Lúc chúng tôi ở ruộng bèo dâu ra về, mặt trời mới lên được khoảng hai con sào. Cái Loan bảo tôi vào nhà nó chơi. Thấy tôi hơi ngần ngại, nó trách: “Gớm, bạn Việt khó tính thế!”. Tôi bèn đi với nó.
Nhà cái Loan nằm giữa làng, ngay bên con đường rải cát phẳng phiu chạy từ cuối xóm lên đầu xóm. Trước cổng nhà là một cái ao con, ngăn đôi bằng sào nứa, một nửa thả bèo ván cho lợn ăn, một nửa bắc cầu rửa ráy, nước trong leo lẻo. Mấy gốc dừa trồng trên bờ, cao một đầu một với, đang bói lứa quả đầu. Những quả dừa non chỉ bé bằng quả cau chen chúc nhau bên nách lá, nom như những chú bé bụ bẫm khoác áo xanh, cổ quàng yếm trắng ngà. Vài tàu dừa buông la đà, se sẽ quệt ngọn lá mềm mại lên đầu chúng tôi.
Men theo dãy hàng rào râm bụt cao ngang đầu người, xén đều tăm tắp, chúng tôi vào nhà. Bố Loan đi vắng: bác ấy cùng ban quản trị hợp tác xã đi thăm các xứ đồng để lên phương án gặt mùa. Thằng Thu cũng đến trường chưa về: hôm nay tổ học sinh 5A trực vườn địa lý. Ở nhà chỉ có bà mẹ đang ngồi lúi húi chêm sửa mấy cái hái. Cái Loan vừa giới thiệu tôi, bà đứng ngay lên, vồn vã:
- À, cậu Việt. Cháu bà cụ Việt đứng bán hàng ở cửa hàng xã ta chứ gì. Người sõi sõi là nhỉ. Mấy hôm nay thím cũng không đảo qua cửa hàng. Cụ khỏe chứ, cậu Việt? Ây, tính bà cụ thế mà lành, chị em người ta mến mến là ấy. Dạo đầu tháng, chưa quen việc, cụ còn hay gắt...
- Gớm, bầm! - Cái Loan nhắc khẽ.
- Thì bầm nói thực ấy chứ! Con chả muốn, bầm thôi vậy. Cậu Việt vào nhà uống nước đi.
Bàn học của cái Loan kê sát bên cửa sổ. Chiếc bàn con sơn bóng có hai cái ghế dựa chầu hai bên. Lọ mực nằm vững chãi trong đế gỗ lim nặng trịch. Bút máy, thước kẻ, bút chì... cắm khít vào nhau trong ống bút gọt bằng ống nứa. Năm sáu quyển sổ to bằng hai bàn tay xếp ngay ngắn ở góc bàn: sổ tay văn học, sổ tay toán học, sổ tay sinh vật, sổ nhật ký...
Trên tường, dán ngay dưới bức ảnh Bác Hồ lồng khung kính là tờ giấy hồng kẻ nắn nót “Năm điều Bác dạy”. Giấy khen của nhà trường và Đoàn thanh niên lao động đóng khung tre treo một dãy dài, xếp theo thứ tự thời gian từ lớp 1 đến lớp 6. Giá sách bằng gỗ bào nhẵn cũng đóng ngay trên tường, rất vừa tầm tay, chia làm bốn ngăn xếp riêng từng loại sách vở.
Tôi chú ý ngay đến bảng theo dõi số điểm các môn dán ngang tầm mắt. Trông hơi giống cái bảng của tôi, nhưng kẻ tỉ mỉ hơn, lại bồi bìa cứng hẳn hoi. Các môn sinh vật, lịch sử, vật lý, cái Loan đều được ba số điểm: một điểm 4 và hai điểm 5. Môn tập làm văn, một dãy ba điểm 4, cuối cùng là điểm số 5. Hóa học và đại số cũng vậy. Môn địa lý, cái Loan tách riêng điểm vẽ bản đồ ra: thoạt tiên là điểm 3 trừ, sau đó điểm 3 cộng, rồi điểm 4. Tôi gật gật đầu:
- Khá đấy.
- Khá gì! Đang ức với điểm hình đây.
Tôi vội nhìn lên cột ghi điểm hình: điểm đầu là 3, kế đó là ba điểm 4, bên cạnh điểm 4 thứ ba đánh liền hai dấu hỏi, dấu thứ nhất bằng mực xanh, dấu thứ hai to gấp đôi, bằng mực đỏ. Thấy tôi dán mắt vào mấy cái dấu hỏi, cái Loan có vẻ ngượng:
- Tớ ức quá. Liền ba điểm 4 mà không lên 5 được. Ban đầu tớ chỉ “hỏi” có một cái; chiều hôm kia, sau khi nghe chị Đào nói chuyện, tớ về lấy bút mực đỏ đánh thêm một dấu nữa! Chẳng lẽ giẫm chân tại chỗ hoài!
À, tính cái Loan giống hệt tính tôi. Môn học nào bị điểm trung bình là tôi không chịu được. Cái Loan lại còn “bướng” hơn tôi: nó đã bắt đầu không bằng lòng với điểm 4 rồi! Nó bảo:
- Tớ còn kém hai môn nữa: vẽ bản đồ với hình học. Cậu Cao sẽ giúp tớ phấn đấu kỳ được điểm 5 vẽ bản đồ. Còn môn hình, không biết tại sao tớ kém? Trước kia tớ vẽ hình lem nhem, bây giờ vẽ sạch hơn rồi, nhưng có lẽ tớ chưa chịu khó suy luận và tưởng tượng. Hay là vì tớ còn rụt rè, thắc mắc chưa dám hỏi thầy ngay? Tại sao Việt nhỉ? Cậu giúp tớ học hình với nhé!
