Vườn địa lý đặt gần trường, ngay bên con đường đất đỏ nhẵn thín vắt ngang lưng đồi. Sau khi đắp nền, nhà trường đã trích quỹ cho năm chục đồng mua sắm dụng cụ khí tượng. Thầy Lộc được cử mang tiền lên tận đài khí tượng thủy văn Phú Thọ để tham quan, nhân thể đặt mua vài thứ dụng cụ. Thầy đã được xem tận mắt, sờ tận tay nhiều loại máy móc tinh vi. Thầy đã được ngắm nghía từng bộ phận của chiếc máy đo gió đồ sộ với chiếc cột sắt đen trùi trũi. Nhưng khi nghe đến giá tiền thì thầy ngã ngửa: một chiếc máy đo gió đúng ba nghìn đồng! Tất cả vốn liếng mang đi chỉ đủ sắm vài chục mét dây thép 5 li căng chống bão. Thế là thầy lật đật quay về, năm chục đồng cuộn thành một gói nhỏ vẫn nằm nguyên trong túi quần.
Thầy giáo vừa cười vừa kể lại chuyến đi thú vị ấy cho chúng tôi nghe, và sau đó thầy trò cùng quyết định sẽ bắt tay tự làm lấy hoàn toàn. Kể cũng có nhiều việc: nào đắp mô hình, nào đóng hòm nhiệt kế, nào làm bừa đo mây, máy đo mưa, con quay gió... Nhưng chúng tôi có những mười hai lớp với hàng ngàn bàn tay tháo vát, chúng tôi đâu có ngại nhiều việc. Mỗi lớp nhận làm một thứ. Chỉ sau hai tuần, vườn địa lý đã thành hình. Con quay gió ngất nghểu đứng giữa vườn, cột tre cao lênh khênh quét vôi trắng, vòng cung sắt tây đo sức gió uốn khum khum gọng vó, mũi tên chỉ hướng gió sơn xanh duyên dáng. Hòm nhiệt kế, đóng bằng những tấm cửa chớp cũ, ngồi chễm chệ trên bốn chân tre vững chãi. Nhưng tôi thích nhất là cái máy ngắm sao. Trông nó chững ra dáng! Nhìn cái vòng cung đo độ bóng nhoáng, đố ai đoán được nó vốn là cái thùng sắt tây hoen gỉ thủng đáy vứt dưới gầm giường nhà cậu Đắc, học sinh lớp 5D! Còn cái ống ngắm mới tợn chứ, oai vệ như nòng cao xa pháo, mũi cứ nghếch lên trời như sắp sửa nổ cái đùng! (Ấy, mới nửa tháng trước thôi, nó còn là một đoạn ống dẫn nước vô dụng nằm lăn lóc thảm hại trong đống rác sau nhà máy đấy!). Và cái trục gỗ ba chân, nom mới chắc chắn làm sao! Chính lớp 7A chúng tôi thu nhặt những mảnh gỗ thừa thẹo quẳng lủng củng ở góc xưởng xẻ, tự tay đóng lấy đấy nhé. Ngày hôm nay, tôi sẽ đến góp công làm phần việc cuối cùng là xây cho chiếc máy ngắm sao oai vệ này một cái bệ đắp bằng gạch, trát xi măng hẳn hoi.
Mờ sáng, tôi đã cắp giành ra đi, chắc mẩm rằng mình đến sớm nhất. Ai ngờ thằng Mạnh và thằng Cao đã có mặt từ bao giờ. Hai đứa ngồi xổm bên cái bừa đo mây. Thằng Mạnh dứ dứ ngón tay trỏ vào mái tóc chải mượt của thằng Cao, miệng nói liến thoắng, còn thằng Cao thì vừa lắc đầu cười gượng vừa chớp mắt lia lịa. Thằng Mạnh chúa là hay trêu thằng Cao. Ở lớp, nó gán cho thằng Cao hàng chục biệt hiệu chẳng đẹp đẽ gì, nào “cao kều”, nào “cây gật”... Bây giờ nó lại đang chế giễu chiếc áo lao động màu xanh trứng sáo của thằng Cao.
Thằng Vĩnh đến, mang theo nào bay, nào thước, nào cọc, nào dây gai. Chúng tôi xắn tay áo lên. Thằng Vĩnh rõ xứng đáng làm tổ trưởng. Tay nó xếp gạch nhanh thoăn thoắt. Nó cứ nhìn tôi với vẻ mặt thông cảm, ái ngại. Chẳng chịu giao cho tôi việc gì cả, nó bảo:
- Cậu mệt thì ngồi xem chúng tớ xây cũng được.

