc gì ạ?
Cô giáo vẫn không ngừng đẩy nôi:
- À, bảo Việt vào chơi, thầy trò mình nói chuyện thôi. Tổ 4 dạo này học tập tiến bộ đấy chứ, Việt nhỉ...
Tôi không trả lời ngay. Quả thật hai tuần nay, “mũi tên xanh” đã nhích lên, chậm nhưng chắc. Sau cuộc họp giữa tháng 9, tổ 4 chúng tôi đứa nào cũng cố gắng rõ rệt. Ngay thằng Cao cũng chỉ mới dính một điểm 2 về bài sử kiểm tra tổng kết cuối chương. Thực ra, thằng Cao không phải học quá kém. Nó chỉ lười, mải chơi thôi. Từ cuối tháng 9, được cô giáo và tập thể góp ý giúp đỡ, nó đã học chăm hơn, hàng tuần chỉ xem phim vào tối thứ bảy, còn thì ở nhà học bài, nên tiến bộ trông thấy. Duy có thằng Chiến... Cô giáo khen tổ 4 mà sao tôi nghe như một lời trách móc. Tôi mân mê cái cổ áo của cu Tuấn, ngập ngừng:
- Thưa cô... “đôi bạn 8 điểm” của em...
- Sao? - Cô giáo ngừng tay, chăm chú nhìn tôi.
- Thưa cô... Giúp bạn Chiến khó lắm ạ. Bạn ấy tính nết lầm lì, khó hiểu, đã học kém lại hay nghỉ vặt, hôm nay lại nghỉ bừa đấy cô ạ...
- Sao em biết Chiến nghỉ bừa?
- Thưa cô, - tôi lúng túng, - ... bạn ấy rất ham chơi, trưa hôm nọ học nhóm, bạn ấy chỉ rình về...
Cô giáo mỉm cười, làm tôi đâm ra phân vân. Cô với tay nhấc quyển sổ điểm trên bàn, giở vài trang, lấy ra một mảnh giấy bằng hai bàn tay. Tôi liếc ngay thấy ba chữ viết nắn nót trên đầu: “Giấy xin phép”. Cô giáo bảo:
- Em đọc đi.
Tôi rón rén cầm tờ giấy, mắt lướt theo những nét chữ tròn tròn:
Lâm Thao, ngày 5 tháng 10 năm 1961
Giấy xin phép
Thưa cô,
Em là Hoàng Quyết Chiến, học sinh lớp 7A của cô. Tối hôm qua mẹ em lại lên cơn, đau lắm cô ạ. Thuốc ở trạm xá hết mất rồi. Em phải lên thị xã Phú Thọ mua thuốc. Xin cô cho phép em nghỉ ngày thứ bảy. Thứ hai em sẽ đi học như thường.
Em cảm ơn cô.
Học sinh Hoàng Quyết Chiến
Tôi trả tờ giấy phép cho cô giáo, ngượng ngùng quay mặt ra cửa. Cô giáo nói khẽ:
- Mẹ Chiến đau dạ dày, nặng lắm, Việt ạ. Chiến học sút hẳn đi, một phần vì thế. Việt có biết gì về thày của Chiến không?
- Dạ, em nghe nói bạn ấy chỉ còn có mẹ...
- Việt hiểu bạn còn ít đấy, em ạ...
Cô giáo kể qua cho tôi nghe về gia đình Chiến. Bố của Chiến hy sinh trong một trận chống càn, người chỉ huy du kích ấy đã trúng đạn ngã xuống giữa một vườn chuối trĩu buồng ven sông Thao. Năm ấy, Chiến lên ba và đứa em trai còn ẵm ngửa. Mẹ Chiến một mình tần tảo nuôi hai con. Sống với xóm làng, lá lành lá rách đùm bọc lấy nhau, cái gia đình thiếu cánh tay người đàn ông ấy vẫn đứng vững. Hai đứa con trai vẫn được theo học đều đặn... Nhưng từ tháng tư năm nay, người mẹ phát bệnh dạ dày... Gia đình Chiến gặp thêm nhiều khó khăn...