- Được thôi, tớ biết hơn cậu chỗ nào, tớ sẵn sàng bày cho cậu.
- Ừ nhé!
Cái Loan reo lên và hẹn ngay rằng trưa nay, nó cùng cái Quế đi lấy phân lân về cho bèo dâu, cả hai đứa sẽ ghé vào nhà tôi chơi, “xem” tôi làm toán hình. Bài ấy, tối qua nó làm rồi. Nhưng nó muốn được tận mắt nhìn thấy tôi gỡ những cái nút đầu tiên của bài toán. “Chúng tớ muốn học cách suy luận của cậu”, nó bảo thế.
Chúng tôi nói chuyện cho đến lúc kẻng tan tầm trưa. Nghe tiếng chân nện thình thịch ngoài ngõ, cái Loan vội bảo:
- Bò đi cày ruộng mạ đã về. Tớ ra đón đây.
Tôi ra theo nó. Con bò không biết do ai dắt về, dây mũi đã buộc vào cọc. Cái Loan bước lại chỗ đống rơm, hối hả rút một ôm đầy cho bò ăn. Nó vừa vỗ nhẹ tay vào tấm lưng béo núc của con bò, vừa nói chuyện với tôi:
- Cậu chưa được nuôi bò bao giờ nhỉ. Con trâu, con bò không biết nói như người nhưng nó biết nghĩ đấy, Việt ạ! Mình thương nó lắm! Suốt vụ nó hậm hụi kéo cày, làm ra hạt thóc nuôi mình. Gặt lúa về, mình bưng bát cơm, nó nhai nắm rơm, nắm cỏ. Ấy, con bò nó cũng có tình có nghĩa, được chăm bẵm nó, thích lắm Việt ạ.
Lúc bà mẹ bê rá gạo còn chảy ròng ròng từ giếng vào bếp, tôi mới về. Nắng trưa vàng như tơ tằm quấn quýt trên những ngọn dừa. Tôi đi thong thả ra bờ kênh. Con kênh mới đẹp làm sao. Rặng nhãn bên đường, cùng tuổi với con kênh, đã cao ngang vai tôi. Mặt nước lòng kênh sáng lên như bạc dưới ánh nắng. Hai bờ kênh thẳng băng sóng đôi nhau chạy mãi đến chân trời xa tít tắp.

Về đến nhà, công việc đầu tiên của tôi là cất kín tấm bảng theo dõi số điểm các môn học đi, sợ cái Loan nhìn thấy, ngượng chết. Lâu nay tôi chỉ say sưa ngắm nghía dãy điểm 5 ở cột toán, chứ đã chú ý gì mấy đến những điểm 4 và 5 lên xuống thất thường ở các môn học khác. Thậm chí, có môn rớt xuống điểm 3, tôi cũng không hề nghĩ đến chuyện phải đánh vào đấy một cái dấu hỏi!
Còi nhà máy báo tầm chiều một giờ vừa dứt, cái Loan đã đến.
- Quế đâu? - Tôi hỏi.
- Quế nó đợi lấy phân lân. Nó “chiếu cố” tớ, cho tớ đi chơi!
Tôi đưa cái Loan vào nhà, thưa với bà:
- Đây là bạn của cháu, bạn cùng lớp, bà ạ...
Bà tôi ôm lấy một bên vai cái Loan:
- Vào đây cháu. Bà cháu tôi quen nhau lâu rồi cậu Việt ơi! Mới chiều qua, cô Loan còn mang cho bà cậu một chùm cau đấy.
Cái Loan hơi bẽn lẽn:
- Bầm cháu bảo mang mấy quả cau vườn nhà đến biếu bà đấy chứ ạ.
- À, bầm cô thương người già nghiện trầu, quý quá. Cô Loan ạ, răng bà lão cũng lung lay hết rồi, lúc nào bà lười nhai trầu, bà lại nhờ em Việt giã hộ đấy. Ấy, may có cháu đỡ đần...
Thế rồi bà tôi cứ ôm lấy vai cái Loan mà kể chuyện cháu bà, nào là “em Việt chăm chỉ lắm, tối nào cũng thức khuya học bài”, nào là “em Việt hay lam hay làm, cô xem, cái giàn su su mới đầu mùa mà quả sai như bện...”. Cái Loan ngồi nghe ra vẻ hiền lành, đến lúc bà tôi sang cửa hàng, nó mới cười ranh mãnh:
- Cứ như cách xưng hô của bà Việt thì tớ gọi Việt là “cậu” cũng phải.
- Sao?
- “Cậu em” ấy mà!
- Đừng hòng!
Tôi cười và vung nắm đấm ra. Cái Loan bĩu môi:
- Cánh con trai các cậu động có chuyện là dọa đánh nhau, làm như người ta hốt lắm ấy! Thôi, “cậu Việt” đưa quyển vở toán hình ra đây.
Tôi đưa vở cho cái Loan và lúi húi tìm giấy nháp. Loan mở quyển vở ra và nhìn thấy ngay mảnh giấy nháp nhàu nát với ba câu thơ “Gan thỏ”. Lúc tôi tìm được giấy, ngẩng lên thì cái Loan đã đọc xong. Nó đưa trả bài thơ cho tôi, cười nụ:
- Thơ hay đấy. Tiếc của, sao chả làm cho xong đi!
