Tuổi trẻ thật giàu mơ ước. Bạn cũng như tôi, trong một ngày bình thường, ai mà chẳng thấy nảy nở trong lòng mình ít nhất là một ý định tốt lành. Nếu như tôi có đủ nghị lực thực hiện trọn vẹn các dự định đẹp đẽ của mình thì chắc chắn tôi đã trở thành một thiếu niên tốt hơn bây giờ nhiều.
Tối hôm ấy, ở nhà Chiến về, tôi tự nhủ rằng từ nay mình sẽ chơi với nó thật thân, ngày nào cũng đến học chung với nó, giúp nó đuổi kịp lớp về môn toán trong một thời gian thật ngắn. Nhưng thực hiện được như vậy cũng đòi hỏi nhiều nghị lực. Lúc tôi chỉ lo cho thân tôi thôi thì tất cả thời gian đều dành riêng cho mình, muốn học thì học, muốn nghỉ thì nghỉ, muốn chơi thì chơi. Bây giờ, muốn lo thêm cho bạn, tất phải xén bớt giờ nghỉ, giờ chơi... của mình. Điều đó, đối với một thằng bé như tôi, cũng không phải dễ dàng đâu.
Trưa thứ hai, đi học về, tôi chẻ nứa đan một tấm phên thưa bắc lên giàn su su, vì ba dây su su của tôi đều đã vươn ra những cánh tay dài xanh nõn, đòi leo. Chiều, tôi định làm gọn công việc để tối đến với Chiến. Nhưng tôi mới làm xong hai bài toán thì đã nghe tiếng quả bóng tròn dội bình bịch ngoài sân. Tôi bèn phóng ra theo, bụng nghĩ: “Coi như nghỉ giải lao! Ta kiếm một quả cho đỡ thèm rồi quay về ngay học bài!”. Thế nhưng vừa lao vào cuộc chơi là tôi quên hết mọi sự trên đời. Khi tôi rời khỏi sân bóng thì mặt trời đã lặn từ bao giờ! Ăn cơm xong, trời tối mịt. Tôi phải ngồi ngay vào bàn vì còn những ba bài chưa học, lại còn một cái bản đồ phải vẽ và tô màu.
Đêm ấy, tôi nằm nghĩ mà giận mình vô kể. Tôi thật là một thằng hèn, có một chuyện nhỏ như vậy mà cũng không đủ nghị lực thực hiện!
Trưa thứ ba, đi học về, tôi nghĩ ngay: chiều nay dứt khoát không bén mảng đến sân bóng nữa, ở nhà đọc sách nửa giờ, sau đó giải quyết gọn tất cả bài học bài làm. Tôi bèn mang quyển “Lều số 13” ra đọc tiếp. Tôi đọc mải mê, đến khi ngẩng đầu nhìn đồng hồ thì đã quá mất bảy phút. Câu chuyện đang hay, tôi tắc lưỡi “Xong đoạn này đã!”. Nhưng sực nhớ đến quyết tâm của mình, tôi vội quay sang học bài. Tôi bỏ quách cuốn sách vào va-li, khóa lại, mang chìa khóa gửi bà, thế là hết tơ tưởng!
Quãng ba giờ chiều, quả bóng tai ác lại bắt đầu dội bình bịch, rủ rê, lôi cuốn. Hồn vía tôi như bị ai thu mất. Hai chân tôi ngứa ngáy, dậm dật. Mắt nhìn vào vở mà không hiểu gì cả, tôi đọc câu nọ xọ câu kia. Tôi tự mắng thầm: “Làm thằng hèn một lần thôi chứ!” rồi đóng chặt cửa ra vào, cài then lại, ngồi học bên cửa sổ. Tôi đọc bài thật to để át tiếng bóng. Quả nhiên, một lúc sau, tôi đã học thuộc bài sử.
Chập tối, tôi đang sửa soạn sách vở thì thằng Cao xồng xộc, chạy vào rủ sang bãi chiếu bóng nhà máy xem phim. Tôi nhắc nó:
- “Người mê phim số 1” lú lẫn mất rồi: hôm nay mới thứ ba chứ đã thứ bảy đâu? “Bạn” cậu cũng không bảo cho cậu nhớ ra à?
- Ây, hôm nay tớ học bài xong tất lúc chiều rồi, nên “bạn” tớ cũng “đặc cách” cho đi xem “ngoài tiêu chuẩn” một tối!
