Tặng M và P
“Nghiện chơi game được định nghĩa… như một hình thái của hành vi chơi game (“trò chơi kỹ thuật số” hoặc “trò chơi điện tử”) với đặc trưng là khó kiểm soát việc chơi game, tăng mức độ ưu tiên chơi game nhiều hơn so với các hoạt động khác, đến nỗi nó trở thành hoạt động quan trọng hơn hẳn các mối quan tâm và hoạt động hàng ngày, và tiếp tục hoặc leo thang việc chơi game bất chấp các hệ quả tiêu cực.”
– Tổ chức Y tế Thế giới
“Các trò chơi điện tử ảnh hưởng xấu tới bạn ư? Họ cũng nói về nhạc rock ’n’ roll như thế đấy.”
– Shigeru Miyamoto, nhà thiết kế của công ty Nintendo Game
MÀN 3con tàu đắm
CHỦ NHẬT, NGÀY 9 THÁNG 6
Chạy nước rút về phía biển, Colter Shaw thận trọng dò xét con tàu.
Con tàu đánh cá vô chủ hàng chục năm tuổi, cao 12 mét, phần đuôi đang chìm xuống dưới, khoảng 3/4 tàu đã ngập trong nước.
Shaw không thấy cánh cửa nào để vào buồng lái; hẳn phải có một cánh cửa duy nhất và giờ nó đang chìm dưới nước. Ở phần đuôi của cấu trúc thượng tầng, vẫn nằm trên mặt nước biển, có một ô cửa sổ nhìn về hướng mũi tàu. Khe hở này đủ lớn để trèo qua nhưng có vẻ đang đóng kín. Anh lặn xuống bơi về phía cánh cửa.
Anh ngừng lại và suy nghĩ: Có cần phải làm thế không?
Shaw tìm kiếm sợi dây thừng cột con tàu vào cầu tàu; anh có thể kéo căng đoạn dây chùng để giữ tàu không bị chìm nghỉm.
Không có dây thừng; con tàu đã buông neo, có nghĩa là lúc này nó tự do chìm thêm 9 mét nữa xuống đáy Thái Bình Dương.
Nếu người phụ nữ còn ở bên trong, cô sẽ cùng con tàu chìm xuống nấm mồ âm u, lạnh giá.
Khi anh chạy lên boong tàu trơn trượt, tránh những thứ thối rữa nhất, anh cởi hết chiếc áo dính máu, giày và cả tất.
Một con sóng xô rất mạnh vào tàu khiến nó rung chuyển, chìm thêm vài phân nữa xuống mặt nước xám xịt, lạnh lùng.
Anh hét lớn, “Elizabeth?”
Không có tiếng đáp lại.
Shaw đánh giá: 60% khả năng là cô đang ở trên tàu. 50% khả năng là cô còn sống sau hàng giờ liền trong buồng lái ngập nước.
Không cần biết tỷ lệ phần trăm nào, chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo là không phải bàn cãi nữa. Anh đưa cánh tay xuống dưới bề mặt và nhận định nhiệt độ là khoảng 4oC. Anh sẽ có 30 phút cho đến khi ngất xỉu vì hạ thân nhiệt.
Vặn đồng hồ nào, anh nghĩ.
Rồi lao vào trong.
***
Đại dương không phải là chất lỏng. Mà là hòn đá chảy. Áp đảo.
Quỷ quyệt nữa.
Ý định của Shaw là gồng mình mở tung cánh cửa vào buồng lái, sau đó dìu Elizabeth Chabelle bơi ra ngoài. Nhưng nước lại có ý tưởng khác. Giây phút trồi lên lấy hơi, anh bị sóng đánh về phía một trong các đám sồi biển, quần thể thực vật ở đó đang lả lướt trong vũ điệu yêu kiều, với những cành lá màu xanh mỏng manh tinh tế. Anh giơ một bàn tay lên bảo vệ mình khi bị đánh về phía lớp gỗ. Bàn tay anh trượt khỏi bề mặt nhớp nháp, đầu đập vào vỉa cát cứng. Mắt tóe hoa cà hoa cải.
Một cơn sóng nữa lại nhấc anh lên rồi ném về phía cầu tàu. Lần này, anh vừa kịp tránh một cái cột hoen rỉ. Thay vì cưỡng lại dòng chảy và bơi ngược về phía tàu – cách khoảng 2,5 mét – anh đợi chờ con sóng đánh ra đưa mình đến đó. Một con sóng cồn hướng lên trên nuốt lấy anh, lần này đến lượt vai anh va vào cột. Đau khủng khiếp. Máu sẽ chảy.
Biển này có cá mập không?
Không bao giờ tìm thêm rắc rối…
Vùng nước rút xuống. Anh đá vào dòng chảy, nhô đầu lên, hít đầy không khí vào hai lá phổi rồi lặn xuống, gắng sức bơi về phía cánh cửa.