- Không phải Chiến lười đâu, Việt ạ - Cô giáo nói tiếp. - Cũng không phải bản tính Chiến lầm lì đâu. Dạo trước, Chiến vui lắm. Cô còn nhớ, trong buổi liên hoan dịp Tết năm ngoái, Chiến lên trình bày tiết mục bắt chước tiếng gà gáy, chó sủa, cả lớp cười nôn ruột... Đấy, em cứ chơi với bạn thật thân...
- Vâng, thưa cô, em sẽ cố gắng giúp Chiến ạ. Sáng mai, em sẽ đến thăm bạn ấy.
- Có đến thì nhớ mang theo vở cho Chiến chép bài với nhé.
- Vâng ạ.
Con bé trong nôi đã ngủ say, thở đều đều. Cô giáo buông màn cho nó rồi đứng dậy đưa tôi ra cửa. Cu Tuấn cứ bám chặt áo tôi. Thằng bé thật dạn. Thằng Mạnh kể lại rằng Tết vừa rồi, bố cu Tuấn ở đồn biên phòng trên Tây Bắc về phép, cu Tuấn cứ khóc giãy lên đòi chơi súng lục. Bố cu Tuấn đẽo cho cu Tuấn một cái súng gỗ rõ đẹp, nhưng cu Tuấn quẳng đi: “Con thèm vào súng gỗ! Con chơi súng trong bao da cơ, súng ở thắt lưng bố cơ!”. Bọn học sinh 7A chúng tôi đứa nào cũng yêu nó. Lúc đi chơi, nhiều đứa tạt vào phòng số 12 này để dúi vào tay cu Tuấn một món quà nhỏ: Một chú thỏ gấp bằng giấy cứng, có đôi tai dựng đứng; hoặc một con châu chấu voi buộc chỉ, đã vặt trụi hai càng. Hôm nay tôi quên chẳng mang gì cho cu Tuấn. Được rồi, thứ hai sắp đến, tôi sẽ kết cho cu cậu một cái chong chóng lá dừa, rõ xinh, rõ nhạy, chỉ gió phe phẩy thôi cũng quay vù như cánh quạt máy bay ấy!
Sáng chủ nhật. Trời đẹp quá. Nắng thu dìu dịu. Những đám mây trắng xốp như bông bay lơ lửng trên bầu trời xanh ngắt. Có những tảng tinh nghịch, sà sát đỉnh đồi đất đỏ, trùm lên mặt đất những khoảng bóng râm khổng lồ lướt nhanh vùn vụt.
Tôi lững thững đến nhà Chiến, mang theo quyển vở toán. Từ phố huyện ra xóm bãi tôi phải vượt một ngọn đồi cao, một quãng đê ngắn rồi đến một bãi cát trắng mịn, mọc lên lác đác những đám cỏ gai vàng xơ xác.
Nhà thằng Chiến ở ngay đầu xóm. Thoạt vào đến cổng tôi đã nghe tiếng nó léo nhéo gọi em. Nó ngồi quấy rau cám cạnh chuồng lợn, mặt quay nghiêng, mắt hấp háy vì hơi nước bay lên nghi ngút. Cạnh đó, con lợn lang khịt khịt mũi đánh hơi, cái bụng phệ cọ sàn sạt xuống sân, mẩu đuôi ngắn ngủn ngoe nguẩy như sốt ruột giục quấy mau mau cho chóng nguội.
Thấy tôi đến, thằng Chiến ngẩn ra:
- Ô, Việt đấy à?
Tôi hỏi liền:
- Mẹ cậu đâu?
- Bầm tớ nằm ở trạm xá chứ.
- Hôm qua cậu về lúc nào?
- À... tối mịt mới đến nhà. Nắng hoa cả mắt, mệt bã người. Đêm qua tớ đánh một giấc thẳng đến sáng, chẳng biết trời đất gì. Ây chết, vào nhà đi.
Tôi vẫn đứng bên bậc cửa, tò mò nhìn ngang, nhìn ngửa. Ngôi nhà cột xoan xinh xắn chỉ có ba gian kể cả buồng. Cái bàn thờ nhỏ đã long sơn nép sát vách. Sách vở xếp làm một chồng gọn. Quần áo vắt ngay ngắn trên cây sào nứa treo ở cuối chiếc giường tre. Không một chút mạng nhện. Nhìn vào đâu cũng thấy dấu vết một bàn tay thu xếp ngăn nắp. Duy chỉ có mái nhà lợp đã lâu, lá cùn lắm rồi, tôi thấy rải rác những chấm nắng tròn tròn đọng sáng trên nền nhà âm ẩm.