Thằng Cao vui vẻ đáp rồi lại giục:
- Đi mau không thì phải ngồi lệch, khó xem lắm. Phim rất hay nhé: “Bí mật con số”, phim phản gián của Ru-ma-ni! Còn chần chừ gì nữa!
- Tớ... tớ bận đến học bài với thằng Chiến...
- Chiến à?... Ừ, Chiến... Tiếc nhỉ, phim hay quá... Nhưng thôi, tớ đi một mình vậy...
Tôi vô cùng biết ơn thằng Cao đã không nài nỉ, lôi kéo tôi thêm!
Tối hôm ấy, tôi cùng Chiến học lại bài “Hằng đẳng thức đáng nhớ”. Thầy Minh đã bảo tôi: “Em xem Chiến chưa học bài nào, quên mất bài nào thì giúp bạn ôn lại để bạn có cơ sở học bài mới và làm bài tập. Gặp bài khó, em lường trước xem bạn mắc chỗ nào, vấp chỗ nào rồi gỡ hộ bạn hoặc nhắc nhở để bạn chú ý. Nhớ là đừng làm thay bạn, làm cho bạn đâm ỷ lại”. Tôi cứ theo lời chỉ bảo của thầy mà làm. Đến nhà Chiến, tôi không mang truyện theo nữa vì hễ bị những trang sách thu hút là tôi chỉ trả lời qua quấy những câu hỏi của nó để chúi đầu đọc sách. Cất sách ở nhà, tha hồ yên tâm. Bao giờ Chiến đuổi kịp lớp, tôi muốn đọc mấy thì đọc.
Tôi đã thưa với bà tôi chuyện tập thể giao tôi nhiệm vụ giúp đỡ Chiến. Hôm qua, trong cuộc họp tổ cha mẹ học sinh, cô giáo cũng có nói với bà tôi thì phải, bà về nhà bảo: “Ừ, bạn bè giúp nhau là phải”.
Nhưng hôm thứ tư, mới sâm sẩm tối, trời đã đổ mưa... Bà tôi thương tôi, bèn tìm cách giữ tôi ở nhà. Bà sai tôi lập cái bảng tính sẵn giá tiền từng loại nước mắm theo đơn vị cút, chai gù và lít để khi bán hàng, bà đong xong chỉ việc nhìn vào bảng mà thu tiền. Cửa hàng hợp tác xã mua bán của xã mở cửa từ hôm qua. Nhà mới chưa xây xong, nhưng để tranh thủ phục vụ xã viên, chị Đào đã mượn tạm nhà bác Mẫn ở phố làm nơi bán hàng.
Đến gần 8 giờ, tôi mới làm xong. Mưa cũng đã nhỏ hạt dần. Tôi đứng dậy nhìn ra cửa. Bà tôi nói:
- Ở nhà thôi cháu. Đi làm gì cho khổ thân. Ngoài đường vô khối rắn đấy.
Rắn thì tôi chả hãi. Quả thực, tôi chỉ hơi ngài ngại quãng đường chân đồi vượt qua bãi tha ma. Trời mưa phùn, thế nào chả có ma trơi. Kể tính tôi cũng nhát. Ai chả biết ma trơi chỉ là lân tinh bốc cháy. Nhưng hễ nhìn thấy những đốm lửa xanh lạnh lẽo, bay lượn chập chờn, y như rằng xương sống tôi lạnh toát, tóc gáy cứ dựng đứng cả lên.
Thấy tôi ngần ngừ, bà tôi lại nói:
- Cháu học bài đi. Ngày mai cháu có những năm bài cơ mà.
Tôi liếc nhìn thời khóa biểu dán ở cột. Ngày mai, thứ năm, giờ đầu là giờ hình. Nguy rồi! Mấy bài toán dựng hình rắc rối lắm. Tôi biết thóp thằng Chiến sẽ vướng đúng chỗ “đường thẳng song song”, vì chính nó đã bảo cuối năm ngoái, nó hiểu bài ấy rất lơ mơ.
- Cháu phải đi, bà ạ.
Tôi lúi húi soạn vở, tìm mấy bài tập đã làm. Bà tôi lắc đầu, khẽ thở dài rồi mở tủ lấy áo mưa đưa cho tôi:
- Cháu cứ cầm đi cho chắc. Biết trời đã tạnh hẳn được chưa! Mây còn dày lắm.