Tôi thẹn quá, mặt đỏ nhừ, vội xé tan mảnh giấy rồi nói lấp:
- Ô, cái chuyện trè con! Thôi, chúng mình làm toán nào.
Hai đứa trao đổi xong mấy bài toán hình, cái Quế vẫn chưa đến. Tôi cất vở đi, ngập ngừng một chút rồi bảo cái Loan:
- Tớ muốn nhờ Loan việc này. Trước thì tớ chả nói, nhưng bây giờ...
- Gớm, rào đón mãi!
- Ừ thì thôi, tớ nói. Cánh thằng Chiến bảo tớ viết kịch, tớ nghĩ được cái cốt truyện thú lắm, giá được cậu giúp một tay...
Tôi nói đến đấy thì cái Quế kéo xe chở phân đến. Nó dừng xe bên cửa, chạy vào. Tôi bèn kể cả cho hai đứa nghe ý định vở kịch sắp viết. Quế và Loan cùng bảo rằng hay lắm. Cái Loan nhận viết chung ngay. Nó lại bảo rằng nó cũng đang làm một bài thơ mừng ngày 20 tháng 11, ngày hội của các thầy giáo, cô giáo. Hôm liên hoan, nó sẽ lên ngâm, ngâm hẳn hoi chứ chả phải đọc thôi đâu. Nó đang tập ngâm thơ.
- Lạ thật, - Loan nói với chúng tôi, - vẫn bài thơ ấy mà mình ngâm lên thì cảm thông với cái hay cái đẹp dễ dàng, sâu sắc hơn là mình đọc lên. Tớ chắc là biết ngâm thơ, học văn sẽ chóng tiến bộ hơn...
- Thế cậu ngâm thử cho chúng tớ nghe một đoạn nào! - Tôi nài.
- Tớ đã làm xong đâu. À, hay ngâm bài “Gan thỏ” nhé...
- Thôi đi, đùa dai thế. Người ta biết tội, người ta xé rồi còn... Ngâm bài nào cũng được....
Cái Loan ngẫm nghĩ. Quế gợi:
- Hay cậu ngâm cái bài cậu vừa chép trong sổ tay văn học của cái Cúc ấy...
- Bài “Trồng cây xanh” ấy à? Ừ nhé, tớ ngâm thử vài đoạn các cậu nghe.
Cái Loan hắng giọng mấy lần rồi cất tiếng ngâm. Nó ngâm nhỏ thôi, nhưng giọng vừa trong, vừa ấm:
... Những hàng cây xanh, tôi trồng tôi tưới
Đang bắt rễ vào lòng đất phì nhiêu
Đang cuốn nhựa xanh lên cành lá mới
Những học trò tôi đó, rất thân yêu!
Tôi nuôi lớn những mầm xanh măng thẳng
Hứa hẹn ngày hoa trái kết màu xây
Tôi sung sướng đem máu hồng tim Đảng
Tưới cho đời, vun bón cả rừng cây*
* Trích trong tập Chân trời xa xôi, Nxb. Giáo dục.
Cái Loan dừng lại, nhìn chúng tôi. Tôi giục:
- Ngâm tiếp đi. Hay lắm đấy.
Cái Quế chợt nhìn thấy ống sáo treo trên vách, bèn bảo:
- Việt thổi sáo theo đi. Trên đài người ta vẫn làm thế mà...
Tôi bèn lấy ống sáo xuống, thổi theo tiếng ngâm thơ của Loan. Bài sáo này, tôi học theo đài, chỉ nhớ bập bõm, nhưng lựa mãi cũng theo được giọng ngâm:
Đi trồng cây xanh, trồng cây xanh
Công việc tôi làm rất quanh vinh,
Trồng cả rừng cây cho đất nước.
Trồng cả rừng hoa giữa lòng mình
- Quế thấy thế nào? - Tôi vội hỏi khi đoạn thơ vừa dứt.
- Hay đấy! Y như nghe đài ấy!
- Cậu lại chế...
- Không, hay thật mà...
Cái Loan cũng bảo:
- Tớ... tớ nghe có tiếng hòa theo cũng... cũng hay hơn...
Cái Quế đề nghị luôn:
- Các cậu tập đi, hôm sau cả Việt nữa cũng lên thổi sáo...
Tôi hơi ngần ngại. Chắc các bạn hiểu vì sao. Ở đội chúng tôi, bọn con trai rất ngại nắm tay bọn con gái khi tập múa, tập nhảy. Bây giờ tôi và cái Loan cùng lên sân khấu, một đứa ngâm thơ, một đứa thổi sáo, chúng nó cười cho chết! Cái Quế đoán được ý tôi, bèn nói:
- Cứ lên! Chúng mình là đội viên thiếu niên tiền phong, không ngượng! Cô giáo chả bảo mãi đấy à?
- Ừ, để xem xem.
Tôi trả lời nước đôi như vậy. Không ngờ cái Quế đem câu chuyện mách ngay với cô Mùi và thầy Lộc phụ trách văn nghệ toàn trường. Tất nhiên chúng tôi được ủng hộ. Thầy Lộc ngồi bên máy thu thanh suốt buổi “Tiếng thơ”, ghi lại bài nhạc cho tôi tập sáo. Thầy hướng dẫn chúng tôi tập dượt rồi cho chúng tôi biểu diễn trước máy phóng thanh của nhà trường trong một buổi “Trường ta ca hát”. Thầy giới thiệu hẳn vào máy: “Bài thơ Trồng cây xanh. Nguyễn Thị Loan ngâm thơ. Trần Việt thổi sáo”. Hôm ấy, học sinh các lớp đứng nghe đông quá. Lúc tôi và cái Loan về lớp, chúng nó vây lấy, đứa nào cũng khen hay, làm tôi vừa ngượng vừa vui sướng.
