Sáng hôm sau, thằng Chiến nghỉ học. Trước giờ vào lớp, cả tổ 4 xúm quanh thằng San. Sáng nay, nó đã tạt vào trạm xá. Người ta bảo đã chuyển mẹ Chiến lên bệnh xá huyện ngay từ khuya hôm qua. Thằng Chiến cũng lên đấy săn sóc mẹ.
Ngồi học, ruột tôi cứ nóng phừng phừng. Mọi ngày, có thằng Chiến ngồi bên cạnh, tôi chỉ khẽ hích tay sang là bắt gặp ngay một nụ cười thân thiết. Hôm nay, vắng thằng Chiến, có ba đứa ngồi một bàn, nó trống trải làm sao ấy. Chốc chốc, tôi lại sực nhớ đến Chiến, rồi cứ thế nghĩ ngợi miên man. Mẹ cậu ấy liệu có làm sao không? Tan học, thế nào tôi cũng chạy ù đến bệnh xá huyện... Chà, bài toán này rắc rối quá, phải nghe kỹ để tối nay đến giảng lại cho nó. Cái thằng vất vả quá! Mới nhích lên một chút đã gặp khó khăn, biết bao giờ khá được?
Hôm nay không có giờ văn. Hết tiết học cuối cùng, cả lớp đang lúi húi xếp sách vở sửa soạn ra về, chợt cô giáo Mùi lật đật bước vào:
- Ngồi lại đã, các em, ngồi lại đã. Chúng ta họp đội một lúc.
Tiếng rì rầm im bặt. Chúng tôi đặt cả sách vở xuống mặt bàn. Tất cả ngơ ngác nhìn cô giáo. Tôi liếc vội sang chỗ ngôi bỏ trống của Chiến một cái rồi ngẩng lên.
Hình như cô giáo vừa đi đâu về, vội lắm. Cô vẫn còn thở gấp gấp:
- Có việc cần trao đổi ngay. Chúng ta tranh thủ hội ý một lúc.
Tôi giật nảy mình, nhổm hẳn người lên, thoáng nghĩ: “Đúng rồi, thằng Chiến!”. Cô giáo nói tiếp, giọng trầm xuống:
- Em Chiến không khéo phải bỏ học mất, các em ạ...
Cả đội nín thở, lặng đi, hệt như giây phút choáng váng trước ánh chớp sáng lòe của một tia sét. Có tiếng đứa nào hỏi nhỏ:
- Thưa cô, sao thế ạ?
- Các em ạ, sáng hôm nay, mẹ em Chiến đã được ô tô cấp cứu chuyển lên bệnh viện tỉnh. Phải mổ dạ dày ngay. Chắc là cứu được. Nhưng mùa gặt đến rồi. Mẹ Chiến có khỏi cũng phải dăm ba tháng nữa mới gánh vác được công việc đồng áng nặng nhọc. Ba miệng ăn trông cậy vào sức lao động của Chiến...
Chúng tôi ngồi lặng, trong lòng buồn rầu xen lẫn với cảm giác tức tối thấy mình bất lực trước tai họa đang ập xuống đầu một người bạn. Cô giáo lại nói tiếp:
- Các em ạ, hợp tác xã Phương Lai đã giúp đỡ gia đình Chiến nhiều lắm. Mẹ Chiến nằm trạm xá bốn tháng nay, thuốc thang tốn kém đều nhờ quỹ cứu tế trợ cấp. Đội sản xuất đã xếp việc cho Chiến làm buổi chiều lấy thêm công điểm. Trường ta cũng hết lòng săn sóc Chiến, Chiến được học bổng, được cấp đầy đủ sách giáo khoa. Các em cũng đã tận tâm giúp bạn. Chiến hiểu điều đó và hứa sẽ cố gắng. Nhưng... khó khăn trước mắt lớn quá. Không vượt qua được thì bạn của chúng ta đành bỏ dở năm học cuối cùng ở cấp 2...
Im lặng một lát. Rồi cái Loan chậm chạp đứng lên. Giọng nó run run ngắt quãng vì cảm động:
- Thưa cô... bạn Chiến không thể bỏ học được ạ. Chúng em sẽ... sẽ bàn cách giúp bạn ấy học cho xong lớp 7. Thưa cô... chỉ còn năm, sáu tháng nữa. Cô đã dạy chúng em “một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ”... Chúng em không đành lòng nhìn bạn dở dang ạ...