Nước biển mặn mòi làm mắt anh rát buốt nhưng anh vẫn giữ chúng mở to; mặt trời đã xuống thấp và nơi này rất tối tăm. Anh nhận ra thứ mình đang tìm kiếm, ghì chặt lấy tay nắm cửa và vặn mạnh. Tay nắm cửa di chuyển tới lui nhưng cửa không mở.
Lại trồi lên bề mặt, hít thêm dưỡng khí. Lại nhào xuống, tay trái anh nắm lấy chốt cửa để ghìm mình xuống, còn tay phải anh lần tìm các ổ khóa hoặc các móc cố định.
Cú sốc và nỗi đau khi lao xuống nước lần đầu đã tan đi, nhưng người anh đang run lẩy bẩy.
Ashton Shaw từng dạy các con chuẩn bị ra sao để sinh tồn trong vùng nước lạnh – đồ bơi khô ráo là số một. Đồ bơi ẩm ướt, lựa chọn thứ hai. Hai cái mũ – mất nhiệt xảy ra nhiều nhất là qua hộp sọ, ngay cả khi có mái tóc dày như các lọn tóc vàng của Shaw. Không cần quan tâm đến tứ chi; nhiệt không bị mất qua các ngón tay hay ngón chân. Nếu không mặc trang phục bảo hộ, giải pháp duy nhất là thoát ra ngoài càng nhanh càng tốt trước khi hoang mang, tê liệt và cuối cùng là thiệt mạng vì hạ thân nhiệt.
Còn 25 phút nữa.
Một lần nữa gắng sức vặn mạnh chốt cửa dẫn vào buồng lái. Thêm một lần thất bại.
Anh nghĩ tới tấm kính chắn gió nhìn ra mũi tàu. Lối duy nhất đưa cô ra ngoài.
Shaw khua tay như mái chèo, bơi vào bờ biển rồi lặn xuống, vớ lấy một hòn đá đủ lớn để đập vỡ kính, nhưng không quá nặng kéo anh chìm xuống đáy.
Đạp chân thật mạnh, rất có nhịp điệu, hòa nhịp những nỗ lực với con sóng, anh quay về phía con tàu, với cái tên mà giờ anh mới để ý là Seas the Day.
Shaw cố gắng trèo lên mũi tàu đang nghiêng 45 độ, ngồi lên phía trước buồng lái đang nghiêng lên phía trên, tựa người vào ô cửa sổ rộng 1,2 mét và cao gần 1 mét.
Anh dòm vào bên trong, nhưng không phát hiện dấu hiệu nào của người phụ nữ tóc đen 32 tuổi. Anh để ý rằng phía trước buồng lái trống trơn. Từ chỗ này tới đuôi tàu có tấm vách ngăn, ở giữa có một cánh cửa và một ô cửa sổ cao gần đến đầu người, miếng kính đã mất. Nếu cô có ở đây, thì sẽ ở phía bên kia – cái nơi lúc này đang ngập nước.
Anh cầm viên đá lên, đầu sắc nhọn chĩa về phía trước, rồi đập xuống tấm kính, lần nữa rồi lần nữa.
Anh biết rằng người đóng con tàu này đã gia cố ô cửa sổ phía mũi để chịu đựng được gió, sóng và mưa đá. Viên đá thậm chí không thể tạo được vết nứt nào trên bề mặt.
Còn một chuyện khác nữa mà Colter Shaw biết.
Elizabeth Chabelle thực ra vẫn còn sống.
Cô đã nghe thấy tiếng đập, gương mặt xinh đẹp nhợt nhạt, bao quanh là mái tóc nâu lòa xòa, xuất hiện phía sau ô cửa sổ trên ngưỡng cửa giữa hai ngăn buồng lái.
Chabelle thét lên “Cứu tôi với!” to đến nỗi Shaw vẫn nghe thấy rõ mồn một, dù họ bị ngăn cách bởi một tấm kính dày.
“Elizabeth!” Anh quát lên. “Cứu trợ đang đến. Tránh xa khỏi vùng nước đi.”
Anh biết cứu trợ mà mình vừa hứa không thể nào tới đây cho đến khi con tàu đã nằm dưới đáy biển. Anh là hy vọng duy nhất của cô.
Nếu là người khác thì đã có thể vừa vặn chui qua ô cửa sổ vỡ bên trong rồi trèo về phía trước, vào nửa gian còn lại của buồng lái, khô ráo hơn.
Nhưng Elizabeth Chabelle thì không thể.
Kẻ bắt cóc cô, không biết vô tình hay hữu ý, đã lựa chọn một người phụ nữ có thai bảy tháng rưỡi; cô không tài nào chui vừa qua cái khe hở này.
Chabelle biến mất và đến đứng ở chỗ khác, tránh xa vùng nước băng giá, và Colter Shaw một lần nữa giơ hòn đá lên, đập rầm rầm xuống mặt kính chắn gió.