- Nhà tớ nghèo lắm, Việt nhỉ. - Thằng Chiến nói.
- Ô, có ba mẹ con, ở thế này rộng chán.
Tôi an ủi, chỉ sợ nó buồn. Nhưng nó vẫn tươi tỉnh như không. Nó cười và nói thêm rằng xóm bãi này chỉ còn nhà nó nhỏ nhất. Hơn chục gia đình vừa xây nhà gạch, mái ngói đỏ chóe. Lại còn vô khối nhà đang trữ vôi, trữ cát. Lò gạch của hợp tác xã ra mẻ nào hết nhẵn mẻ ấy, phải đặt trước hàng nửa năm mới có phần. Nó nói:
- Ây, bầm tớ ốm mãi, chẳng có người theo công điểm, nhà tớ mới túng thế. Rồi bầm tớ khỏe, tớ lớn lên, thằng Thắng nhà tớ lớn lên, nhiều công lao động, nhất định tớ cũng xây nhà gạch. Vài năm nữa mời cậu Việt đến chơi nhé! Anh em tớ đón cậu vào nhà gạch ngồi uống nước, tha hồ mát mẻ!
Nó lại cười. Tôi cũng cười theo. Tôi trả lời:
- Ừ được, vài năm nữa tớ lại đến. Nhưng cậu còn bé thế này, biết bao giờ xây được nhà gạch? Còn thằng Thắng nhà cậu nữa, nó đâu rồi, tớ xem nó bằng ngần nào nào?
- Cu cậu ở sau hè. Tớ phải lôi nó vào đã.
Chiến vừa nhấc chân lên, con lợn đã lao đến, rúc cái mõm dài và ướt nhẫy vào máng rau, táp lấy táp để.
Tôi bước theo Chiến. Nó gọi giật:
- Thắng ơi, Thắng!
Thằng Thắng đứng chầu bên cái lồng sáo treo lủng lẳng ngang cành ổi. Nó giống anh nó như tạc, cũng cái dáng thâm thấp to ngang, cái trán dô ra bướng bỉnh. Thắng lờ tịt anh đi. Nó dứ con chuồn chuồn ớt đỏ chót vào mỏ con sáo ngà:
- Nói đi, sáo ơi! Nói đi, tao cho mày con chuồn chuồn, sáo ơi.
Chiến lắc nhẹ vai em:
- Mời ông tướng vào học đi!
- Em tập cho nó nói một câu đã! - Thằng Thắng van vỉ.
- Không.
- Em van anh. Một chút nữa thôi.
Thằng bé chúm miệng huýt sáo. Nó cho sáo uống nước rồi lại dỗ ăn chuồn chuồn. Con sáo vẫn lờ đi, điềm nhiên rỉa lông, rỉa cánh. Thằng bé đành thở dài, bước theo anh vào nhà, sau khi dứ nắm đấm vào sát cửa lồng dọa dẫm con sáo ngà lì lợm.
Tôi bảo thằng Chiến:

- Cậu học lại bài toán hôm qua nhé. Tớ mang vở đây.
- Ừ, chốc nữa. Tớ bảo cu Thắng làm xong bài toán đã.
Tôi bèn ngồi ghé xuống bậu cửa gỗ xoan nhẵn thín, xem hai anh em nó dạy nhau.
Có anh kèm riết, cu Thắng đành giở vở toán ra. Nó đọc rì rầm:
Vừa gà vừa chó
Bó lại cho tròn
Ba mươi sáu con
Một trăm chân chẵn.
Hỏi mấy gà, mấy chó?
Đọc xong một lượt, nó lại liếc mắt qua cái cửa sổ con khoét ở vách, nhìn con sáo đang nhảy nhót rồi lại cúi xuống. Cứ như thế, đến lần thứ ba thì cu cậu đọc lẫn:
Vừa gà vừa sáo
Bó lại cho tròn...
Chiến cau mày:
- Chó chứ sáo đâu mà sáo! Vừa học vừa ngắm sáo, gì chả lẫn! Thôi đừng gào nữa. Nháp đi chứ!