Đời nào tôi chịu ngồi không. Tôi nài mãi, rồi phải giả vờ nổi cáu, Vĩnh mới chịu phân công tôi xuống chân đồi lấy cát. Tháng trước, chúng tôi gánh cát sông rải hố nhảy cao, nhảy dài, còn thừa chục gánh đổ dưới ấy.
Trời bắt đầu nắng gắt. Phía đông, những tảng mây mọng nước chồng chất lên nhau như một lớp ngói bạc khổng lồ. Mới sáng ra, trời đã oi bức, không khéo chiều có cơn dông.
Tôi bê một lúc được ba giành cát.
- Đủ rồi. Thôi, thôi.
Thằng Vĩnh bảo tôi. Nó trộn vôi, cát với xi măng, đổ nước vào, đảo thành một thứ vữa màu xám, đặc sền sệt. Cu cậu gõ dao nề cồng cộc rồi miết nhẹ vào các kẽ gạch, bóng loáng. Trông nó làm thành thạo mà thèm. Bọn thằng Vĩnh thật tài.

Cưa, đục, dao, bay, chúng nó sử dụng đươc tất. Chỉ có tôi lóng ngóng vụng về, đụng đâu hỏng đấy. Ấy là mấy năm nay tôi tập làm, đã biết gánh nước, cuốc đất rồi đấy. Chứ như dạo tôi học cấp I ấy à, bà tôi cấm có cho tôi mó tay vào việc gì. Bà chỉ muốn tôi học thật giỏi, được rõ nhiều điểm 4, điểm 5. Đi vớt bèo làm phân xanh, bà lo lội nước cảm lạnh. Xin vào tổ mộc, bà sợ lưỡi cưa xoẹt đứt ngón chân. Năm nay về trường mới, có xưởng mộc, xưởng rèn, tôi phải lăn vào tập mới đuổi kịp chúng nó được!
Thằng Vĩnh làm “thợ cả”, ba chúng tôi chỉ đóng vai thợ phụ. Chúng tôi chuyển gạch, chuyển vôi cho nó. Nhìn ngon mắt quá, tôi cũng nằn nì xin thử một chút. Tôi trát cẩn thận lắm, thế mà mặt bệ cứ nổi lên lổn nhổn những u với cục. Thằng Vĩnh bèn giằng lấy bay:
- Thôi thôi, xin ông tướng. Hỏng tiệt giờ!
Xây xong, thằng Mạnh rút địa bàn ngắm hướng. Thằng Vĩnh kẻ bốn mũi tên nhỏ đề đông, tây, nam, bắc. Bốn đứa chúng tôi phủi tay, hể hả lùi ra xa, ngắm nghía. Cái bệ vuông chằn chặn, nước xi-măng láng bóng. Chiếc máy ngắm đặt lên đây cứ gọi là vừa khít, chẳng thừa thiếu một tẹo nào, trông rõ sướng mắt.
Chợt thằng Mạnh tắc lưỡi liền mấy cái:
- Tiếc quá! Tiếc quá!
Cả bọn hỏi dồn:
- Tiếc gì? Tiếc gì? Đẹp thế còn tiếc nỗi gì?
Thằng Mạnh bảo rằng đẹp thì đẹp thật, ấy chính vì đẹp nên mới tiếc. Tiếc vì sang năm, bọn học sinh lớp 5 mới vào, thế nào chả xúm lại ngắm cái bệ, trầm trồ: “Chà chà! Xây cừ thật, đúng là những tay thợ nề chính cống!”. Tiếc rằng lúc đó, bốn đứa tôi lại ra trường mất rồi!
Thằng Mạnh nói xong lại xuýt xoa, tắc lưỡi liền ba bốn cái nữa. Tôi bèn nói:
- Cái đó có khó gì. Chỉ việc làm như các nhà máy ấy, kẻ thêm vào sản phẩm của mình một dòng chữ là xong xuôi tất!
Chúng nó reo lên tán thành. Thằng Vĩnh quỳ ngay xuống, nắn nót khắc sâu vào má bệ một dòng chữ nhỏ: Bệ máy ngắm. Vĩnh, Cao, Mạnh, Việt - lớp 7A - xây ngày 2 tháng 10 năm 1962. Bốn chữ Vĩnh, Cao, Mạnh, Việt, nó khắc kiểu chữ in, rõ đậm. Đến mai, xi măng sẽ rắn lại như đá ấy. Dăm bảy năm nữa, khi chúng tôi đã lớn, thật lớn, khéo cái bệ này vẫn còn. Lúc ấy, mình có trở về thăm trường, thăm vườn địa lý, cúi xuống đọc dòng chữ này, lại đọc đúng tên mình... ồ... thú vị thật... ý nghĩ đó làm tôi thích chí, cứ tủm tỉm cười một mình.