Lời phát biểu của cái Loan làm không khí cuộc họp sôi sục lên. Một loạt cánh tay rào rào giơ cao. Tôi cũng rướn người, giơ một tay lên, tuy chưa biết mình sẽ nói gì nếu cô giáo cho phép. Thằng Mạnh được chỉ định đầu tiên. Cái giọng lém lỉnh mọi ngày biến đâu mất. Nó ấp úng:
- Thưa cô... Em đồng ý như bạn Loan... Em đề nghị... góp tiền ạ!
Tôi nghĩ ngay: “Ừ, đúng đấy, góp tiền. Mình sẽ xin tiền bà. Bà có cho không? Nhất định phải xin được!”
Cô giáo hỏi thằng Mạnh:
- Em lấy tiền đâu mà góp? Xin cha mẹ à?
Thằng Mạnh ngập ngừng:
- Thưa cô, em... em đi gánh gạch thuê ạ.
Thằng Mạnh vừa ngồi xuống, cái Cúc đã đứng lên, lí nhí:
- Thưa cô... còn em, em đi bắt cua ạ!
- Em biết bắt cua chứ?
- Vâng ạ.
- Em sợ đỉa lắm cơ mà!
Giọng cái Cúc ngạt đi:
- Em bắt cua được chứ ạ. Cô không tin em ạ?
Cô giáo vội nói:
- Ô, tin chứ, tin chứ! Chúng ta bàn nữa đi nào.
Bốn đứa nữa phát biểu ý kiến. Cuối cùng, toàn đội nhất trí sẽ góp tiền, bằng cách mỗi đội viên lao động một buổi, làm gì thì làm. Cô giáo gợi ý thêm: tuần sau nghỉ mùa, đội ta có thể kéo quân về Phương Lai gặt một buổi, lấy công giúp Chiến. Ý kiến hay quá, chúng tôi tán thành ngay.
Lúc ra về, chúng tôi đi tụm thành từng nhóm trên đường, sôi nổi bàn bạc xem nên làm gì. Thằng Mạnh quả quyết rằng tốt nhất là gánh gạch thuê, cứ một trăm gạch được năm hào, ngon ơ. Thằng San mách: dạo này kéo tép kiếm được lắm.
Thằng Vĩnh gạt phắt, bảo đó là việc của bọn con gái yếu ớt. Tôi cũng băn khoăn không biết làm gì ra tiền. Từ bé đến nay, chưa bao giờ tôi tự tay làm được một hào. Mua cái ngòi bút ba xu, tôi còn phải ngửa tay xin tiền bà nội nữa là! May sao, cái Loan rủ tôi: “Sáng chủ nhật đi bắt cua với chúng tớ nhé! Tớ bày cho!”. Tôi bằng lòng ngay.
Hôm ấy, mãi tám giờ sáng, chúng tôi mới ra đồng. Ban đầu có ba người: cái Loan, tôi và cái Cúc. Sau có thêm thằng Mạnh. Đáng lẽ thằng Mạnh đi gánh gạch. Bố mẹ nó đều là công nhân, làm ở phân xưởng cơ khí, xin được việc cho nó. Nó gánh chuyến đầu được mười viên gạch. Đến chuyến thứ hai, lồng trái khoáy thế nào, dây quang đứt phựt. Về nhà, bố nó không nói gì. Nhưng mẹ nó tiếc của, mắng nó mấy câu. Nó chán, bèn bỏ đi bắt cua với chúng tôi. Thế là có bốn đứa cả thảy.
Chúng tôi xuống đến đồng, trời còn rét quá. Mây xám nặng như chì. Gió bấc réo ù ù, quất vào da thịt cứ như rứt đi từng miếng thịt. Sờ tay lên mặt, giá lạnh như sờ phải tấm đồng. Lội xuống nước, buốt cóng tưởng rụng bàn chân. Đã thế, cái Cúc lại sợ đỉa, thấy một con bơi ngùng ngoằng là lội nháo nhào lên bờ, nước bắn ướt đẫm hai ống quần. Vất vả thế đấy nhưng chúng tôi vẫn vừa làm vừa cười đùa, mặt đứa nào cũng tươi tỉnh, vì có ai bắt buộc chúng tôi làm đâu!