Học sinh lớp 7A chúng tôi quý mến tất cả các thầy, các cô dạy trong trường, nhưng phải nói thật rằng cả lớp yêu nhất cô giáo Mùi, sau đó đến thầy giáo Minh. Tính thầy rất hiền. Chẳng bao giờ thầy cáu gắt. Có đứa nào liều lĩnh không học bài, làm bài, thầy chỉ đứng lắc đầu phiền muộn. Cả lớp đều đọc thấy vẻ xót xa trên gương mặt thầy khi thầy phải hạ bút cho điểm 1, điểm 2. Thế là chúng tôi ân hận ngay về lầm lỗi của mình, chúng tôi đâu có muốn làm thầy giáo buồn!
Thầy hiền mà dạy bảo rất tận tình. Buổi trưa nóng nực, đêm hôm khuya khoắt, bất cứ lúc nào, hễ chúng tôi tìm đến hỏi bài là thầy ân cần giảng giải kỳ hiểu mới thôi. Mới dạy hơn một tháng, thầy đã nắm chắc chỗ mạnh, chỗ yếu của từng học sinh. Trong giờ lên lớp, những ý kiến đúng, những thắc mắc sâu của học sinh được thầy khích lệ kịp thời. Những lời khen ngắn gọn, những nụ cười tán thưởng của thầy có tác dụng thôi thúc chúng tôi rất mạnh, làm cho học sinh khá cũng như kém đều tin ở sức mạnh, phấn khởi tiếp thu bài học. Đặc biệt, trong những tiết luyện tập, không khí làm việc của lớp thật sôi nổi, khẩn trương. Thầy Minh không ngồi trên bục mà đi xuống len lỏi giữa các dãy bàn, hòa mình với chúng tôi, tìm cách động viên cả lớp. “Em Loan còn một chút nữa thì tìm ra kết quả! Em Cao hôm nay làm bài rất tốt! Em Việt đã tìm ra một cách giải rất hay!”. Những tin vui ấy động viên chúng tôi hăm hở thi nhau làm bài thật tốt.
Yêu mến thầy, chúng tôi học theo thầy từ cách phân tích ngắn gọn, chính xác các con toán đến cách trình bày một bài làm trên bảng thật rõ ràng, mạch lạc, biết dùng thước kẻ, compa và phấn màu đúng lúc. Rồi dần dà, cả lớp bắt chước theo thầy cả từng thói quen nhỏ, chẳng hạn như phía dưới chữ toán bao giờ cũng kẻ hai gạch thật đậm.
Có lẽ lòng kính yêu thầy Minh đã làm học sinh 7A chúng tôi thêm thích thú, mê say môn toán.
Hôm nay, hình như thầy giáo có điều gì vui lắm. Vừa bước chân vào cửa, thầy đã vẫy tay cho phép chúng tôi ngồi xuống. Lắm đứa chưa kịp đứng, mới nhổm lên đã ngồi phịch xuống mặt ghế.
Đứng trên bục, thầy giáo mở sách giáo khoa, nhưng lại không giở sổ điểm như mọi lần. Khối đứa đoán già đoán non, tưởng thầy kiểm tra viết, nhấp nhổm chực mở cái phong bì đựng giấy trắng để làm bài tập. Nhưng không phải. Đưa mắt nhìn bao quát một lượt khắp lớp, thầy giáo nói:
- Chúng ta luyện tập mươi phút nhé. Mời em Chiến lên bảng.
Chiến bật dậy như một cái lò xo. Tim tôi cũng nhảy thình thịch. Cái phút tôi hồi hộp mong đợi, bây giờ đã đến, nhưng tôi thấy lo nhiều hơn là mừng.
Chiến lách sau người tôi, đi ra. Tôi run run đẩy lưng nó, miệng thì thào:
- Đừng cuống! Đứng cuống! - Nói như vậy nhưng chính giọng tôi lại lạc đi.
Thầy giáo thong thả đọc đầu bài: “Dựng hình bình hành ABCD...”. Cả lớp lặng hẳn đi. Ai cũng nín thở vì lo lắng. Thằng San quay sang nhìn tôi, mỉm cười ra vẻ thông cảm. Tôi nghe tiếng thầy Minh đọc, rành rọt từng âm, nghe rõ cả tiếng viên phấn xít ken két trên tấm bảng đen. Những dòng phấn trắng dần dần hiện ra: “... cho biết AD = a, đường chéo AC = d và đường cao ứng với cạnh AD = h”.