Nhưng ngay chiều hôm ấy, suýt nữa ông trời phá sạch công lao của chúng tôi. Tôi đang ngồi cặm cụi học bài thì mây đen kéo đến kín trời. Chớp lóe nhằng nhịt, tiếp đến là những tiếng nổ đinh tai. Tôi khoác vội áo mưa, chạy bổ đến vườn địa lý.
Thằng Vĩnh và thằng Mạnh đã có mặt ở đấy từ lúc nào không biết. Hai đứa đang hì hục chôn cọc. Một đống lá cọ xếp lù lù bên cạnh. Thấy tôi đến, chúng nó mừng rú lên. Ba đứa xúm lại hối hả dựng tạm túp lều che cho cái bệ. Tôi làm vụng quá, thằng Vĩnh gắt ngậu lên. Nhưng tôi chẳng giận nó đâu. Ai còn lạ gì tính nó.
Nút lạt cuối cùng vừa kịp xoắn xong thì mưa ập xuống. Hú vía!
Cả ba đứa rúc vào lều, chúi vào nhau. Thằng Vĩnh và thằng Mạnh đứng chắn hai bên che cho tôi đỡ ướt. Ngớt mưa, chúng tôi mới về. Đường trơn như đổ mỡ. Tôi ngã một cái đau méo mặt, thằng Vĩnh phải lôi mãi mới dậy được.
Về đến phố huyện, tôi kéo hai đứa chạy vào nhà. Cả ba sà vào bếp, đốt lửa lên sưởi. Vĩnh và Mạnh giang cả hai tay hơ lên trên ngọn lửa. Tôi chả ướt mấy nên chỉ ngồi ghé một bên, hết nhìn hai đứa lại nhìn ba ông đầu rau hiền lành gù gù lưng, chụm đầu vào nhau như ba người bạn thân thiết.
Khi chúng nó sắp về, trời lại đổ mưa. Lúc nãy chúng nó chạy vội, không đứa nào kịp mang áo mưa. Tôi bèn cho thằng Vĩnh mượn cái áo của tôi và tìm miếng vải nhựa của bà tôi đưa cho thằng Mạnh.
Cuối giờ địa lý sáng thứ tư, thầy Lộc cứ tấm tắc khen cái bệ của chúng tôi xây đẹp và chắc chắn. Thầy nói:
- Thế là công việc cuối cùng đã xong. Nhà trường cho năm chục đồng, thầy trò chúng mình chỉ tiêu mất có hơn nửa thôi đấy. Hoan hô các em! Toàn trường góp công, nhưng lớp 7A đóng góp nhiều nhất!
Bọn thằng Mạnh, thằng Cao được thể gào lên:
- Thưa thầy, thưởng ạ. Đề nghị thầy thưởng cho 7A ạ.
- Ừ thì thưởng. Nhưng các em thích phần thưởng gì nào?
Thế là cả lớp lúng túng, chẳng biết xin cái gì. Cuối cùng thằng Long đứng bật dậy:
- Đề nghị thầy cho lớp em được vinh dự trực vườn địa lý tuần đầu tiên.
Ý kiến ấy được thầy giáo chấp nhận. Cả lớp bàn đi bàn lại mãi, sau rốt lại giao nhiệm vụ ấy cho nhóm bốn người có công xây bệ máy ngắm. Mỗi ngày phải ba lần thu thập các tài liệu về lượng mưa, lượng mây, nhiệt độ, hướng gió, cấp gió và độ ẩm không khí. Hàng ngày, thầy Lộc lại nghe đài dự báo thời tiết, ghi chép đưa cho chúng tôi. Tất cả tin tức, số liệu ấy, chúng tôi ghi lên bảng “Tình hình thời tiết” dựng bên cổng vườn, sát đường, vừa để học sinh toàn trường đọc, vừa để “cung cấp tin tức thời tiết, giúp các hợp tác xã chủ động sản xuất”, như thầy Lộc nói.
Thằng Vĩnh phân công như sau: buổi sáng, thằng Cao đến sớm, ghi chép xong rồi vào lớp. Tan học, thằng Mạnh tạt qua vườn làm việc một lúc rồi về. Phần việc buổi chiều giao cho tôi. Còn thằng Vĩnh có trách nhiệm đôn đốc chung.