Thằng bé thở dài, cầm bút lên. Nó nháp đặc trang giấy vẫn không ra.
- Toán lớp 4 đâu lại khó thế này! - Cu cậu bỏ bút xuống, càu nhàu.
- Mày xem bài mẫu chưa?
- Em đọc kỹ rồi. Bài này khó gấp mấy bài mẫu ấy chứ. Anh giảng đi.
- Thôi được, dịch lại đây. Bây giờ tao giả thiết ba mươi sáu con là chó cả...
Thằng Thắng reo ầm lên:
- Em nhớ ra rồi! Loại toán giả thiết tạm chứ gì! Thôi, mặc em làm lấy.
Cu cậu loay hoay nháp một lúc, lại lắc đầu:
- Đầu bài toán ra sai mất rồi.
- Láo! Có mày làm sai ấy!
- Em làm đúng chứ. Đây này, em giả thiết có 36 con chó, mỗi chó 4 chân, tất cả 144 chân. Nhưng đầu bài cho biết có 100 chân thôi. Em bớt đi 1 chó vậy. Nếu 35 chó và 1 gà thì còn 142 chân, vẫn sai. Nếu 34 chó, 2 gà, có 140 chân, vẫn không đúng. Em tính mãi, đến chỗ giả thiết có 18 chó, 18 gà, vẫn thừa chân mới bực chứ!
Chiến lăn ra cười:
- Hi hi! Chán cho cái đứa làm mò! Thôi, ghé vào đây tao giảng cho. Nếu 36 con chó cả thì có 144 chân chứ gì. Thừa mất bao nhiêu chân?... Ừ đúng, thừa 44 chân. Cứ bớt một chó, thêm một gà thì bớt được mấy chân? Trừ đi nhé. Bốn chân trừ hai chân, còn hai chân phải không? Cứ thêm một gà thì bớt được 2 chân, cần bớt 44 chân. Vậy phải làm tính gì nào?
- Cộng ạ. - Thằng Thắng nhanh nhảu đáp.
- Láo.
- À quên, trừ ạ.
- Sao lại trừ, hả?
- À không ạ, phải nhân mới đúng.
Chiến vừa vớ lấy cái thước kẻ, thằng Thắng đã kêu toáng lên:
- Ây, ấy, em nghĩ ra rồi, phải chia, chia ạ.
- Có thế chứ! Chia ra, ta được 22 gà. Trừ đi còn lại 14 chó. Mày tính lại xem có chẵn trăm chân không?
- Đúng, đúng, anh giỏi thật!
- Chứ dốt như mày ấy! Coi chừng cuối năm thi hết cấp trượt vỏ chuối, ông tướng ạ.
Thằng bé láu lỉnh:
- Phải, anh học giỏi! Vở toán của anh hàng đống điểm 2!
- Ơ, dốt chưa! Cấp 2 chúng tao bậc điểm có như ở lớp 4 chúng mày đâu!
- Thế điểm 2 là điểm khá à?
Thằng Chiến chống chế:
- À, cũng không khá... nhưng mà... toán lớp 7 người ta học khó chứ, toàn những số lớn, cộng, trừ, nhân, chia hàng tỷ, hàng triệu ấy chứ! Chả thế mà gọi là... đại số! Nghĩa là học toàn những con số... vĩ đại! Mày hiểu chưa?
Thằng Thắng nghếch mắt lên nghe, tưởng thật. Còn tôi, tôi chỉ cười thầm.
Thằng Thắng chép xong bài toán, tôi giục Chiến:
- Thôi nào, ông anh cũng giở vở ra mà học... những số vĩ đại!
- Ấy, để tớ xuống bắc nồi cháo cho bầm tớ cái. À, cậu nghĩ hộ một bài toán tương tự cho cu Thắng làm đi.
Nó đâm nhào xuống bếp, lúi húi nhóm lửa. Tôi bèn ra cho cu Thắng một bài toán loại giả thiết tạm như sau: “Chiến và Thắng gánh thóc từ sân phơi hợp tác xã về nhà, tất cả 9 chuyến, được 230 kg. Mỗi chuyến Chiến gánh được 30 kg, Thắng gánh được 20 kg. Hỏi Chiến gánh mấy chuyến, Thắng gánh mấy chuyến?”.