Viết xong đầu bài, thằng Chiến đứng yên suy nghĩ, chốc chốc lại ngước mắt nhìn lên trần nhà, y như có người viết sẵn bài giải ở trên ấy. Một lát, nó bắt đầu nói, rất chậm, như là vừa nói vừa đếm từng tiếng: “Giả sử hình bình hành ABCD đã dựng được...”. Nó từ từ phân tích đủ các điều kiện. Thầy Minh vui vè gật đầu liền mấy cái:
- Đúng! Đúng! Bây giờ em trình bày cách dựng.
Thằng Chiến không nói. Trán nó nhăn thêm, lông mày cũng nhíu lạị. Phút im lặng kéo dài. Vài tiếng thì thào ở bàn cuối:
- Song song! Song song!
Cái Loan quay đầu lại nhắc khẽ:
- Yên lặng, các bạn!
Thầy giáo nhìn Chiến, khuyến khích. Nhưng nó vẫn đứng như đã mọc rễ, viên phấn cầm tay khẽ di di vào cạnh bảng.
“Chiến ơi Chiến, ứng dụng bài đường thẳng song song, đêm qua học kỹ thế còn quên!”, tôi nghĩ thầm, bụng nóng như lửa đốt. Trên bảng, Chiến cũng đã cuống. Mặt nó nhợt đi. Thầy giáo vội gợi ý:
- Em cứ bình tĩnh. Em còn nhớ định nghĩa hình bình hành chứ?
- Nhớ ạ. Hình bình hành là... là một tứ giác lồi có... có các cạnh đối song song từng đôi một.
- Đúng lắm. Em nhớ kỹ: các cạnh đối song song. Em áp dụng vào bài đi.
Chiến vẫn đứng im. Tôi thở dài. Thế là “ngỗng” rồi! Nhưng kìa trên bảng, Chiến đã bắt đầu vẽ hình. Từng câu, từng câu, nó thong thả giải bài toán, y hệt một người mới ốm dậy tập đi, có lúc vấp, có lúc loạng choạng nhưng cố gắng mãi, cuối cùng cũng đi tới đích. Viết đến nét chữ cuối cùng của phần biện luận, nó nhấn mạnh tay, viên phấn vỡ vụn ra, rơi lả tả. Cả lớp “ồ” một tiếng, thở phào. Thầy Minh giở sổ điểm ra, giọng hân hoan:
- Em quên mất một chút, nhưng phần sau tự làm lấy tương đối vững. Điểm 3.
Chiến đưa hai tay nâng lấy quyển vở của mình, mặt đỏ bừng. Cả lớp vui vẻ nhìn theo nó như đưa nó về tận chỗ ngồi. Tôi cũng thấy nở nang từng khúc ruột.
Cái điểm 3 hình học đầu tiên của thằng Chiến không ngờ lại trở thành một “vấn đề thời sự nóng hổi” của lớp 7A. Hết giờ toán, tất cả cán bộ lớp, cán bộ đội và nhiều đứa nữa xúm quanh hai đứa, hỏi han tíu tít, làm tôi và thằng Chiến phát ngượng. Sáng hôm sau, trên tờ báo liếp “Măng mọc thẳng” của đội Lý Tự Trọng chúng tôi xuất hiện một bài thơ ngắn:
Hoan hô đôi bạn
Thương bạn như thể thương thân
Đêm hôm, khuya sớm ân cần giúp nhau.
Chúc cho đôi bạn tiến mau,
“Mũi tên Bắc Lý” dẫn đầu đội ta!
Bên cạnh có tranh minh họa hẳn hoi, vẽ hai học sinh chụm đầu làm toán bên ngọn đền dầu. Nhìn cái đầu húi cua của đứa ngồi trong, người ta biết ngay tác giả bài thơ nói đến nhóm kết bạn chúng tôi. Nét vẽ đúng là của thằng Cao, nhưng khi hỏi bài thơ do ai làm thì nó lắc đầu: “Bí mật!” Bài thơ nôm na thế thôi mà được nhiều người tán thưởng ra phết. Chính cô giáo Mùi cũng đọc cơ mà. Cuối buổi học, cô gọi tôi, Chiến, Cao và Loan vào nhà. Cô khen:
- Bài báo hay lắm! Nhưng rất tiếc là tranh minh họa vẽ chưa hết ý...