Ngay buổi họp đội cuối tuần, cô giáo lại nhắc đến chuyện ấy. Cô khen chúng tôi chọn được bài thơ hay, giọng ngâm hay, tiếng sáo cũng hay. Cô nói thêm:
- Hay nhất là tác phong mạnh dạn, hồn nhiên của Loan và Việt đã thể hiện tình bạn trong sáng, đẹp đẽ của đội viên chúng ta, em trai cũng như em gái. Mấy tuần gần đây, Loan và Việt đã tận tình giúp đỡ nhau để vươn lên đạt điểm 5 ở tất cả các môn học. Đó là một dấu hiệu đáng mừng trong phong trào thi đua của đội ta, lớp ta. Lâu nay, chúng ta có nhiều “đôi bạn 8 điểm”, các em đó lại đang vươn lên thành “đôi bạn 9 điểm”. Đôi bạn Loan Việt có thể coi là “đôi bạn 10 điểm” đầu tiên của đội ta!
Vậy là tình bạn giữa chúng tôi đã được cô giáo và tập thể công nhận, động viên, khích lệ.
Tuần ấy, tôi đến nhà Loan nhiều lần để viết kịch và học bài. Có lần nó đưa tôi đi thăm ruộng thí nghiệm của hợp tác xã. Đi với Loan một vòng quanh làng mới biết nó được bao nhiêu người yêu mến. Bọn bạn gái, bạn trai trong làng cứ gọi rối lên, đi vài bước lại nghe: “Loan ơi, Loan đi đâu đấy?”. Mấy đứa bé lớp vỡ lòng đi học về cũng chèo kéo: “Tối nay chị Loan tập cho chúng em một bài hát nữa nhé! Chị ừ đi đã!”. Ngay các bác xã viên gặp Loan cũng niềm nở chào hỏi: “Cô Loan ra ruộng bèo đấy à?”, “Sao tối qua không phát thanh, cô Loan ơi?” hoặc “Gặt mùa xong, lớp bổ túc lại học chứ, cô giáo?”. Cứ như trò chuyện với người ngang vai ngang vế chả bằng! Tôi cũng bằng tuổi cái Loan, thế mà ở phố, khối người coi tôi là chú học trò nhỏ thôi mới ức chứ!
Càng chơi thân với nhau, chúng tôi càng hiểu nhau hơn. Một hôm, hai đứa ở lại tập dựng hình trên bảng. Làm bài xong, Loan phủi phủi hai tay đầy bụi phấn rồi nói:
- Tay bẩn thế này, thảo nào!
- Cái gì?
- Cậu chả để ý à? Giờ tập thể dục giữa buổi nào cũng vậy, cứ đến động tác “lườn” là thầy Minh chỉ dám chống hờ hai bàn tay vào hông thôi. Tay thầy dính đầy phấn trắng mà.
Ngay buổi học sau, cái Loan đề nghị đội trực nhật mang chậu đến, lúc nào trong chậu cũng có nước sạch để các thầy giáo rửa tay sau giờ dạy. Việc nhỏ thế thôi nhưng làm tôi suy nghĩ mãi: tình cảm của Loan đối với thầy, với bạn sao mà đằm thắm, chân thành! Thế nhưng tình bạn của chúng tôi cũng đã trải qua nhiều thử thách. Có những khi, vì tầm mắt hẹp hòi, tôi đã hiểu lầm cái Loan và làm xảy ra va vấp, ví như câu chuyện tôi sắp kể sau đây.
Hẳn là các bạn chưa quên chuyện Loan giúp tôi học kỹ thuật chăm sóc bèo dâu. Thứ hai ấy, tôi xung phong lên bảng, được cô Vân cho điểm 5. Tôi nghĩ bụng: hay quá, tháng 11 này thế là mình có điểm hỏi miệng môn sinh vật và kỹ thuật nông nghiệp rồi! Do đó, thú thật với các bạn là, bài sinh vật hôm thứ năm, tôi chỉ học những điểm chính và dành thì giờ học kỹ các bài khác. Chiều thứ tư, cái Loan truy bài, thấy tôi trả lời lơ mơ, nó tỏ vẻ không bằng lòng. Nó nói thẳng:
- Chả lẽ bạn Việt chỉ học để lấy điểm thôi à? Học đối phó như thế chả tốt đâu.
Tôi bèn nhận lỗi và sửa ngay: học lại bài sinh vật thật kỹ.
Hai đứa lại vui. Thế mà, sáng hôm sau, trước khi vào lớp, cái Loan dúi vào tay tôi một tờ giấy:
- Bài báo tớ viết đêm qua đấy. Việt đọc xem có góp ý gì không để tớ dán lên báo liếp.
Bài báo nhan đề là “Bức tường đổ”. Cái Loan kể chuyện một anh thợ nề lười biếng, cẩu thả xây tường. Lúc có người kiểm tra, nhắc nhở, anh ta xây rõ cẩn thận. Nhưng khi không ai đôn đốc, anh ta làm ẩu, gạch đặt xiên xẹo, vữa trát nham nhở. Kết quả, tường xây chưa xong đã đổ sụp, đè anh ta què chân! Cái Loan nhận xét: trong đội ta vẫn còn có bạn học tập theo kiểu anh thợ lười. Phần cuối bài báo viết: “Những lâu đài tráng lệ mà mai sau chúng ta dựng lên trên đất nước yêu quý chính là ghép lại bằng những ‘bức tường kiến thức’ mà hiện nay chúng ta đang xây! Mong sao mỗi đội viên ta là một người thợ nề siêng năng, cần mẫn!”.