Cái Loan bày cho tôi cách phân biệt hang cua với hang rắn. Lội oàm oạp một lúc cho nóng người, chúng tôi hò nhau bắt. Có lần thằng Mạnh mò phải cái cuống rạ lầy nhầy, tưởng rắn, hét ầm lên! Cu cậu ra cũng non gan! Thế nhưng cái Loan vẫn thản nhiên. Nó bảo nó chỉ sợ chuột mới đẻ, đỏ hon hỏn trông ghê chết đi ấy, chứ nó chả hãi rắn. Rắn nước nó cắn cũng chỉ để lại hai dấu răng tê tê, chẳng mùi mẽ gì. Dạo tháng năm, đi làm đồng, gặp rắn, nó còn trêu cho rắn vươn cổ mổ côm cốp vào lưỡi cuốc ấy chứ.
Thật may cho chúng tôi, đến trưa, trời hửng nắng. Nước âm ấm, cua mới bò ra. Chúng tôi bắt mỗi đứa được lưng giỏ. Cái Loan bảo dồn cả lại, để mình nó mang ra khu công nhân bán, tội gì kéo đi cả bốn đứa. Chúng tôi bằng lòng ngay. Tôi cứ mong chong chóng về đến nhà, sà vào bếp sưởi một lúc cho sướng đời.
Cả lớp có chừng mười đứa nữa đi bắt cua như chúng tôi. Bọn khác xoay xở đủ việc. Cánh thằng Vĩnh tổ chức một đoàn vào tận Đồn Vàng hái củi. Mấy đứa con gái ở xã Thạch Sơn mượn te kéo tép. Thằng Cao đi đánh giậm. Thằng San thì nhặt nhạnh ống bơ, vỏ thuốc đánh răng, lông gà, lông vịt, bán cho mấy bà hàng rong. Tổ nữ công của lớp lại nhận thêm việc đan găng tay, túi bút máy lấy tiền giúp bạn.
Trên bàn cô giáo đặt một hộp phấn cũ đã dán lại bằng giấy trắng, chỉ hở một kẽ nhỏ bằng que diêm. Trên mặt hộp kẻ bốn chữ đỏ thắm: “Vì bạn thân yêu”. Ai ủng hộ bao nhiêu cứ tự tay bỏ tiền vào hộp rồi ghi vào sổ “Việc tốt”. Cái Loan bán cua xong, đem tiền lẻ đi đổi được một tờ giấy bạc hai đồng mới tinh. Cánh thằng Vĩnh, sáu đứa đi củi, cũng mang đến một tờ giấy bạc năm đồng chưa có nếp gấp. Thằng San thì ngược lại. Nó dốc túi xủng xoảng được một vốc tiền xu, cứ trịnh trọng nhón từng đồng một bỏ vào hộp.
Thằng Chiến đã đi học, sau ba hôm nghỉ ở nhà. Nó gầy đi, ít nói, nghiêm nghị, trông như người lớn ấy. Tôi thương nó quá, cứ ước mình có cách gì giúp được nó thật nhiều, thật nhiều. Nhưng phải cố cả đội, cả lớp, chứ riêng sức tôi có được là bao.
Bài vở của nó, tôi đã chép đầy đủ, chép cẩn thận hơn bài của tôi ấy. Thế mà giờ ra chơi, nhiều đứa vẫn xúm lại hỏi: “Chúng mày cần gì không?”. Nhà trường đã quyết định trích quỹ lao động giúp Chiến hai chục đồng. Trong giờ học, thầy giáo nào cũng nhìn nó với đôi mắt dịu dàng, thông cảm. Buổi nào, cô Mùi cũng gọi nó lại an ủi, hỏi han.
Cả lớp hồi hộp theo dõi bệnh tình mẹ Chiến. Có tin ở bệnh viện nhắn về, Chiến báo ngay với chúng tôi: “Hôm nay đã uống sữa được...”, “Đã ngồi dậy được rồi...”.
Thằng Chiến rất cảm động trước việc làm của toàn đội. Cứ thấy đứa nào lên bỏ tiền vào hộp, nó lại cúi đầu, sịt sịt trong mũi. Ban đầu, chúng tôi chỉ góp tiền. Một bữa, cô giáo mang đến hai thếp giấy Việt Trì. Thế là cả lớp bắt chước ngay, mang đi đủ thứ, nào bút chì, thước kẻ, nào compa, giấy trắng... Tôi sực nhớ rằng tôi còn một cái bút máy nữa, bà tôi cất tận đáy va li. Từ dạo cha tôi mua cho tôi cái bút máy Hồng Hà, tôi không đùng bút cũ nữa. Trước ngày nghỉ mùa, tôi bèn mang bút đến lớp. Cô giáo hỏi:
- Bà em bằng lòng rồi đấy chứ?