Thằng Cao vội hỏi:
- Thưa cô, thiếu ý gì ạ?
- Lẽ ra phải vẽ một đôi bạn nữa! - Cô giáo hơi cười. - Ở tổ 4 đâu phải chỉ có đôi bạn Việt - Chiến “đêm hôm khuya sớm ân cần giúp nhau!”.
Cao hiểu ý cô giáo ngay:
- Vâng ạ. Em phải vẽ thêm mới được cô ạ. Về bạn Loan thì rõ dễ: hai cái đuôi sam với đôi con mắt...
Cái Loan gạt phắt:
- Đừng! Cậu mà vẽ tớ vào đấy là tớ lấy “quyền” tác giả, tớ bóc bài báo ngay tắp lự...
- Ái chà! Cái “quyền” to gớm! Thế thì tớ vẽ tranh tách ra vậy, hết bóc! Cậu có quyền khen người ta thì người ta cũng có quyền khen cậu chứ! Thưa cô, - thằng Cao quay lại phía cô giáo - dạo trước, sáng nào bạn Loan cũng đến trường sớm tranh thủ tập vài ván bóng bàn, nhưng đến ba tuần nay, bạn ấy đợi em đi học, thành ra chả mó được đến cái vợt. Em phải vẽ lại cái chuyện ấy...
Cái Loan ngượng nghịu nói át đi:
- Thưa cô, không phải đâu ạ. Em đợi để nhờ bạn Cao dạy vẽ bản đồ đấy ạ.
- Thôi, thôi! - Cô giáo cười. - Cô nói đùa một tí, chứ bức tranh minh họa của Cao có ý nghĩa tiêu biểu lắm rồi. Bây giờ ta nói sang việc chính nhé. - Cô quay sang phía thằng Chiến. - Phát súng đầu tiên nổ giòn đấy! Bám chắc lấy thắng lợi nhé. Cả hai “đôi bạn 8 điểm” đều đạt 8 điểm rồi, cố làm sao vươn lên thành “đôi bạn 9 điểm” đi! Muốn “Mũi tên Bắc Lý dẫn đầu đội ta” thì phải tiến lên, không nghỉ, không ngừng. Em Chiến và em Cao có thể phấn đấu đạt điểm 4 chứ?
- Thưa cô, em đang cố đấy ạ.
Thằng Cao nhanh nhảu đáp ngay. Chiến thì ngần ngừ:
- Thưa cô... em... em được điểm 3 là khá rồi!
Cô giáo ngạc nhiên:
- Ô hay! Sao thế?
- Thưa cô, hai năm nay, năm nào môn toán em cũng chỉ được điểm 3 tổng kết thôi ạ.
- Ơ, mỗi năm một tiến bộ chứ! Em bằng lòng với điểm 3 lắm à?
- Vâng. Thưa cô, điểm 3 có phải là điểm kém đâu ạ. Em chật vật mãi mới được điểm 3.
Cô giáo lắc đầu:
- Không, không được! Đạt được trung bình rồi, phải vươn lên học khá, học giỏi chứ. Ngày nay học thật giỏi, mai sau phục vụ Tổ quốc mới tốt, Chiến ạ. À, thế lớn lên em định làm gì nào?
Thằng Chiến đỏ mặt ngồi im. Tôi bèn mách với cô giáo:
- Thưa cô, Chiến vẫn bảo hễ đủ tuổi là Chiến đi bộ đội ngay đấy ạ!
- Thế à! Thật chứ Chiến? Ừ, đi bộ đội thì còn gì bằng. Nhưng phải học thật giỏi mới đi bộ đội được chứ. Chiến có biết các anh bộ đội ngày nay xây dựng quân đội chính quy và hiện đại như thế nào không? Luyện tập trên thao trường, khẩu hiệu phấn đấu của các anh ấy là “Vùi kém xuống đất, hất khá sang bên, dũng cảm tiến lên, giành lấy điểm giỏ”. Đấy, điểm khá cũng chưa vừa ý, còn hất sang bên! Đằng này, “anh bộ đội nhỏ” của lớp 7A mới được điểm trung bình đã hả hê rồi!