Thằng bé chép xong đầu bài, toét miệng cười, có vẻ thú vị cái đề toán ấy lắm.
Chiến chạy dưới bếp lên. Tôi giục học. Nó lại khất:
- Cho tớ kèm nốt em tớ bài này, kẻo cu cậu nhảy mất. À, bài toán cậu nghĩ cừ đấy.
Thắng nghếch mặt lên, trề môi dài thượt:
- Chẳng cừ chút nào! Có giống bài chó với gà đâu!
- Mày dốt lắm em ạ. Hai bài giống nhau như hệt.
- Đâu! Một đằng là chó với gà, gà 2 chân, chó 4 chân. Đằng này là em với anh, em thì hai chân, đúng rồi, còn anh... anh có mấy chân nào?
Tôi phì cười. Thằng Chiến cũng cười:
- Á à, định chơi xỏ anh mày phòng. Có là cu Thắng 4 chân ấy, vì cu Thắng dốt như bò. Đầu bài có hỏi chân đâu. Người ta hỏi gánh mấy chuyến chứ.
- Ừ nhỉ.
Cu Thắng chúi mũi làm, cuối cùng cũng tìm được đáp số: Chiến gánh 5 chuyến, Thắng gánh 4 chuyến. Nó khoái lắm, viết đáp số rõ to. Chiến gật gù:
- Giỏi! Thôi cho mày đi chơi với con sáo câm! Yên cho tao học.
Nó đứng lên, khệ nệ ôm chồng vở đặt xuống giường. Đúng lúc ấy, kẻng tan tầm trưa của hợp tác xã đổ một hồi giòn giã. Nó giật mình, nhìn ra. Bóng nắng đã mấp mé giọt tranh.
- Trưa rồi Vỉệt ơi! Tớ phải mang cháo cho bầm tớ bây giờ.
- Thế cậu không học nữa à?
- Hay là... - vẻ mặt thằng Chiến thật thiểu não, - cậu để vở lại đây tớ mượn, chiều có lúc nào rỗi, tớ chép bài vậy.
- Ô, cậu tưởng bài dễ lắm à! Chúng tớ được nghe thầy Minh giảng hai lần mới làm được bài tập đấy!
- Hay là... tối nay tớ ra nhà cậu, cậu giảng cho tớ nghe.
Tôi bỗng nhớ đến những lời cô giáo dặn. Tôi bèn nói:
- Thôi được, cậu cứ xuống bắc cháo đi. Chập tối tớ lại đến.
Thằng Chiến mừng rỡ chạy xuống bếp. Tôi cũng về ngay vì bụng tôi đã sôi lên ong óc. Ra khỏi cổng tôi vẫn còn nghe tiếng thằng Thắng quát tháo ầm ĩ con sáo ngà bướng bỉnh của nó.
Cô giáo bảo đúng thật: cuốn “Lều số 13” hay quá, tôi vừa đọc đã mê ngay. Buổi chiều, học bài và làm bài xong, tôi tranh thủ đọc được vài chục trang, chốc chốc lại mủm mỉm cười một mình vì những chi tiết thú vị, những nhận xét hóm hỉnh. Nhưng tôi vẫn không quên lời hứa với thằng Chiến. Nhà vừa lên đèn, tôi xin phép bà đi ngay.
Trời nhiều mây nhưng đường đi vẫn rõ, nhờ ánh sáng điện bên nhà máy hắt sang. Bãi cát thật êm ả. Từ ngoài sông Thao vẳng lại tiếng sóng vỗ đều đều, nghe như tiếng người rì rầm trò chuyện.
Mái nhà nhỏ của thằng Chiến nằm thu hình trong bóng tối im lìm. Có tiếng nói cười xôn xao đâu từ một ngôi nhà giữa xóm. Có lẽ đội sản xuất đang họp.
Một dải ánh sáng mỏng manh như một tia khói lọt qua khe cửa. Anh em thằng Chiến đang ngồi học bài bên vừng ánh sáng vàng dịu của ngọn đèn con.
- Anh Việt đến chậm tí nữa thì sắn hết nhẵn!