- Thưa cô, bút máy của em cơ mà.
- Nhưng phải xin phép bà đã, Việt ạ.
Tôi tần ngần bỏ cái bút vào túi, quay đi. Cô giáo dặn thêm:
- Tối nay họp tổ cha mẹ học sinh đấy. Em cố mời bà đến dự nhé.
Sau bữa cơm chiều hôm đó, tôi kể chuyện mẹ Chiến ốm nặng cho bà tôi nghe. Bà tôi ngồi bỏm bẻm nhai trầu, cái đầu tóc bạc trắng khe khẽ gật: “Thế à? Thế cơ à? Tội nhỉ! Tội quá! Phải, các cháu giúp bạn thế mới quý...”. Tôi bèn nói luôn:
- Cháu cho bạn cháu cái bút máy, bà nhé.
- Hử, bút máy nào?
- Cái bút cũ trong va li ấy mà.
- Bút ấy mà cũ à? Ba đồng bạc một cái chứ chả ít tiền đâu! Bà mày đứng bán hàng còm cọm suốt một ngày, tiền công cũng chỉ đồng hai năm xu thôi đấy!
Tôi ngồi sững ra: sao bà tôi đổi ý chóng thế? Buồn quá, tôi mang sách ra đọc. Bà tôi vẫn nhai trầu trên giường. Chả biết bà tôi nghĩ ngợi những gì, có lúc ngồi thừ, ngậm mãi miếng bã trầu trong miệng. Lúc bác tổ trưởng tổ cha mẹ học sinh đứng ngoài cửa gọi đi họp, bà tôi trả lời: “Bác đi trước, nhà cháu sang ngay đấy!” nhưng lại lẩm bẩm: “Đêm hôm, rét mướt thế này, chả họp thì đừng...”. Tôi chắc bà tôi đang giận tôi nên cũng không nài thêm. Sực nhớ chuyện sáng mai đi gặt, tôi bèn bỏ xuống bếp, đi vòng lối sau sang nhà bác Lãm mượn cái liềm.
Lúc tôi về, giắt cái liềm vào cửa bếp rồi quay lên thì đã thấy cô giáo Mùi ngồi trong nhà. Bà tôi đang mặc thêm áo bông. Cô giáo bảo tôi:
- Việt ở nhà nhé. Bà đi họp tổ một lát.
Vừa đi ra cửa, cô giáo vừa nói chuyện với bà tôi:
- Hôm nay rét quá, cụ nhỉ. Cháu bé của con gửi cô Vân ở nhà, con phải ủ chăn thật ấm! Được cái hai bà cháu cùng đi cũng vui. Chốc nữa con lại đưa cụ về...
Đêm ấy, tôi cũng không biết bà tôi về lúc nào. Ngày mai bắt đầu nghỉ mùa rồi, tôi không học bài, chỉ đọc mươi trang sách rồi tắt đèn đi ngủ sớm.
Mặt trời đã lên, tròn và đỏ như một quả dưa hấu bổ đôi. Những đám mây ở đỉnh trời sáng loáng như dát bạc. Về phía tây, mây vẫn dựng như một bức tường bằng đá trắng. Lúa chín rực lên một màu vàng tươi no ấm, trải từ vệ đê đến tận dãy đồi đất đỏ xa xa.
Đội thiếu niên Lý Tự Trọng tập trung trên bãi cỏ chân đê còn ướt đẫm sương đêm. Chỉ thiếu mỗi thằng Mạnh. Ý chừng cu cậu ngủ quên mất. Ai cũng xắn quần gọn ghẽ, tay cầm liềm lăm lăm. Cô giáo dặn dò xong lần cuối cùng, chúng tôi dàn hàng ngang tràn xuống. Hợp tác xã ưu tiên giao khoán cho chúng tôi bốn thửa ven bờ, lúa đứng, dễ gặt. Tôi đứng cạnh cái Loan. Vừa bước xuống ruộng, nó cắm cổ cắt lem lém, nhanh như cái liềm máy. Tay trái túm gốc lúa, tay phải nó giật liềm, xoẹt một tiếng, bụi lúa đứt gọn. Cứ thế, xoẹt, xoẹt, xoẹt... Chốc lát, những gồi lúa đã nằm ngổn ngang sau lưng nó.