Chúng tôi hăm hở rủ nhau bắt tay vào việc ngay trưa hôm ấy. Công việc tiến hành trôi chảy. Chúng tôi ghi bảng bằng phấn màu rõ đẹp. Bọn học sinh đi qua, đứa nào cũng dừng lại lẩm nhẩm đọc “Tin tức thời tiết” làm chúng tôi khoái quá.
Nhưng chỉ đến sáng hôm sau đã xảy ra một chuyện bực mình. Tôi đến lớp, vừa kịp cất cặp thì nghe có tiếng cãi nhau om sòm ngoài vườn địa lý. Tôi phóng ra ngay. Bọn học sinh các lớp xúm xít đông nghịt quanh tấm bảng, đứa thì nói bô bô, đứa thì cười khành khạch, chẳng hiểu đầu cua tai nheo ra làm sao. Tôi chen vào giữa, thấy thằng Cao đang to tiếng với bọn thằng Long. Mặt thằng Cao đỏ như xát ớt, má nổi gân lên:
- Thế đêm qua trời mưa, chúng mày ngủ mất thì sao?
Thằng Long nhặt một hòn đất lên, nghiến răng bóp rồi cười:
- Mưa! Hà hà, mưa mà đất rắn như đá thế này à?
Đám học sinh xung quanh rộ lên cười. Tôi vội hỏi:
- Gì thế, các cậu?
Thằng Long đáp:
- Cứ nhìn lên bảng khắc biết.
Tôi đọc lướt qua một lượt, chẳng thấy gì lạ.
- Chỗ lượng mưa ấy. - Thằng Long nhắc.
Tôi đọc lại... lượng mưa: 150 li... á à, cái này thì láo đứt đuôi đi rồi. Rõ ràng đêm qua chẳng mưa giọt nào. Tôi bèn chạy lại nhấc cái ống đo ra khỏi giá gỗ. Ô kìa, mặt trong ống tôn vẫn còn ướt loáng.
- Cậu đo cẩn thận chứ? - Tôi hỏi thằng Cao.
- Nhất định chứ lại. Tớ nhìn đúng 150 li, nhìn hai lượt. Chỗ tớ đổ nước đây này.
Đám đất còn ướt đẫm. Lạ thật. Không có lý nào cái máy đo sai. Ống tôn này chính tay các anh công nhân ở xưởng cơ khí kết nghĩa làm tặng chúng tôi. Cạnh ống sắc như lưỡi dao, giọt nước rơi vào cứ là chẻ ra làm đôi, sai làm sao được.
Thằng Cao lại ngần ngừ:
- Các cậu ạ... hay là... mưa bóng mây?
Thằng Long vặn ngay:
- Một trăm rưởi li nước chứ ít à? Phải mưa tầm tã hàng mấy tiếng đồng hồ ấy chứ!
Thế là chúng tôi hết lý lẽ.
Thằng Vĩnh đến, nghe rõ đầu đuôi, cũng cáu ra mặt. Nó túm ngay lấy thằng Cao:
- Mày lên gặp thầy Lộc với tao. Lên mà nhận khyết điểm.
Thằng Cao giằng ra:
- Ơ, phải lỗi tao đâu? Tao chỉ biết ghi thôi chứ.
- Mày có phải là cái máy ghi đâu! Mày là con người, mày phải biết nghĩ, nghe chưa. Thấy khang khác thì phải để đấy, sao mày nhắm mắt ghi bừa...
Thằng Cao cấm cảu:
- Tao biết đâu đấy. Mày chẳng chịu dặn trước. Thôi, từ mai tao thèm vào chơi cái trò này nữa.
Thằng Vĩnh trợn mắt:
- Sao lại “chơi cái trò”? Thầy giáo đã bảo chúng mình nghiên cứu khoa học, phục vụ sản xuất cơ mà!
- Xuất gì mà xuất! Nông dân người ta thèm vào đọc cái bảng trò trẻ ranh này! Chỉ có bọn nhóc con xúm lại nhìn cho vui mắt thôi!
Mấy đứa chung quanh, mỗi đứa góp một câu khuyên can. Thằng Vĩnh cũng nguôi nguôi, không co kéo thằng Cao nữa. Cả bọn kéo vào trường. Chỉ mỗi mình thằng San đi sau, vừa đi vừa mủm mỉm cười ruồi.