Tôi vội nhẩm ngay lại trong óc để ghi nhớ lấy câu khẩu hiệu mà cô giáo vừa nhắc đến. Cái Loan chúm chím cười. Còn thằng Chiến thì im như thóc. Xem chừng nó suy nghĩ, thấm thía với lời khuyên của cô giáo nữa.
Sau buổi đó, Chiến vừa cố học toán, vừa học tập, trao đổi với tôi tất cả các môn. Sáng đi học, nó tạt vào rủ tôi, hai đứa vừa đi vừa truy bài. Tan buổi, hai đứa lại cặp kè đi sóng đôi xào bài. Nó thường thủ thỉ tâm sự:
- Làm cái thằng học sinh kém toán thật nhục, cậu ạ. Cậu cứ tính thế này: mỗi tối học nhiều lắm là 4 giờ, hễ vấp phải một bài toán khó là y như sa xuống hố lầy, đừng hòng ngoi lên. Thế là các bài khác đành bỏ mặc. Đến lớp cũng thế. Mỗi buổi bốn năm tiết, chỉ ngay ngáy lo cho tiết toán. Nói thực với cậu, thầy Minh hiền thế đấy, mà đầu năm, vừa thấy thầy bước đến cửa lớp là tớ run rồi. Trong giờ hỏi bài, tớ chỉ nơm nớp lo thầy gọi đúng tên mình. Tớ cứ muốn thu hình lại thật bé, nép khuất sau lưng các cậu để thầy đừng nom thấy, may ra thầy “quên” mình đi! Thế nhưng càng kém, thầy càng gọi nhiều, và hễ tớ lên bảng là xơi “ngỗng” hay “gậy”.
Thế là đâm ra buồn, rồi những tiết sau cứ nghĩ vơ nghĩ vẩn, giận mình học dốt, giận môn toán khó nhằn, rút cục những bài sau học cũng không vào nữa. Thành thử, toán kém nó kéo tụt các môn khác xuống. Lại còn nhiệm vụ tổ trưởng, phân đội trưởng nữa! Khổ tâm nhất là anh tổ trường học kém! Thấy phân đội mình tụt hậu, tớ cũng sạm mặt lắm chứ. Nhưng tớ chả dám nhắc đứa nào, chỉ sợ nó kháy “chuột chù chê khỉ rằng hôi”...
Thực ra, thằng Chiến đâu có phải là đứa đần. Nó có những ưu điểm mà tôi không sánh kịp. Nó hơn hẳn tôi ở đầu óc thực tế. Học bài nào, nó cũng tìm cách áp dụng vào cuộc sống. Học hóa, nó xin anh cán bộ hóa chất ở nhà máy mấy giọt a-xít loãng nhỏ vào tấm kẽm để tận mắt trông thấy khí hy-đơ- rô bay lên nghi ngút. Học điện, nó sang phòng bưu điện xin mấy ống pin cũ về tập mắc một “hệ thống đèn điện” ở nhà, có bóng đèn hẳn hoi, bật công tắc đánh tách một cái là điện lóe lên (cu Thắng rất mê cái “công trình điện” của anh nó, táy máy nghịch hòng mấy lần!). Nó vẫn ao ước rằng học thế nào để mai sau đóng được một cái máy cấy. Nó nói:
- Cứ mỗi lần đi cấy về, bầm tớ lại kêu đau lưng. Bầm tớ bảo rằng cái nghề làm ruộng vất vả nhất là gánh phân rồi đến cấy... Bây giờ, ở hợp tác xã tớ, đôi vai đã được giải phóng rồi. Tớ chỉ thương cho cái lưng của bầm tớ suốt ngày cúi gập để cắm cây mạ xuống ruộng...
Học chung với nó, tôi dần dà tìm thêm được những mặt tốt của nó. Học trên lớp, tôi có khả năng tiếp thu nhanh, nghe giảng một lượt là hiểu. Nhưng có lẽ vì tôi học không kỹ, không sâu, nên tôi chóng hiểu mà cũng chóng quên. Thằng Chiến thì ngược lại. Nó hiểu chậm hơn tôi, học bài nào cũng bừa đi bừa lại thật kỹ, nhưng hễ đã nhớ là nhớ như khắc vào óc, nhớ đầy đủ các ý lớn, ý nhỏ, nhớ rành rọt từng con số. Học địa lý, nó nhớ kỹ từng tên đất, tên núi, tên sông. Học lịch sử, nó nắm vững từng mốc thời gian quan trọng, ngày, tháng, năm nào xảy ra sự kiện nào. Tôi chúa ngại những thứ tỉ mẩn ấy. Một sáng, hai đứa truy bài lịch sử, nó vặn vẹo hỏi tôi về số công nhân từng ngành ở nước ta năm 1929. Tôi tắc tị, bèn tìm cách chống chế:
- Ô, quan trọng nhất là khả năng tổng hợp, phân tích, suy luận, chứ chất nhiều con số chỉ tổ nặng đầu! Sau này ra đời, lúc cần, khắc có sách vở, cứ giở ra mà tra cứu, phải không cậu?