Đọc xong, tôi tím mặt lại. Tôi định xé toạc bài báo, nhưng kìm lại được. Giờ ra chơi, tôi hầm hầm bỏ ra ngoài. Con gái là tinh ý lắm. Cái Loan biết ngay. Cuối buổi học, nó theo tôi về tận nhà. Nó cười:
- Giận thật đấy à?
- Thèm vào giận ai! Tớ chỉ giận mình chọn bạn lầm! Người ta đã nhận lỗi thì thôi, còn bêu người ta lên báo làm gì? Ai chả biết cậu giỏi văn!
Cứ cái đà ấy, tôi dồn một mạch. Cái Loan chỉ cười. Đợi tôi nói xong, như quả bóng phồng căng đã xì hết hơi, cái Loan mới kể cho tôi nghe vì sao nó viết bài báo ấy. Lâu nay, cái Loan đã để ý thấy trong lớp 7A vẫn còn một số bạn học đối phó. Chúng nó rất thuộc cách hỏi bài của từng giáo viên: thầy Lộc thường kiểm tra dồn dập vào cuối tháng, có khi làm liền hai ba bài tập; cô Vân thì cứ đảm bảo đều đặn mỗi tháng một điểm bài miệng, một điểm bài viết... Chúng nó nắm vững cả cách gọi lên đọc bài. Thầy Minh hay chấm liền ba bốn tên gần nhau trong sổ. Cô Mùi lại gọi rỉa: tổ nào cũng có học sinh được đọc bài... Nắm được quy luật rồi, chúng nó xoay ra đối phó: hôm nay cần học môn này thật thuộc, còn môn nọ học sơ qua thôi, vì thầy không hỏi mình đâu! Dạo trước, cái Loan vẫn tưởng rằng chỉ những đứa học kém, bí quá mới học đối phó. Lúc thấy tôi cũng mắc phải, cái Loan giật mình: học sinh khá cũng có lúc đối phó ư? Ngẫm nghĩ thêm, nó lại phát hiện rằng chính nó, khi nào tinh thần học tập chùng xuống, cũng mệt mỏi tự nhủ: mình có điểm rồi, mai thầy chả hỏi đâu, ngủ sớm một tí vậy! Ra cái bệnh học đối phó nguy hại đến thế! Phải tấn công tiêu diệt nó! Nghĩ vậy, cái Loan bèn viết bài báo...
- Việt ạ, - Loan nói tiếp, - tớ cũng như Việt, tớ không chịu được điểm kém và điểm trung bình... Tớ chỉ mong ước sổ điểm lớp mình tinh những điểm 4, điểm 5. Nhưng phải là điểm chính xác, điểm trung thực, chứ không cần điểm may rủi, điểm gian dối... Việt là bạn tớ, tớ muốn Việt tốt, tớ lại muốn cả bốn mươi tám học sinh lớp mình cũng tốt như Việt. Mình viết bài báo vì thế. Nếu Việt là bạn thân của mình, Việt nên ủng hộ mình...
Tôi không đáp, nhưng sáng hôm sau, tôi mang bài “Bức tường đổ” đến lớp tự tay dán lên tờ “Măng mọc thẳng”. Quả nhiên, bài báo đánh động đến thật nhiều đội viên, làm nổ ra một cuộc tranh luận sôi nổi, mở đầu cho cuộc tấn công mạnh mẽ của toàn đội vào căn bệnh học đối phó, xây dựng tinh thần, thái độ học tập đúng đắn cho tất cả đội viên. Đó là chuyện những tuần sau. Còn giữa tôi và Loan thì sau lần ấy, chúng tôi càng chơi thân với nhau hơn, và càng phấn đấu vươn lên cho kịp bạn mình. Có một lần, cô giáo Vân kêu gọi một số học sinh xung phong vượt sông Thao sang Tam Nông xin giống cây mới cho vườn sinh vật. Tôi đang ngần ngại thì ở bàn trên, cánh tay Loan đã dựng lên thẳng tắp, ống tay áo trễ xuống khuôn lấy cổ tay thon. Tất cả cũng hăm hở giơ tay xung phong. Xin các bạn đừng cười và cho đó là chuyện vặt. Chính những mạch suối con con hợp lại thành một dòng sông lớn.
Những ngày tiếp đó thật là những ngày sôi nổi, hào hứng, và tình bạn đằm thắm làm chúng tôi lúc nào cũng thấy vui, một niềm vui nhẹ nhàng, phảng phất như hương hoa cau. Thực ra, rồi các bạn sẽ thấy, cũng có những tai biến bất ngờ làm chúng tôi đau đớn, buồn phiền, nhưng không giây phút nào chúng tôi thấy lẻ loi, và chính nhờ vậy mà cơn đau dịu bớt, nỗi buồn vơi đi.