Từ thuở cha sinh mẹ đẻ, lần này là lần đầu tôi đi gặt. Tôi cứ vờ lúi húi xắn quần để liếc xem cái Loan cắt thế nào. Bắt chước nó, tôi cũng quơ tay túm gốc lúa, thận trọng lách lưỡi liềm vào, giật nhẹ. Xoẹt. Bụi lúa vẫn nhùng nhằng. Tôi mắm môi mắm lợi cắt xoẹt cái nữa, bụi lúa mới đứt cho.
Tôi rón rén cắt được một lượm thì cái Loan đã làm trụi một khoảng rộng bằng ba chiếc chiếu. Ngoái cổ lại thấy tôi lúng ta lúng túng, nó cười:
- Anh bạn tôi chưa quen rồi. Nhìn tớ đây nhé. Liềm đưa thuận chiều từ phải sang trái, nhớ chưa? Đừng cắt sát đất quá, gốc rạ cứng, vừa chậm vừa hại liềm. Cậu cắt thử xem nào. Thế... Nhanh tí nữa. Thế... thế... Được rồi.
Nó lại cúi xuống, lùi lũi gặt. Tôi không tài nào theo kịp nó! Chốc chốc, cái Loan phải quay lại, gặt giúp tôi, thành thử cả hai đứa tụt lại sau. Tôi bèn rút kinh nghiệm, cứ đứng chỗ này một lúc lại chạy sang chỗ khác, nhờ cả đội giúp đỡ. Thế là không ai chậm cả. Chúng tôi xếp thành một hàng dài, cúi lom khom vừa gặt vừa chuyện trò rôm rả. Mãi một lúc sau, thằng Mạnh mới hớt hải chạy đến. Mặt nó đỏ gay. Hẳn là cu cậu phóng một mạch từ nhà ra đây. Chẳng nói một câu, nó lội xuống cắm cúi gặt luôn.
Cô giáo Mùi không cắt bằng liềm mà dùng hái xén lúa rồi lượm lại. Tay cô xoay đon lúa cứ dẻo quèo quẹo, thành thạo như một người làm ruộng lành nghề. Cô kể chuyện năm cô mới về Lâm Thao, khu đồng Chùa này lúa xấu “chó chạy hở đuôi”, thế mà mấy vụ này lúa cứ bốc ngần ngật. Năm nay bón thêm supe lân, mỗi sào phải bội thu hàng chục cân là ít.
Nắng lên, chúng tôi cởi bớt áo. Bọn con trai ngứa ngáy, bắt đầu nghịch. Thằng Mạnh ném đất bồm bộp vào nón cái Viễn. Thằng San không sợ đỉa mà kêu ầm lên khiến cái Cúc phát hoảng, chốc chấc lại nhấc chân lên, nghiêng ngửa nhìn khắp. San ta được thể, càng làm già. Nó rứt một chú đỉa ở bắp chân, lia sang phía cái Cúc. Cái Cúc cuống quýt bước giật lùi làm toàn đội cười ồ. Tôi “đấu khẩu” với thằng Vĩnh về chuyện phân biệt hang cua với hang ếch, suýt nữa cãi nhau to!
Rào rào như tằm ăn rỗi, mới chín giờ, chúng tôi đã cắt gọn cả bốn thửa. Cô giáo hỏi ý kiến toàn đội:
- Thế nào các em, gặt nữa hay về? Bốn thửa này được một trăm chín mươi ba điểm rồi đấy. Bây giờ chỉ còn những đám ruộng sâu, lúa rối, khó gặt đấy.
Tôi vặn người mấy cái. Các đốt xương kêu rào rạo, cột xương sống vừa đau vừa mỏi như có người trở sống dao dần khắp lượt. Bây giờ ngả lưng nằm dài trên bãi cỏ là tuyệt nhất!
- Thưa cô, còn sớm, ta nhận gặt thêm vài thửa nữa ạ. - Thằng Long nói.
- Ý kiến các em khác thế nào?
- Đồng ý ạ! Làm nữa ạ!
Tất cả trả lời. Thằng Cao cũng hăm hở vung cái liềm, hét “đồng ý” rất to.
Cô giáo mỉm cười, giơ cái hái quá đầu:
- Nào! Chúng ta làm nữa! Đề nghị các em chia làm hai toán thi nhau xem toán nào làm nhanh nhé!
Chúng tôi reo lên hưởng ứng. Bọn thằng Mạnh lại đòi chia trai riêng. Bọn cái Quế cũng chẳng lép. Thế là chia đôi. Cả hai toán hối hả gặt. Gần năm chục lưỡi liềm đưa loang loáng dưới ánh mặt trời. Những gồi lúa vàng mượt xếp ngổn ngang như những chú bê non nằm phủ phục.