Thằng Chiến cười hì hì, không cãi, cũng chẳng ra ý tán thành. Nhưng chỉ hai hôm sau, tôi đã được nó trả lời một cách đích đáng.
Bữa ấy, thầy giáo Lộc trả bài tập địa lý. Thằng Chiến được điểm 5. Nó viết và trình bày rất sạch sẽ, bản đồ vẽ đúng tắp, phần câu hỏi cũng trả lời đúng từ đầu đến cuối, “không sai một dấu phẩy”, như chúng tôi thường nói đùa với nhau. Tôi chỉ được điểm 4. Đầu bài hỏi về dãy Trường Sơn. Tôi vẽ bản đồ cũng đẹp, trả lời đúng tất cả các nét chính, nhưng lại không nhớ được những con số thật chính xác. Tôi bèn viết một cách “khôn khéo”: “... Từ bắc xuống nam có dãy Pu-lai- leng rất cao...”, “Miền núi Khánh Hòa, Bình Thuận cao trung bình...”. Thầy Lộc tinh lắm. Thầy phê ngay bên cạnh: “Rất cao là bao nhiêu mét?”. Bài ấy chỉ được điểm 4, chẳng oan tí nào. Nhưng tôi vẫn thấy bừng bực khi thằng Chiến được điểm 5. Hôm trước, trong lúc xào bài, chính tôi đã giải thích cặn kẽ cho nó hiểu người ta dựa vào đặc điểm nào để chia dãy Trường Sơn thành hai phần nam và bắc. Thế mà đến lúc làm bài tập, nó hơn đứt tôi một điểm! Lòng ích kỷ, tính hiếu thắng đã trở thành một phản ứng cố hữu, lần này lại thừa dịp nổi lên giày vò tôi...
Đã vậy, bọn thằng San, thằng Mạnh cứ hỏi nheo nhéo:
- Cậu điểm mấy, Việt ơi?
- Bốn! Hỏi gì hỏi mãi!
Chúng nó vẫn tươi hơn hớn:
- Bàn ta nhất thằng Chiến! Nó được điểm 5 đấy nhé. Hoan hô phân đội trưởng!
Ngay cái Loan cũng mừng ra mặt khi thấy thằng Chiến được điểm 5. Lúc giở sổ lấy điểm, gọi tên “Chiến” xong, nó còn ngoảnh lại hỏi “5 hả?” rồi nhoẻn miệng cười một cái. Cuối giờ, cái Loan xuống tận bàn tôi, hớn hở: “Bài này tớ cũng điểm 4. Anh chàng Cao điểm 5 đấy nhé, bản đồ nó vẽ tuyệt lắm! Thế là chúng mình cùng vươn lên ‘điểm 9’ cả đấy! Hoan hô bạn Chiến!”.
Tôi không nói gì, nhưng trong bụng bực dọc nghĩ thầm: “Hoan hô cái khỉ gì! Thử đừng có người ta giúp xem!”.
Tối hôm ấy, tôi bỏ ra bãi chiếu bóng nhà máy xem phim “Con chim vành khuyên”. Lúc nào băn khoăn nhớ đến thằng Chiến, tôi lại giận dỗi nhủ thầm: “Chà, nó giỏi lắm, còn hơn điểm mình cơ mà! Giúp nó làm gì nữa!”.
Sáng hôm sau, Chiến đến rủ tôi đi học sớm. Nó trách:
- Tối qua có mấy bài toán khó quá, cậu lại chả đến!
- Cậu mà cũng thấy khó à?
Thằng Chiến không để ý đến cái giọng chua chát của tôi. Nó thực thà:
- Khó thật mà! May là kiến thức cũ, tớ được cậu giúp, tớ nắm vững cả, nên gỡ mãi cũng ra! Chín giờ tối mới xong đấy! Bài “trạng ngữ”, tớ đã ôn được đâu.