Thằng Thắng nói đùa với tôi. Củ sắn lùi to bằng cổ tay mà anh em nó dành phần tôi vẫn còn nóng hôi hổi. Trong rá có một đống vỏ sắn cháy khét. Tôi bèn đùa lại, làm vẻ dỗi:
- Tớ chả ăn thừa của anh em cậu. Đã dặn người ta đến mà chả đợi!
- Ây, oan anh em tớ! - Thằng Chiến nói. - Chúng tớ chủ tâm đợi Việt, nhưng lại được đón khách... Khách rất quý đấy nhé! Cậu đoán xem ai nào? Đoán được mới giỏi!
- Khách quý thì chỉ có cô giáo thôi!
- Chả phải.
Lạ quá, ai nhỉ? Tôi cố nghĩ. Thằng Chiến cứ cười cười. Cu Thắng định nói mấy lần, bị anh nó ngăn lại. Vừa lúc đó, tôi chú ý đến tờ giấy nháp của thằng Chiến để cạnh ngọn đèn. Mặt tờ giấy đầy những hình vẽ. Tôi nhận ra ngay: chính là bài toán hình vừa học sáng qua. Tôi cũng nhận ra ngay những nét vẽ thật gọn, những chữ a, chữ b ghi tên góc rất tròn trĩnh, những ký hiệu đánh ở các cạnh thật cân xứng... Cách trình bày bài toán cẩn thận, sáng sủa như thế đã thành thân thuộc với học sinh lớp 7A chúng tôi. Thế là tôi đoán ra ngay.
- Giỏi! Cậu tài đấy!
Chiến khen tôi. Tôi trách lại nó:
- Thế mà cậu chả mời thầy giáo ngồi lại chơi.
- Có chứ, có mời chứ, nhưng thầy không ngồi lâu được. Thầy xuống xã thăm học sinh lớp thầy làm chủ nhiệm, đi từ mờ sáng cơ mà.
Thằng Thắng vội khoe:
- Anh Việt ạ, thầy ấy xin đâu được cái bẫy chim bằng thép đẹp lắm! Cái khung bẫy tròn hoay như cái vành nón!
Chiến phì cười:
- Bẫy chim nhà mày đấy! Thế mà cũng đòi nói leo! Cái ấy là cái đồ dùng dạy chương “hình tròn” chứ lị. Thầy giáo tao làm lấy chứ xin ai được mà xin. Thầy giáo nhờ người ta hàn hộ, hôm nay mới lấy về. Thôi, mày im đi cho tao nói chuyện. Việt ạ, tớ nài mãi thầy mới chịu ăn với anh em tớ nửa củ sắn. Giảng xong bài hình, thầy về ngay. Thầy bảo còn xem lại các bài giảng ngày mai...

Tôi vừa chén xong củ sắn, cu Thắng đã lăn ra ngủ. Tôi đưa bài toán hôm qua cho Chiến làm.
- Khoan đã. - Nó bảo. - Thầy Minh dặn bao giờ cậu đến thì nhờ cậu giúp tớ ôn lại bài “tam giác bằng nhau” đã, vì bài này có vận dụng kiến thức ấy.
Hai đứa chụm đầu ôn bài “Ba trường hợp tam giác bằng nhau” đã học ở lớp 6, rồi Chiến mới làm bài tập. Cặm cụi một lúc mướt mồ hôi trán, nó giải được bài toán. Tôi mừng quá, khen nó:
- Hay quá! Anh bạn của tôi cũng không tồi đâu. Đúng nhỉ, ra cậu tắc vì thế! Nếu cứ hấp tấp, chưa hiểu định lý, chưa nắm vững kiến thức liên quan mà đã hùng hục lao vào giải toán thì ra thế quái nào được!
Thằng Chiến cũng gật gù:
- Hôm nọ mình bí là phải!
Hai đứa nói chuyện một lúc, tôi sực nhớ ra, vội nói:
- Ây chết, mai còn bài lý nữa cơ mà.
- Tớ làm lúc chiều rồi. Bài tập lý thì tớ chả hãi đâu.
- Được, giở ra xem lại cho chắc chắn.
Tôi lật mấy quyển vở của nó. Cu cậu đóng toàn giấy bình dân loại 2, chỉ ba hào hai một thếp. Tôi trách:
- Cậu coi thường môn lý, môn địa nhé! Toàn giấy hạng bét!