Giữa tuần ấy, chúng tôi viết xong vở kịch. Tôi hẹn tất cả phân đội 4 tối chủ nhật đến nhà tôi để nghe đọc và góp ý. Cánh thằng Mạnh, thằng San thú lắm, háo hức đòi tối ấy làm ngay tắp lự. Tôi cũng chiều ý. Thằng Chiến cũng mừng ra mặt, tuy mấy hôm nay nó không được vui. Hai tuần nay, điểm 4 của thằng Chiến đã nhiều lên. Chúng tôi sẽ hoàn toàn sung sướng nếu như bệnh đau dạ dày của mẹ Chiến không ngày một trầm trọng. Chẳng lúc nào Chiến vui vẻ được trọn vẹn. Nhiều khi đang nói nói cười cười với chúng tôi, đột nhiên nó ngồi thừ ra, vẻ mặt trở nên đăm chiêu, rầu rĩ. Nỗi lo âu về sức khỏe của người mẹ thân yêu luôn luôn giày vò nó. Bệnh tình của mẹ chỉ tạm lui trong những ngày thu dịu mát. Bây giờ, mùa đông giá lạnh đã bắt đầu. Sáng nay, trên bảng dự báo thời tiết dựng ở công vườn địa lý, chúng tôi đã đọc thấy những dòng chữ run run báo tin đợt gió mùa lạnh lẽo đầu tiên đang từ phương bắc tràn về.
Trời nhá nhem tối, phân đội 4 đã tụ tập đủ mặt ở nhà tôi. Cái Loan cũng đến. Ngoài trời gió bấc ào ào từng cơn lạnh buốt. Chúng tôi đóng kín cửa lại, ngồi quây quanh ngọn đèn ấm áp. Bà tôi chiều nay hì hục chuyển hàng họ sang khu nhà mới, dáng chừng mệt, bỏ vào buồng nằm sớm. Hai gian nhà ngoài hoàn toàn dành cho chúng tôi tha hồ bàn bạc.
Tôi đưa vở kịch ra, trình bày ý định của những người viết. Tên vở kịch là “Hai mươi năm sau”. Nhân vật chính là cô giáo Mùi và những đội viên phân đội 4, hai mươi năm về sau. Đúng ngày Quốc tế hiến chương các nhà giáo năm 1982, bọn chúng tôi, bấy giờ đều đã trưởng thành, hẹn gặp nhau tại nhà cô giáo và dự liên hoan với toàn trường...
- Thôi đọc đi. Mào đầu vừa vừa chứ. - Thằng Mạnh sốt ruột giục.
- Ừ thì đọc...
Hai mươi năm sau
(Kịch một hồi hai cảnh do tập thể đội viên thiếu niên tiền phong phân đội 4, đội Lý Tự Trọng sáng tác và biểu diễn.)
Cảnh 1 - Màn mở. Cảnh một căn phòng rộng, sáng, gọn ghẽ. Lịch trên tường: Thứ bảy ngày 20 tháng 11 năm 1982. Đồng hồ báo thức trên bàn chỉ 12 giờ đúng. Ngoài cửa sổ, ánh nắng vàng rực. Cô giáo Mùi ngồi ghi sổ liên lạc. Cô đã đứng tuổi, tóc đốm bạc, đeo kính.
Đâu đây vẳng lại một tiếng gà gáy trưa, eo óc. Rồi tiếng còi ô tô. Tiếng xe phanh két. Cô giáo ngừng tay, ngẩng lên. Một người đàn ông trạc băm tư, băm lăm tuổi, to béo, ôm một bó hoa tươi, bước nhanh vào.
Người đàn ông - (sựng lại, chào) Cô! Thưa cô ạ! (mặt lộ rõ vẻ xúc động).
Cô giáo - (đứng dậy, ngạc, nhiên) Vâng, chào ông. Xin lỗi, ông là...
Người đàn ông - Cô chưa nhận ra em ư? Năm hôm trước, em đã viết thư về, hẹn rằng...
Cô giáo - (kêu lên đột ngột) A! Chiến! Trời! Chiến! (cảm động, lặng đi một lát) Chiến thay đổi nhiều quá...
Chiến - Vâng. Cô giáo của em cũng khác xưa nhiều. (bước lại gần bàn, cúi nhìn cuốn sổ liên lạc). Cô vẫn chủ nhiệm lớp 7A? (cô giáo khẽ gật đầu) Lớp 7A! Mới thế mà đã hai mươi năm rồi. Thưa cô, hai mươi năm đã qua, nhưng em vẫn nhớ rõ mồn một cái ngày em ốm, cô đưa em lên bênh xá huyện... (lật đật móc túi áo lấy một quyển sổ con) Đây ạ, bài “Chị hiền của em”, bài thơ đứa học trò non nớt của cô đã làm cách đây hai mươi năm. Trong buổi liên hoan tối nay, em sẽ đọc bài này... (cô giáo cúi xuống cầm phích nước, Chiến vội ngăn lại) Cô đừng pha nước nữa. Em vừa ghé vào bệnh viện Việt Trì, uống nước ở nhà Việt. Việt định lên ô tô đi với em thì gặp một ca cấp cứu...
Cô giáo - Việt vẫn khỏe chứ? Bác sĩ Việt vẫn thường đến thăm cô... Chỉ có Chiến ở hơi xa, nhưng cô vẫn nhớ. (mở ngăn kéo lấy ra một số báo cũ). Tháng trước, cô đã đọc rất kỹ bài báo giới thiệu sáng kiến làm máy cấy kiểu “Trung du” của tập thể công nhân và kỹ sư nhà máy cơ khí nông nghiệp số 3. Bài báo nhắc nhiều đến...
Chiến - Vâng. Cô ạ, trong khi cùng các bạn làm loại máy này, em vẫn nhớ đến bầm em hồi em còn nhỏ... Ban giám đốc nhà máy cho biết rất nhiều hợp tác xã đã gửi đơn đặt hàng mua máy cấy. À, nói đến hợp tác xã... Thưa cô, San và Cao vẫn ở hợp tác xã liên hợp “Bình minh trên đồi cọ” phải không ạ?