Chả là hôm nay có giờ ngữ pháp, cô giáo dặn chúng tôi ôn bài “trạng ngữ” đã học ở lớp 5 để tiếp thu bài mới cho nhanh. Chiều qua, tôi học lại kỹ lắm, có thể gấp vở đọc làu làu. Tôi vụt nảy ra một ý nghĩ: à, phải xoay thằng này một vố toát mồ hôi mới được! Tôi bèn nói:
- Đừng lo, Chiến ạ. Tớ giúp cậu ôn mà.
Ra đến đường cái, tôi bắt đầu truy thằng Chiến:
- Trạng ngữ là gì? Cậu nói đi!
- Ô, tớ đã ôn đâu!
- Chưa ôn cũng phải trả lời! Ỷ lại nó quen đi. Bài này học rồi, trí nhớ cậu tốt, cậu phải nghĩ ra chứ!
Cứ như thế, tôi bắt nó vắt óc ra nghĩ. Làm tội nó một lúc, tôi mới đọc lại phần định nghĩa trạng ngữ cho nó nghe. Nó lẩm nhẩm nhắc lại mấy lần thì thuộc. Tôi lại xoay tiếp:
- Bây giờ tớ đặt câu, cậu tìm trạng ngữ nhé.
- Ừ, nhưng phải dê dễ đấy! - Thằng Chiến có vẻ chùn.
Tôi đọc to:
- Đội viên thiếu niên tiên phong phải phấn đấu học giỏi.
- Dễ quá! Giỏi là trạng ngữ chứ gì!
Tôi mỉm cười đọc tiếp luôn:
- Thế mà thằng Chiến lại phổng mũi với điểm 3 trừ.
- Láo!
- Tìm trạng ngữ đi chứ!
- Mày xỏ tao!
- Cô giáo bảo cậu thế chứ tớ có bịa ra đâu!
- Nhưng tớ đã thấy tớ sai rồi cơ mà! Lâu nay tớ chả phấn đấu là gì đấy!
Xỏ ngọt nó được một câu, nỗi bực dọc của tôi đã tiêu tan. Tôi cười xòa:
- Ừ... thế thôi... thế thôi...
Thằng Chiến nguẩy đi, không nói nữa. Nhìn vẻ mặt ỉu xìu của nó, tôi bỗng nhớ đến cái buổi tối chủ nhật, hai đứa ngồi tâm tình bên ngọn đèn dầu. Thế là tôi bắt đầu hối. Tôi biết tôi sai rồi. Chúng tôi kết bạn với nhau, giúp nhau vươn lên học khá, thế mà khi nó được điểm cao hơn tôi, tôi lại ghen tức với nó! Thật là nhỏ nhen! Thật là vô lý! Tôi bèn tìm cách làm lành với nó. Tôi há mồm ra, bắt chước thằng Chiến làm gà gáy, trêu cho cu cậu đang phụng phịu cũng phải bật lên cười. Thế là hòa cả làng! Sang tiết vật lý, thằng Chiến lại ghé sát đầu vào má tôi cùng xem hình vẽ “động cơ bốn kỳ” trong sách giáo khoa. Cơn giận của nó mới dễ chịu chứ, chỉ thoáng qua như một cơn mưa bóng mây. Thế mới biết khi người ta chỉ bo bo nghĩ đến mình thì việc nhỏ bằng hạt cát cũng gây đổ vỡ. Nhưng khi đã thân thiết với nhau, ai cũng dễ bỏ qua những vụng về sai sót của bạn mình.
Từ đó, thằng Chiến tiến bộ rất chắc. Nó không hề bị một điểm kém nào về môn toán nữa. Điểm 4, điểm 5 ở các môn khác cũng nhiều lên dần dần.
Sau này, nhìn lại, tôi mới vui sướng nhận ra thêm một điều: chính tôi cũng đã lớn lên nhiều trong những ngày được tập thể giao nhiệm vụ giúp đỡ thằng Chiến. Giúp nó học toán, tôi có dịp củng cố kiến thức thêm vững vàng. Kết bạn với nó, tôi học được ở nó thật nhiều nết tốt. Và quan trọng hơn cả, trong những ngày này, được rèn luyện, tôi bắt đầu hiểu rằng muốn làm một người bạn tốt thì phải biết quên mình...