- Không phải! Cậu đừng nói thế, oan tớ. Đóng giấy bình dân cho đỡ tốn, cậu ạ. Nhà hai anh em đi học, mỗi năm mất khối tiền giấy.
- Thằng Thắng vẫn viết giấy Việt Trì trắng tinh đấy thôi.
- À, nó bé, phải cho nó viết giấy trắng chứ.
- Cái gì cậu cũng nhường cho cu Thắng. Cậu thương nó quá nhỉ.
- Thương chứ. Thầy tớ mất từ năm nó còn ẵm ngửa, tớ là anh, tớ phải thương nó chứ. Những lúc nhà neo quá, tớ cứ nghĩ: hay là mình ở nhà theo công điểm với bầm, nhường cho em đi học. Thằng bé nghịch dại lắm, chui nhủi bờ bụi suốt ngày, mặt mũi nhom nhem, áo quần bễ bượi...
- Trẻ con đứa nào chả thế! Dạo tớ bé, tớ còn nghịch bằng vạn!
- Ừ, trẻ con thì phải nghịch, ngay cánh mình bây giờ đã... đã lơn lớn mà vẫn... vẫn... Nhưng thằng bé nhà tớ nghịch dại lắm, dạo trước bị nhà trường phê bình luôn ấy... Tớ chỉ lo người ta lại bảo: “Con không cha như nhà không nóc”... Ây, răn dạy mãi, cu cậu khá dần rồi đấy. Ái chà, cái bận nó được quàng khăn đỏ, tớ mừng rú lên...
Tôi cứ trố mắt nhìn thằng Chiến. Thì ra lâu nay, tôi chưa hiểu nó thật. Bà tôi thường bảo rằng con so bao giờ cũng khờ khạo hơn con dạ. Tôi nghĩ chả phải thế. Khôn hay dại, tốt hay xấu là do mình được dạy dỗ thế nào, mình rèn luyện thế nào, là do hoàn cảnh sống mà ra chứ, các bạn nhỉ. Thằng Chiến cũng là con so đấy thôi, nhưng nó giỏi, nó tốt bằng vạn đứa con dạ như tôi! Nó chỉ trạc tuổi tôi thôi, nhưng lại là người anh lớn trong nhà. Một tay nó quán xuyến hàng trăm việc, lại còn thuốc thang cho mẹ, chăm lo dạy dỗ em... Còn tôi thì... Chỉ có một cái quần rách gối, bà tôi cũng phải giục hai ba lần, tôi mới nhớ cởi ra cho bà tôi vá lại...
Chuyện đang vui, tôi cứ dùng dằng không muốn đứng dậy. Hai đứa ngồi cạnh ngọn đèn, rì rầm nói chuyện. Thằng Chiến lại kể rằng dạo mới vào lớp 5, nó kém lắm. Cô giáo Mùi phải bảo nó đến phòng riêng, dạy thêm cho nó mỗi tuần hai buổi. Nó kể:
- Cô giáo vừa giảng bài cho tớ vừa trông cu Tuấn. Dạo ấy cu Tuấn ngồi chưa vững, cứ ngật ngà ngật ngưỡng, chốc chốc lại ngã chổng kềnh... Ôi dào, cô giáo bận thật, cậu không biết chứ...
Sao thằng Chiến lại nghĩ rằng tôi không biết nhỉ. Cả lớp 7A, ai chả biết rằng cô giáo của chúng tôi bận lắm. Cô vừa làm giáo viên chủ nhiệm lớp, vừa phụ trách đội, chăm sóc từng li từng tí cho cả bốn mươi tám đứa chúng tôi, lại dạy văn hai lớp 7, dạy sử bốn lớp 5, rỗi rãi làm sao được. Rồi còn phải nuôi dạy hai đứa nhỏ nữa chứ. Thằng cu Tuấn là quá lắm nhé. Dạo đầu năm, nó chẳng chịu đến nhà trẻ với em nó. Một hôm, cô giáo đi dạy, nó cũng theo ra trường, hết đứng nhong nhóng ở hàng hiên lại chơi tha thẩn dưới mấy gốc xà cừ. Nhiều bận cô giáo đang giảng bài, cu cậu xồng xộc chạy vào lớp, gọi mẹ rầm lên rồi hớn hở khoe: “Con bắt được một con chuồn chuồn, mẹ ạ!” hoặc nũng nịu vòi: “Tuấn đói bụng, mẹ Mùi lấy chuối Tuấn ăn!”. Sau cô giáo dỗ mãi, nó mới chịu đến nhà trẻ đấy.