Thằng Chiến gánh ra hai nồi nước chè tươi, lễ mễ bê xuống. Bọn con gái khát cháy cổ cũng không dám nghỉ tay. Chúng nó gặt giỏi, nhưng bọn con trai chúng tôi đông gấp ba nên đã tiến quá xa. Sau cùng, cô giáo phải tuyên bố toàn đội nghỉ giải lao, mấy đứa con gái mới ùa lên, vừa ngửa cổ uống ừng ực, vừa ngả nón quạt lấy quạt để.
Bọn tôi ngồi nghỉ cạnh cô giáo. Cô bảo rằng tối qua, ở cuộc họp tổ cha mẹ học sinh, cô có nói đến chuyện đi gặt sáng nay. Các bà, các cụ rất tán thành việc nhà trường và Đoàn, Đội tổ chức cho học sinh giúp đỡ, đùm bọc nhau. Có mấy cụ còn sốt sắng đề nghị hội cha mẹ học sinh cũng nên có cách tương trợ gia đình Chiến. Quay lại phía tôi, cô giáo nói khẽ:
- Lúc cô đưa bà em về gần đến nhà, bà có nói chuyện cái bút máy đấy. Sáng nay bà bảo Việt rồi chứ?
Tôi lúng túng ngồi im. Thực tình, sáng nay, tôi dậy từ lúc mờ đất, rón rén mặc áo quần, đội mũ, rồi len lén cầm liềm đi lối cửa sau. Tôi chỉ sợ bà tôi ngăn cấm không cho tôi đi gặt. Tôi thật bậy!
Thằng Mạnh, sau khi nốc cạn bát nước thứ hai, mới đi lại chỗ chúng tôi. Chợt nó vỗ tay vào đùi đánh bẹt:
- Chết rồi! Việt ơi Việt!
- Gì thế? - Tôi và bọn thằng San xúm lại.
- Chết rồi! Vội quá, tớ quên tịt mất Việt ạ. Lúc tớ chạy qua cửa hàng, bà cậu gọi giật lại... Bà cậu gửi cho cậu này...
Nó móc túi lôi ra một cái bánh mì ướt nhoẹt. Cả bọn phá lên cười. Cái bánh mì nhét trong túi từ sáng đến giờ, ngâm mồ hôi, nước ruộng, đã hấp hơi, bốc mùi chua chua. Thằng San gật gù:
- Bữa sáng của thằng Việt ngon nhỉ! Có ném cho con lợn nhà tớ, nó cũng khịt khịt mũi bỏ đi!
Cái bánh mì đúng là không ăn được nữa, nhưng tôi cũng đút cẩn thận vào túi. Lúc trở xuống gặt tiếp, tôi cứ luẩn quẩn nghĩ mãi về cái bánh. Sáng ra, biết tôi đi gặt, hẳn là bà tôi băn khoăn lo tôi đói. Mua được bánh, khéo không bà tôi chạy cuống cuồng tìm người gửi ấy chứ! May mà có thằng Mạnh chạy qua! Bà tôi mừng phải biết nhé, thế nào chả cười nhăn cả má! Chao ôi! Bà nội yêu mến của tôi! Tôi có lỗi với bà nhiều quá! Tối nay, tôi sẽ ôm lấy đôi vai gầy của bà, thưa lại với bà. Bà ơi, cháu biết rằng không ai thương cháu bằng bà. Cháu lại biết rằng bên cạnh tình thương đứa cháu nội ruột rà, bà của cháu đang tìm thấy một tình thương rộng lớn hơn trong cuộc sống mới, với các bác nông dân tập thể đôn hậu, thật thà. Cũng như bà, ở đây, cháu đã dần dà biết được thế nào là niềm vui được chăm sóc, lo lắng đến người khác. Cháu lại có niềm vui được sống giữa những người bạn tốt nhất trên đời. Đấy là cái Loan, đứa con gái thông minh, học giỏi, sốt sắng với công việc chung, đứa con gái có những nhận xét sắc như lưỡi dao cau nhiều bận làm cháu bà tức nổ ruột. Đấy là thằng Mạnh thẳng ruột ngựa, lém lỉnh, khoác lác một tấc đến trời. Đấy là cái Quế bạo mồm bạo miệng, cái Cúc e dè nhút nhát. Đấy là thằng Vĩnh bẳn tính, thằng San nghịch ngầm... Bà ạ, chúng nó đấy, mỗi đứa một tính, có thể cãi nhau ầm ĩ vì một chuyện vớ vẩn trẻ con. Nhưng tất cả chúng cháu kề vai sát cánh trong tập thể lớp, tập thể Đội, tận tình giúp nhau học tập, tu dưỡng, rèn luyện, dắt dìu nhau dàn hàng ngang vươn tới. Và khi một người bạn gặp khó khăn, hoạn nạn, lập tức không ai nghĩ đến mình nữa. Ai cũng coi tai biến của bạn là bất hạnh của chính mình. Khẩu hiệu đẹp đẽ “Vì bạn thân yêu” đã gắn bó tất cả thành một khối vững chắc. Bà nội của cháu ơi! Sống trong một tập thể như vậy, cuộc đời của cháu có ý nghĩa biết bao!