Thằng Vĩnh hết nóng, nhưng cứ băn khoăn suốt giờ học. Lúc ra chơi, nó hỏi tôi với thằng Mạnh:
- Thật thế không, chúng mày?
- Gì mới được chứ?
- Thằng Cao nói lúc nãy ấy mà. Chúng mình trực vườn địa lý là nghiên cứu khoa học chứ nhỉ...
- Nhất định chứ! - Thằng Mạnh đáp. - Cậu không nhớ à? Năm ngoái trường mình thí nghiệm nuôi tằm ăn lá sắn qua mùa đông, sau phổ biến cho hợp tác xã, chả được khen mãi là gì đấy.
- Ừ. Nhưng tớ hỏi cái bảng tin tức thời tiết này kia. Người lớn có ai dừng lại xem không, Việt nhỉ?
- Cái đó thì tớ chịu. - Tôi đáp thẳng. - Tớ có ngồi canh bảng suốt ngày đâu mà biết!
Thằng Vĩnh lại thần mặt ra nghĩ ngợi. Nó bảo với tôi, hay là chiều nay hai đứa thử đến sớm rình xem. Tôi bằng lòng ngay vì thấy việc này cũng rất thú vị.
Chiều hôm đó, hai đứa đến vườn địa lý từ lúc ba giờ. Bên kia đường, cách tấm bảng vài thước là một nương sắn um tùm, vừa mát vừa kín đáo. Chúng tôi trải tờ báo cũ, ngồi nép dưới một bụi sắn. Chẳng việc gì phải vụng trộm, nhưng hai đứa vẫn ngồi im thin thít. Chốc chốc, thằng Vĩnh lại vạch lá nhòm ra. Ngoài đường vắng tanh vắng ngắt. Đây chỉ là con đường mòn vắt ngang lưng đồi nên ít người qua lại lắm. Chúng tôi ngồi ê ẩm cả người, lưng đau như dần, mãi sau mới thấy hai bà gánh ổi ra bán ở bãi chiếu bóng nhà máy. Các bà vừa đi vừa nói chuyện. Cái bà đi sau nhổ toẹt quết trầu, quay cổ nhìn tấm bảng với vẻ mặt hờ hững rồi bỏ đi thẳng.
Tôi cau mặt, thầm thì:
- Hừ, tệ thật, chẳng thèm liếc qua một cái gọi là...
Thằng Vĩnh cũng hậm hực:
- Chào ôi... “công tác”... bán ổi của người ta cần cóc gì nắng với mưa!
Mặt trời đã ngấp nghé mái trường. Tôi móc túi sờ mấy viên phấn rồi uể oải đứng dậy. Chợt thằng Vĩnh kéo tôi ngồi xuống. Có tiếng nói chuyện líu tíu. Hai chú bé từ phía vườn trường đi lại, mỗi chú xách một chiếc thùng tưới. Chú bé mặc áo xanh đi bên trong, tôi không quen, còn chú bé mặc áo nâu đi bên ngoài chính là thằng Thu, em cái Loan. Đến trước tấm bảng, cả hai dừng lại. Chúng đứng gần quá. Tôi trông rõ từng giọt nước từ chiếc gương sen nhỏ xuống tong tong, in một vệt xám sẫm trên mặt đất.
Chú bé áo xanh ghé vào tai thằng Thu, thầm thì một lát. Vẻ tinh quái ánh lên trong mắt nó. Thằng Thu khẽ cười, lắc đầu:
- Chớ... đừng nghịch dại. Lớp chị tớ đấy. Chị tớ mắng cho.
- Không việc gì đâu. Hôm qua tớ... tớ thử một lần rồi!
“Áo xanh” khẽ lắc cái thùng cho nước kêu óc ách. Nó lại thì thầm, thì thầm. Thằng Thu hỏi:
- Anh ấy bảo thế à?
- Ừ, anh ấy bảo thế. Mày không làm thì tao làm nhé. Thú lắm.
- Tùy mày.
- Nhưng cấm không được mách ai đấy!
- Ừ...
“Áo xanh” lấm lét nhìn quanh rồi rón rén bước vào vườn địa lý. Thằng Thu bước theo mấy bước rồi đứng lại nhìn. “Áo xanh” đi đến cạnh cái thùng đo mưa, kiễng chân lên, nhấc cái ống tôn đặt nhẹ xuống đất. Nó nghiêng thùng tưới, ồng ộc rót nước vào.
Chúng tôi nhìn rõ ràng tất cả. Thằng Vĩnh hét một tiếng, nhảy xổ ra:
- Chúng mày chết!