Thằng Chiến mải mê kể chuyện cô giáo dìu dắt nó học văn. Nó khoe:
- Cô giáo bày cho tớ làm thơ nữa nhé. Tớ làm được khối bài.
- Đâu? Cho tớ xem với.
Nó ngần ngừ một chút rồi lấy cho tôi xem quyển sổ tay văn học dày có đến hai đốt tay.
- Những bài tớ tập làm, tớ chép lại ở cuối sổ ấy. Nhưng mà thôi... tồi lắm, cậu xem làm gì.
Kệ nó nói, tôi cứ giở ra. Một bài, hai bài, ba bài... Ái chà, khá thật, nó làm được hơn hai chục bài rồi. Tôi đọc từng bài một. À, cô giáo nhận xét tinh thật, anh bạn này hóm ra phết. Trong sổ tay nó chép rất nhiều bài thơ vui, thơ châm biếm. Tôi vừa gật gù vừa lẩm nhẩm đọc bài thơ đả kích những đứa học trò vô ơn, lên học lớp trên là quên ngay thầy giáo vừa tận tụy dạy dỗ mình:
Gặp thầy cũ, anh lẩn như chạch,
Có khi trâng tráo giương mắt ếch
Rõ đồ bạc bẽo, cái hạng anh
Đạo đức thật tôi, thật đáng trách!
Một loạt năm, sáu bài thơ, thằng Chiến viết về cô giáo Mùi. Trong những bài ấy, giọng thơ của nó rất tha thiết. Anh bạn này giàu tình cảm thật! Tôi thích nhất là bài “Chị hiền của em”. Chiến kể chuyện năm ngoái, nó ốm nặng, tưởng chết. Mẹ nó đi khai hoang tận Thanh Sơn, không nhắn về kịp. Chính cô giáo Mùi đã mang nó lên bệnh xá huyện. Và cũng chính cô giáo mỗi ngày mấy bận sang bệnh xá chăm sóc cho nó rồi lại tất tưởi về trường lên lớp, soạn bài, cho đến ngày nó khỏi hẳn mới thôi.
Mãi đến bây giờ, tôi vẫn còn thuộc lòng những câu thơ cuối bài “Chị hiền của em”:
Cô giáo ơi!
Cha em chết đã lâu rồi,
Mẹ đi vỡ đất núi đồi xa xăm.
Em lên bệnh xá em nằm,
Em sống trong tình thương cô giáo.
Cô bón cho em từng thìa cháo,
Cô vò từng cái áo, cái quần.
Cô lo thang thuốc ân cần,
Mỗi ngày cô bốn năm lần sang thăm.
.................................................
Chị hiền của em ơi!
Chị thương em thật vô bờ
Công ơn như trời biển, chẳng bao giờ em quên!
Lúc tôi ra về, trời đã quang. Măt trăng lại ló ra. Hôm nay là mồng chín hay mồng mười? Trăng chưa được tròn nhưng đang đầy đặn dần lên, trong sáng, dịu dàng, nhè nhẹ trôi bên những dải mây mỏng màu mỡ gà. Chiến lên trạm xá thăm mẹ, nhân tiện đưa tôi một quãng. Đến chỗ rẽ, nó đặt một tay lên vai tôi:
- Sáng mai, đợi mình đi học với nhé. Đừng lo, ngày mai chắc chắn mình không dính điểm kém đâu!
Tôi quay đi, không trả lời nhưng trong lòng bỗng thấy thảnh thơi lạ thường. Thật là vô lý, tại sao trước đây mình lại có thể gây sự với một thằng bạn tốt như thế này?
Trời nổi gió. Từ ngoài bờ sông, gió đưa vào từng đợt, thoang thoảng hương chuối chín. Tôi ưỡn ngực khoan khoái hít một hơi dài.