Cô giáo - Đúng! San vẫn là đội trưởng đội sản xuất tiên tiến của hợp tác xã, còn Cao thỉ lái máy kéo. À, hai cậu ấy vẫn cộng tác với tạp chí “Sông Thao” rất đều... Tháng nào cô củng được xem những bức tranh vui ký tên là Lê San và Phạm Cao. Cô nhận được ngay nét vẽ phóng khoáng của Cao và cái ý thâm trầm mà hóm hỉnh của San. Chiều nay, thế nào hai cậu ấy cũng đến dự liên hoan. À, Chiến nghỉ một lát rồi ta sang thăm Cúc...
Chiến - (lẩm bẩm) Cúc? Có phải cái cô ngồi ở bàn đầu...
Cô giáo - Phải rồi, Cúc là bạn đồng nghiêp của cô từ mười lăm năm nay. Cúc ở ngay đây thôi, buồng số 2 trên gác ba. Cô ấy vẫn thế: mảnh dẻ, dịu dàng... Hôm qua, cô lại nhận được thư Mạnh. Mạnh vẫn làm ở nông trường cao su Biên Hòa, chiến sĩ thi đua năm năm liền ròi đấy. Cậu ấy hẹn chiều nay sẽ đáp máy bay về. Chiến vẫn nhớ Mạnh đấy chứ?
Chiến - Ồ, thưa cô, cả lớp 7A năm ấy có ai quên được anh chàng Mạnh lém, Mạnh đốt lều vịt...
Đọc đến chỗ ấy, thằng San phá lên cười. Thằng Mạnh bật dậy như cái lò xo:
- Láo toét! Chiến xỏ tớ nhé! Cậu đứng giữa sân khấu nói tướng lên như thế để bêu xấu tớ trước toàn trường à?
- Ơ hay. - Chiến vừa cười vừa cãi lại. - Lỗi gì tại tớ mà trách tớ? Việt nó viết thế cơ mà!
Thằng Mạnh bèn quay sang tôi:
- Cậu xỏ tớ nhé! Cậu đã cho tớ làm đến... chiến sĩ thi đua, lại cho tớ ngồi máy bay nữa, mà còn moi chuyện tớ đốt lều vịt! Hai mươi năm sau còn ai nhớ những chuyện ma mãnh ấy nữa!
Thằng San trêu:
- Chúng tớ nhớ! Hai mươi năm sau chúng tớ vẫn nhớ!
Thằng Mạnh làu bàu nói mãi. Nó dọa: để câu ấy trong vở kịch thì nó chả đóng nữa! Tôi phải chiều ý nó, gạch bố đi. Bấy giờ, thằng Mạnh mới cho tôi đọc tiếp. Vở kịch ngắn có vài trang mà tôi phải dừng lại năm sáu lần vì chúng nó kỳ kèo đòi bỏ chi tiết này, thêm chi tiết nọ. Lúc đọc hết, cả phân đội đổ xô vào bàn cãi rôm rả. Chỉ riêng cái Cúc ngồi im. Đợi bọn con trai nói xong, nó mới nhỏ nhẹ hỏi cái Loan:
- Còn cậu, hai mươi năm nữa cậu làm gì mà vở kịch không nói đến?
- Mình có ở phân đội 4 đâu!
- Nhưng cậu thử nói xem nếu cậu cũng là đội viên phân đội 4 thì cậu sẽ làm gì nào?
Cả bọn quay hết lại nhìn cái Loan. Nó hơi lúng túng:
- Tớ... tớ chẳng biết đâu... Lúc viết, tớ cũng sực nghĩ đến mình: ừ nhỉ, hai mươi năm nữa mình làm gì nhỉ? Cơ mà mung lung quá... Tớ lại nhớ đến câu chuyện của chị Đào...
Cái Loan ngồi im. Thằng San bèn quay sang tôi:
- Việt định làm bác sĩ thật đấy à?
Tôi ngẫm nghĩ một chút rồi mới trả lời, giọng đột nhiên bé hẳn lại, gần như thì thầm:
- Tớ... tớ cũng chả biết... Tớ nói các cậu đừng cười nhé... Làm gì tớ cũng chưa nghĩ ra... Nhưng từ nay, tớ sẽ rèn luyện để mai sau trở thành người có tinh thần phục vụ, ý thức tập thể như chị Đào, sẽ thương yêu, săn sóc mọi người như cô Mùi, thầy Minh, cô Vân, lại phải giỏi văn nghệ như thầy Lộc, giỏi thể thao như thầy Quang... Tớ biết tớ còn gặp nhiều khó khăn, thử thách, nhưng tớ quyết rèn luyện, tớ sẽ cố hết sức. Năm nay tớ mới mười ba tuổi... Còn những hai mươi năm nữa, lâu lắm...
Tôi im bặt. Chúng nó cũng ngồi im hết. Không rõ mỗi đứa đang nghĩ đến vai kịch của mình hay nghĩ đến chuyện hai mươi năm về sau... Lặng đi một chút. Nghe rõ tiếng đồng hồ báo thức trên mặt bàn kêu dội lên tích tắc, tích tắc, thôi thúc, tha thiết... Hai mươi năm là bao nhiêu cái tích tắc? Lúc bấy giờ, mình sẽ làm gì?