Kịch! Chiếc thùng tưới trên tay “áo xanh” lăn xuống đất, nước đổ lênh láng. Thằng Thu hốt hoảng nhảy qua rào, chạy thục mạng. Thằng Vĩnh lao vào, túm ngay được chú bé áo xanh.
- Mày chết với tao.
Thằng bé run lẩy bẩy:
- Em lạy anh, em van anh!
- Không lạy lục gì hết! Vào phòng thầy Lộc với tao!
- Em lạy anh. Tại anh San anh ấy xui em...
Thằng Vĩnh trợn mắt:
- Nói láo! San lớp 7A chúng tao ấy à?
- Vâng ạ, vâng ạ, đúng anh ấy xui em ạ...
Nhìn thằng bé vừa run vừa mếu máo, tôi đâm thương hại. Tôi vội chen vào giữa, bảo thằng Vĩnh:
- Thôi nó biết tội rồi, tha cho nó...
- Tha à? Tha gì!
Thằng Vĩnh đẩy bật tôi ra, hầm hè sấn lại. Khéo không nó ục cả tôi chứ chả chơi. Tôi đang lúng túng chợt có tiếng khàn khàn cất lên ngay đằng sau:
- Sao lại đánh nhau, các cháu?
Chúng tôi giật mình quay lại. Một ông già cao lớn, vạm vỡ đứng sừng sững ngay ở cổng vườn, tay cụ xách một xâu đến bảy, tám lưỡi cuốc. Cụ nhìn chằm chằm vào mặt thằng Vĩnh:
- Nó bé thế, sao cháu lại đánh nó?
Thằng Vĩnh buông ngay chú bé áo xanh ra. Thằng bé nhặt vội cái thùng tưới, chạy biến. Cụ già bước lại gần chúng tôi:
- Các cháu học lớp mấy?
- Thưa cụ, chúng cháu học lớp 7 ạ. - Tôi nhanh nhảu đáp.
- À, lớp 7, lớp lớn nhất của cấp 2 đấy, thế mà lại đi bắt nạt đứa đáng tuổi em mình như thế là hư!
Thằng Vĩnh cứ đứng ngây như phỗng. Cái thằng này hễ máu nóng bốc lên là chả còn một tẹo trí khôn! Ây, cũng may là nó biết hối, không dám vằn mắt lên cãi lại. Cu cậu cứ đứng đực ra, đầu cúi gằm. Tôi vội đỡ lời cho nó, nhận lỗi với cụ và kể cho cụ nghe đầu đuôi. Cụ vừa nghe vừa gật gật đầu, khẽ vuốt chòm râu thưa và hung hung đỏ như râu ngô:
- À... à... ra thế... à... nghịch dại thế... Phải, cháu nói phải, đừng đánh nó, đe nó là được rồi... À... à... thế ra cái vườn này của các cháu gọi là vườn địa lý à?
- Vâng ạ, đúng vườn địa lý đây ạ.
Nhân thể, tôi liên giới thiệu luôn cái bảng thời tiết:
- Mỗi lần đài dự báo thời tiết, chúng cháu lại ghi cả lên đây ạ.
Ông cụ gật gù:
- À, thế ra mưa nắng từng ngày là biết được cả đấy.
- Vâng ạ, cứ mỗi ngày chúng cháu ghi một lần...
- Hay đấy. Việc làm của các cháu hay lắm...!
Cụ cười khà khà. Cụ nói rằng giá như hợp tác xã của cụ cũng có một cái bảng thế này thì tiện phải biết. Vụ này bà con nông dân sắp dỡ sắn. Gia đình nào cũng thái dăm bảy chum sắn lát. Sắn thái ra, phơi khắp sân gạch, sân đất vẫn chưa đủ chỗ, còn rải trắng xóa cả các sườn đồi. Lo nhất là sắn thái ra mà trời đổ mưa dầm. Sắn đắp đống trong nhà, chảy nhựa đen xỉn lại, thối tiệt, chỉ còn nước để cho lợn, cứ tiếc ngơ tiếc ngẩn. Giá mà bà con biết trước ngày nắng ngày mưa thì lợi to lắm.
Nghe ông cụ kể, tôi săn đón mời ngay:
- Thế thì cụ với các bác, các bà lên trường cháu mà xem bảng thời tiết, cụ ạ...
- Khà khà, - ông cụ vuốt râu, cười, - lão ở tận Thanh Mai, xa lắm các cháu ạ.