Tôi cúi lom khom, vừa gặt vừa miên man nghĩ ngợi, cô giáo đến bên cạnh lúc nào không biết. Cô nói chuyện với thằng San:
- Quãng này lúa đổ, gặt chậm quá San nhỉ.
Quả có chậm thật. Lúa đổ rạp, rối tinh, rối xòe. Những tay cắt thạo như cái Loan phải đi trước mở đường. Chúng tôi tiến theo sau, vừa gỡ vừa cắt, lựa chiều lúa đổ mà lách lưỡi liềm vào, vất vả gấp mấy lúc đầu. Tôi hỏi cô giáo:
- Thưa cô, sao cùng một khoảnh đất mà lúa ở thửa bên kia không đổ ạ?
- Em thử đoán xem vì sao?
- Em chắc là mỗi thửa một giống lúa, đúng không cô? Thứ cây nào cũng có những giống khác nhau, cô nhỉ. Vườn nhà em có một cây ổi lớn bị bão quật cả rễ, thế mà rừng ổi ngay cạnh đấy lại chẳng đổ một cây nào. Giống ổi rừng quen chịu mưa gió, cứng cáp hơn nên nó chống được bão, nó không đổ, cô nhỉ.
- Ừ, em nói đúng, nó không đổ vì nó cứng cáp hơn.
Cúi xuống gặt được một lượm, cô giáo lại ngẩng lên, nói tiếp:

- Còn vì nó biết dựa vào nhau nữa, Việt ạ.
Giọng cô rất nghiêm trang. Chắc hẳn không phải cô chỉ nói tới những cây ổi trong rừng. Tôi cúi xuống, nghĩ thầm: “Em hiểu ý cô rồi, cô ạ!”.
Mặt trời gần đứng bóng.
***
Đội thiếu niên Lý Tự Trọng xếp hàng ba, tay cầm liềm, chân bước rầm rập, phấn khởi như một đoàn quân chiến thắng. Cô giáo Mùi - chị phụ trách của chúng tôi - dẫn đầu đoàn quân, dáng nhanh nhẹn, gió đánh một góc khăn quàng bay phần phật.
Chúng tôi lên đỉnh đồi cao. Nắng vàng tràn ngập khắp nơi. Nắng nhảy nhót theo những bước chân thoăn thoắt. Nắng đậu trên những chiếc khăn quàng đỏ thắm. Hoa sở rụng trắng mặt đường. Dòng sông Thao lượn dưới chân đồi, mềm mại như một dải lụa phơn phớt hồng. Trước mặt chúng tôi, những quả đồi đầy đặn lô nhô chạy dài, sơn, chè, sắn, cọ mọc xanh um. Xa chút nữa là nhà máy. Tháp nước quét vôi vàng ngạo nghễ vươn cao. Ngôi nhà phòng hỏa sừng sững chọc trời với những tấm cửa kính lấp lánh trên chòi gác. Ở cuối tầm mắt là núi Nghĩa Cương lịch sử, cây cối um tùm, chỉ nhìn thấy đền Trung với một chấm tường vôi lóa nắng. Tôi đi bên cạnh thằng Chiến và cái Loan. Chúng tôi lại bàn bạc với nhau về vở kịch “Hai mươi năm sau”. Cái Loan bảo phải cố gài thêm chi tiết đi gặt hôm nay vì đây là một kỷ niệm sâu sắc của tất cả học sinh 7A... Mỗi đứa góp thêm một câu. Lúc ấy, chúng tôi đều thích vở kịch, nhưng chưa ai ngờ rằng trong đêm liên hoan chào mừng ngày 20 tháng 11, tiết mục nhỏ của phân đội 4 Lý Tự Trọng lại được hoan hô nhiệt liệt đến mức ngay sau đó, thầy Lộc đã tự tay sửa chữa vở kịch để chúng tôi biểu diễn lần thứ hai vào dịp sơ kết học kỳ. Trên sân khấu lần này, vở “Hai mươi năm sau” đã tốt hơn nhiều, và là một trong những tiết mục văn nghệ được giải thưởng hội diễn toàn trường.