Từ những ngày thơ ấu, mới bước đến trường, những trang sách có sức lôi cuốn mạnh mẽ đã gieo vào lòng tôi nhiều ước mợ đẹp đẽ. Những lúc mơ màng nghĩ đến mai sau, trí tưởng tượng bay bổng của tôi đã dựng lên bao câu chuyện kỳ thú, y hệt chuyện đời xưa, mà nhân vật chính lại là tôi, một chàng trai mạnh khỏe, tài ba, thông minh, dũng cảm. Óc suy xét lớn lên, những ước vọng viển vông phai nhạt dần. Tôi lại bắt đầu say mê sự tích phi thường của những người anh hùng trong thời đại mới. Tôi mải miết đọc “Truyện anh hùng quân đội”, “Thép đã tôi”, “Một người chân chính”, “Đất nước đứng lên”, “Đường lên vũ trụ”... Lại những mơ ước mới, thiết thực hơn, nhú mầm trong lòng tôi. Tôi ao ước lớn lên sẽ trở thành một người anh hùng. Khi Tổ quốc cần đến, tôi sẽ không tiếc cuộc sống tươi đẹp của mình, như những người anh hùng đã chèn lưng cứu pháo, đã lấy thân mình lấp lỗ châu mai... Hay ít ra, tôi cũng sẽ lập được kỳ công, sẽ có những phát minh vĩ đại, hoặc sẽ là người Việt Nam đầu tiên bay vút lên những vì sao xa xăm...
Trong cuộc sống, tôi gặp khá nhiều may mắn, và chính những may mắn đó làm tôi ngỡ rằng sẽ dễ dàng thực hiện ước mơ của mình. Ở gia đình, tôi sống trong sự nâng niu chiều chuộng của bà nội, của chị, của cha, tôi quen xem mình là trung tâm của cả nhà. Đến trường, từ lớp 1 đến lớp 6, tôi luôn luôn được xếp vào loại học sinh giỏi của lớp. Bạn bè gọi tôi là “vua toán” và nể tôi ra mặt. Ngay các thầy giáo cũng săn sóc tôi với một cảm tình đặc biệt. Những lời khen ngợi bùi tai, những cái nhìn khâm phục, sự săn đón lộ liễu... tất cả đối với tôi dần dần trở thành những nhu cầu không thể thiếu. .. Và chính những cái đó đã làm tôi va chạm, xa lánh tất cả bạn bè trong những ngày đầu tiên ở trường cấp 2 Lâm Thao.
Hơn hai tháng trời sống ở trường mới làm tôi hiểu rõ mình hơn. Tôi không muốn làm một con người nhỏ nhen như thế. Có cô giáo dạy dỗ, được tập thể dìu dắt, tôi đang cố gắng rèn luyện ngày một tốt hơn... Nhưng rồi lớn lên tôi sẽ làm gì? Lúc viết kịch, cái Loan bảo tôi: “Thôi cho cậu theo nghề y của bác nhé!”. Tôi cũng gật và ngay lúc đó, tôi nhớ đến câu nói của cha tôi: làm một người thầy thuốc giỏi, trước hết là phải tận tụy với nghề, không bao giờ coi trọng giấc ngủ trưa của mình hơn tính mạng người bệnh.
Chợt thằng Mạnh kêu lên khe khẽ:
- Chết rồi! Vai kịch của cô giáo Mùi thì ai đóng được bây giờ?
Chúng tôi như sực tỉnh, bèn quay ra bàn chuyện phân vai. Cả phân đội lên sân khấu, vai kịch của ai có người ấy đóng. Nhưng còn cô giáo? Cái Loan mạnh dạn đưa ý kiến: mời cô giáo tham gia đóng kịch với phân đội 4! Nếu cô bận thì... cái Loan xin nhận vai đó. Với lòng kính yêu cô giáo, nó sẽ cố đóng thật đạt! Thế là xong việc phân vai. Còn đồ dùng khác? Tôi bảo:
- Áo quần của ai người ấy lo. Các thứ bày biện trên sân khấu, tớ tìm cho. Còn tiếng động hậu trường thì Chiến làm nhé! Tiếng còi ô tô, tiếng gà gáy... cậu mà bắt chước gà gáy thì tuyệt! Nào, thử một cái xem...
Chiến bụm hai bàn tay vào mồm, “gáy” luôn: Ò ó o o. Giống như hệt! Nó vừa gáy dứt thì con gà trống nhà tôi trong chuồng tưởng trời sắp sáng, cũng đập cánh phành phạch, gáy theo. Cả bọn chúng tôi cười bò ra ghế...
Giữa lúc đó, cánh cửa xịch mở, một luồng gió lạnh ngắt lùa vào. Chúng tôi ngơ ngác nhìn ra. Một người đàn ông khoác vải nhựa, đứng sừng sững giữa cửa, hỏi to:
- Chiến có đấy không?
Thằng Chiến vụt đứng dậy, mặt tái mét.
- Chiến về ngay! Mau lên em!
Thằng Chiến len qua chúng tôi, chạy vội ra cửa, quên cả áo mưa. Cái Loan phải chạy theo, quàng miếng vải nhựa vào vai nó. Tôi hỏi thằng San:
- Ai đấy!
Thằng San đáp rất khẽ:
- Bác Nhạ, y tá trạm xá xã.
Tôi thấy nhói một cái trong bụng: “Thôi đúng rồi. Mẹ Chiến...”. Cả bọn lo lắng nhìn Chiến hớt hải chạy theo bác Nhạ. Không ai nhớ rằng phải đóng cửa lại. Gió lạnh vẫn ùa vào từng cơn, hun hút....