Ông cụ về rồi, tôi mới móc túi lấy phấn ra ghi bảng. Còn thằng Vĩnh thì lúi húi đặt lại cái thùng đo mưa nãy giờ vẫn nằm lăn lóc bên hàng rào.

Sau buổi học sáng thứ sáu, cô giáo bảo bốn đứa chúng tôi và thằng San ở lại lớp một lúc. Thằng San nhận lỗi ngay. Nó phân bua rằng nó không có ý phá hoại, chỉ muốn nghịch đùa thằng Vĩnh một chút thôi. Nói rồi nó nhe răng ra cười. Thằng Vĩnh lầu bầu:
- Nghịch thì cũng một lần thôi chứ. Đằng này cậu dai như đỉa đói ấy...
- Ừ, thì tớ cũng chỉ bảo nó có một lần. Tự ý nó nghịch lần nữa đấy chứ!
Cô giáo nói:
- Thôi, em biết sai là được. Lần sau đừng có vẽ đường cho hươu chạy nhé!
Tôi lại mách cô giáo chuyện thằng Vĩnh suýt nện cho thằng bé áo xanh một mẻ. Nó lườm tôi:
- Đâu. Tớ đã chạm vào người nó đâu!
- Hừm, giá như ông cụ chả đến xem! Cậu lại không ăn gỏi thằng bé rồi ấy à!
- Ông cụ nào?
Cô giáo hỏi. Tôi bèn kể chuyện ông cụ Thanh Mai vào can thằng Vĩnh cho cô giáo nghe. Tôi kể cả chuyện ông cụ khen cái bảng dự báo thời tiết của vườn địa lý. Xem chừng cô giáo chú ý đến chuyện ấy lắm. Cô nói:
- Ừ nhỉ, cụ ấy nói đúng đấy. Vùng này chỉ có mấy hợp tác xã có máy thu thanh bán dẫn chạy pin thôi. Bà con nông dân muốn biết tin tức thời tiết lắm, nhưng cái bảng của ta lại dựng trái nèo...
- Vâng ạ, thưa cô, hai đứa chúng em đợi cả buổi chiều, chỉ có hai bà bán ổi đi qua thôi ạ.
- Ừ, thế bây giờ ta nghĩ xem có cách nào báo cho tất cả bà con quanh vùng này không...
Cô giáo và năm đứa chúng tôi cùng yên lặng ngẫm nghĩ. Chợt thằng Cao bảo thằng San:
- Đằng ấy ra ngoài kia cho tổ địa lý chúng tớ làm việc chứ!
- Ơ, vườn địa lý là của riêng các cậu đấy à? Tớ cũng có quyền nghĩ chứ!
- Hừm, đằng ấy lại nghĩ chuyện nghịch dại một chuyến nữa chứ gì!
Thằng San ức quá, mặt tái đi. Cô giáo lại phải dàn hòa:
- Thôi, các em, chúng ta cùng nghĩ đi chứ. Chả lẽ không còn cách nào nữa à?
Lạ thật, cô giáo dạy văn sao lại chú ý đến vườn địa lý nhiều thế nhỉ? Ờ, mà tôi lại sực nhớ ra, không hiểu vì sao mọi ngày cô giáo vẫn hay lo lắng đến những việc mà tôi cho là hoàn toàn không dính dáng đến nhiệm vụ giáo viên chủ nhiệm của cô. Có lần cô sang phòng nông nghiệp huyện đợi hàng buổi để xin thuốc vôn-pha-tốc trừ sâu chỉ hồng cho ruộng bèo hoa dâu của hợp tác xã Phương Lai. Lại có lần, xuống xã về, cô băn khoăn bàn bạc với bọn cái Quế: “Này, con trâu cộc của đội sản xuất xóm em kỳ này hom hem lắm rồi đấy, không khéo vụ rét tới, nó đổ mất. Nhóm các em có em nào nhận ‘đỡ đầu’ cho nó được không?”.
Tôi đang nghĩ quanh quẩn như vậy, thì thằng San đã lên tiếng:
- Ta dựng thêm một tấm bảng nữa ờ ngay đường cái, cô ạ...
- Cũng không ai thèm đọc đâu!
Thằng Vĩnh gạt phắt. Ý chừng nó vẫn còn ấm ức với hai bà hàng ổi vô tình. Thằng San lại bảo:
- Thì ta viết thật to: “Chú ý! Có bảng báo trời mưa hay nắng!”
Cô giáo lắc đầu:
- Cũng không giúp cho các hợp tác xã được nhiều vì vẫn ít người đọc lắm. Giá có cách gì loan báo rộng rãi và dễ dàng hơn thì tốt...