Đó là chuyện những ngày đầu năm 1963. Lúc bấy giờ, lớp 7A và đội Lý Tự Trọng chúng tôi đã được công nhận là lớp tiên tiến, đội tiên tiến. Lúc bấy giờ, tôi đã được cô giáo và tập thể xét chọn là học sinh tiên tiến, lại được tham gia đội tuyển của trường sửa soạn dự thi học sinh giỏi toán toàn miền Bắc. Tôi chưa phải là một học sinh toàn vẹn, nhưng cũng không còn là một cậu bé chỉ bo bo nghĩ đến mình và ngờ nghệch với thực tế cuộc sống như dạo đầu năm học nữa. “Đôi bạn 10 điểm” chúng tôi được thầy hiệu trưởng biểu dương trong dịp sơ kết học kỳ; mỗi đứa chỉ bị một điểm tổng kết 4: tôi về văn và Loan về toán. Ôi, vui làm sao, nhớ làm sao đêm liên hoan ấy... Sau khi diễn xong lần thứ hai vở kịch “Hai mươi năm sau”, cô giáo đã thân mật chuyện trò với chúng tôi, nhắc nhở rằng chúng tôi đã bước vào tuổi mười bốn và gợi ý cho chúng tôi lập những nhóm đội viên lớn tu dưỡng phấn đấu vươn lên Đoàn. Còn vở kịch “Hai mươi năm sau” có hoàn toàn trở thành sự thực hay không? Hôm nay chưa trả lời các bạn được, vì sao, các bạn cũng rõ. Đấy mới là những nét vẽ phác đơn sơ về ngày mai. Ước mơ lớn nhất của chúng tôi là tất cả đều trở thành những người có ích cho đất nước, cho nhân dân. Trong cuộc sống tươi đẹp ngày nay, ước mơ như thế chẳng có gì là viển vông, hão huyền!
Nhưng thôi... bây giờ xin trở lại với những người bạn mới của tôi trên đường đi gặt về. Thằng Chiến khoe với chúng tôi rằng mẹ nó ăn cháo được rồi, chỉ tuần sau là ra viện. Nó lại khoe hợp tác xã vừa giúp nhà nó hai tạ thóc. Giọng nó run run:
- Loan ạ, Việt ạ, tớ không bao giờ quên ơn hợp tác xã, quên ơn cô giáo và các cậu. Từ giờ tớ phải cố học nữa mới được. Ai cũng hết lòng vì tớ mà tớ học còn xoàng quá. Nhiều lúc tớ cứ muốn khóc òa lên vì thấy các cậu tốt với tớ quá, như anh em ruột thịt ấy...
Bọn tôi vừa đi vừa thì thầm nói chuyện. Mái trường thân yêu của chúng tôi đã hiện ra trước mặt. Hai dãy nhà xam xám nằm sóng đôi trên lưng ngọn đồi thấp và phẳng. Trường chúng tôi còn nghèo, mái lá, tường đất, vách nứa, cửa tre. Nhưng thân thiết biết nhường nào, ở đấy có sân bóng đá, có tủ sách của liên đội, có tấm bảng “Tự giác xây dựng trường”, có vườn địa lý với lá cờ đỏ phấp phới bay trên đỉnh con quay gió, có những bộ bàn ghế mặt trắng bóng nhẵn nhụi do chúng tôi cạo bằng mảnh chai... Và hơn hết, ở đấy có những người tôi đã coi như ruột thịt; ở đấy có cô Mùi, cô Vân, thầy Minh, thầy Lộc, những cô giáo, thầy giáo coi việc chăm sóc dạy dỗ chúng tôi nên người là công việc cao quý thiêng liêng trọn đời mình; ở đấy có thằng Mạnh, cái Loan, thằng San, thằng Vĩnh, có tất cả những người bạn thân yêu.
Tôi nắm lấy bàn tay âm ấm của thằng Chiến.
Lâm Thao, 1963