Tất cả lại ngồi im. Thằng San cứ gõ gõ ngón tay vào vầng trán dô, ra vẻ ta đây đang suy nghĩ ghê lắm. Đúng là cu cậu muốn chuộc tội... Gõ vào trán chán, cụ cậu lại khẽ giật giật một góc khăn quàng đỏ, làm như cứ giật mãi sẽ bật ra sáng kiến không bàng... Tôi tủm tỉm cười, nhìn theo tay thằng San, đột nhiên một ý nghĩ vụt lóe lên như một tia chớp. Tôi reo to:
- Treo cờ đỏ, cô ạ. Phải rồi... Hôm nào nắng thì ta kéo cờ đỏ ạ...
- Đúng rồi! Đúng rồi!
Tất cả reo lên. Cô giáo gật đầu liền ba bốn cái:
- Ý kiến hay lắm. Vườn địa lý nằm trên đồi, ta lại kéo cờ lên cột cao thì ở xa hàng chục cây số cũng trông rõ. Được, chiều nay cô sẽ báo cáo với nhà trường.
Nhà trường thông qua sáng kiến của chúng tôi ngay. Trưa hôm sau, gần sáu trăm học sinh tỏa về các xã để truyền đi dấu hiệu dự báo thời tiết của chúng tôi: “Đỏ cờ là nắng, vắng cờ là mưa”.
Từ ngày ấy, lá cờ đỏ trên vườn địa lý dần dần trở nên thân thuộc với bà con nông dân quanh vùng. Tất nhiên, công việc của chúng tôi còn nhiều vấp váp. Muốn dự đoán thời tiết thật chính xác, phải tổng hợp tài liệu ở nhiều trạm khí tượng. Đằng này, chúng tôi chỉ có một vườn địa lý con con. Chủ yếu là dựa vào đài. Khốn nỗi, đài không chịu báo cụ thể tình hình thời tiết từng huyện, mà chỉ dự đoán trên một vùng rộng lớn. Chúng tôi thường vò đầu bực dọc khi nghe phải những câu chung chung theo kiểu: “Vùng trung du có mưa rào rải rác!”. Có bận, cờ đỏ vừa kéo được một chốc thì mây đen ập tới. Anh chàng trực nhật phải hộc tốc chạy đến vườn địa lý, vừa hạ cờ, vừa cằn nhằn nguyền rủa ông trời chết tiệt.
Nhưng những chuyện rủi ro họa hoằn lắm mới xảy ra. Phần lớn chúng tôi báo đúng nên càng ngày đồng bào càng tin. Bọn thằng Long kể rằng ở xóm chúng nó, sáng nào cũng có người chạy lên ngọn đồi đầu làng khum khum tay che mắt nhìn lên vườn địa lý: “À hà! Cờ đỏ kéo lên rồi! Hôm nay nắng đấy! Dỡ sắn lên thái, bà con ơi!”.
Vô khối người đi chợ cũng tạt vào thăm vườn địa lý, nghe chúng tôi giới thiệu từng bộ phận. Bà con cũng chả cần hiểu thật tường tận “máy” này “máy” nọ, chỉ trầm trồ khen lấy khen để: “Giỏi! Giỏi thật! Mấy cái ‘máy’ nhỏ thế mà báo nắng, báo mưa cứ là đúng tăm tắp!”.
Nhưng đấy là chuyện mấy tháng sau. Bây giờ tôi trở lại những việc xảy ra ngay sau đó. Trong giờ tập trung toàn trường sáng thứ bảy tuần ấy, lớp 7A được nhà trường tuyên dương. Thầy hiệu trưởng đặc biệt khen ngợi nhóm bốn người chúng tôi đã tự động dựng lều che mưa cho bệ máy ngắm và có sáng kiến kéo cờ dự báo thời tiết. Thầy bảo như thế là có tinh thần làm chủ tập thể, có ý thức đem khoa học phục vụ đời sống. Thầy mời bốn chúng tôi đứng lên cho toàn trường hoan hô. Ái chà, mặt chúng tôi nóng ran lên. Thằng Cao sướng quá, nhe răng ra cười, tay cứ mân mê đầu chiếc lược nhựa hồng hồng thập thò ở túi áo. Thằng Mạnh thì ưỡn ngực, mắt nhìn ngược lên trời. Tôi dựa sát vào người thằng Vĩnh, môi mím chặt ra vẻ trang nghiêm nhưng kỳ thực trong lòng rộn lên như mở hội.