Đêm Hai chín rạng ngày Ba mươi tháng Tư.
Trung tá cảnh sát đường sông Văn Bái kéo lút ga làm cho chiếc hors-bord rùng lên rồi phóng như bay trên mặt sông. Mũi xuồng như lưỡi dao sắc, xẻ nước ra làm đôi, trôi dạt sang hai bên sườn xuồng.
Thực ra ngăn chặn quân Cộng sản tiến quân vào Sài Gòn bằng đường sông chỉ là kế hoạch phòng xa, vì ít có khả năng xảy ra. Bởi lực lượng hải quân của bên họ yếu kém, và thiếu, không thể nào vượt qua được lực lượng hải quân đông đảo và hùng mạnh của hải quân quân đội Sài Gòn ở các vùng dọc duyên hải từ Huế, Đà Nẵng đến Nha Trang, Phan Rang, Phan Thiết đã kéo về neo đậu chật kín ngoài biển Vũng Tàu. Từ Ô Cấp đến Nhà Bè đã có những chiếc khinh tốc đỉnh nhỏ nhưng trang bị mạnh, đi lại tuần tra, chủ yếu là để mắt đến khu Rừng Sác và bên kia sông Soài Rạp, nơi từ lâu vẫn là căn cứ của đặc công Việt cộng. Còn lại, từ Nhà Bè đổ ngược sông Sài Gòn, Củ Chi, lên Thủ Dầu Một việc tuần tra kiểm soát trao lại cho địa phương quân và số ít cảnh sát quốc gia. Bộ tham mưu Việt Nam Cộng hòa tính, cuộc tiến công của Quân giải phóng vào Sài Gòn lần này chủ yếu theo các con đường bộ, nơi họ phát huy được đầy đủ sức mạnh cả về lục quân, pháo binh và chiến xa, còn đường thủy, họ chưa dùng đến, kể từ khi họ vào chiếm Huế và Đà Nẵng và Nha Trang và Phan Thiết.
Trong nhiệm vụ tuần tra trên sông, được coi như việc phụ, có cho phải phép, một số ít cảnh sát nhận việc này bằng xuồng máy hors-bord chứ không phải là các duyên tốc đỉnh được trang bị mạnh. Trung tá cảnh sát Văn Bái được nhận chiếc xuồng hors-bord và tuần tra ở nơi có thể nói, ít có khả năng quân Cộng sản tổ chức qua sông nhất, đấy là khu vực thượng và hạ lưu cầu Cây Bông, cách hai bên chân cầu năm đến bảy trăm mét.
Trung tá Bái đi một vòng trong khu vực được trao nhiệm vụ tuần tra, rồi sang bờ bên kia, hạ lệnh cho tất cả thuyền của dân đánh cá, dân thương hồ và của cả các gia đình từ nhiều nơi kéo về tránh thành phố, sống trên sông tập trung lại ở bờ bên kia, nơi có rừng lau với nhiều nấm mồ hoang. Không những tập trung lại, trung tá cảnh sát Văn Bái còn ép các thuyền phải đưa người lên bờ. Mỗi thuyền chỉ giữ lại một người lái. Nhóm thuyền tập hợp được mười hai chiếc, trung tá giao cho ông Ba Tàu chuyên bán mì vằn thắn cai quản. Trung tá có hẹn, ai tự ý đưa thuyền ra sông hoặc bỏ trốn đi bến khác, sẽ bị phạt.
Xong việc, trung tá lại phóng xuồng máy về phía cầu Cây Bông. Ông bước lên trận địa tử thủ của đại đội biệt động quân để trao đổi việc phối hợp tác chiến với trung tá Hàm.
Thực ra, trung tá Hàm và trung tá cảnh sát Văn Bái chỉ biết nhau, chưa bao giờ kết thân. Thậm chí những ngày đầu biết Văn Bái chiêu hồi về với quốc gia vì đã bắn chết một đồng ngũ, là cán bộ cấp tiểu đoàn đang chạy về phía địch, chính là ba của Hàm, anh đã âm thầm lên kế hoạch ám sát Văn Bái khi có cơ hội để trả thù. Nhưng rồi chính tiểu đoàn trưởng, trung tá Hai Xương nói với Hàm, thằng Bái chỉ là đứa đầu sai, bắn người theo lệnh của cấp trên, không phải đối thủ trực tiếp gây ra cái chết, nên Hàm nghe, nguôi thù hằn dần viên chiêu hồi đáng ghét. Cho đến khi, Văn Bái leo đến tận trung tá, trong mắt Hàm, đây có thể là một sĩ quan tận trung với quốc gia, nên anh nguôi thù ghét, không thân mật, quan hệ bình thường, trước kia là cấp trên, cấp dưới, còn bây giờ là đồng cấp.
Văn Bái gặp Hàm, bắt tay rồi nói:
“Tôi và lính địa phương quân đảm bảo cho ông đoạn sông trên dưới chân cầu Cây Bông năm trăm mét, không một Cộng quân nào qua được sông để ông yên tâm giữ mặt cầu”.
Hàm nói:
“Cám ơn ông. Riêng mặt cầu, một con chuột cũng không chạy qua được”.
Văn Bái nói có vẻ lấy lòng Hàm:
“Tiếc thay, một số nơi giữ cửa thành phố, thiếu một chỉ huy như ông”.
Hàm nói:
“Họ có thể băng qua các cửa ô nào đó, nhưng ở đây thì không. Tôi nói danh dự như vậy trên điện thoại với tướng Đỗ Kế Giai - tổng chỉ huy biệt động quân”.
Hai người lại bắt tay rồi chia tay.
Trung tá Văn Bái phóng xuồng dọc theo cầu Cây Bông, đèn pha quét sáng loáng sang tận bờ bên kia. Lâu sau, chừng mười giờ đêm, trung tá Văn Bái mới quay lại chỗ tập trung hơn mười chiếc thuyền do ông Ba Tàu đứng ra trông coi.
Bước lên thuyền, ông Ba Tàu nói với trung tá Văn Bái:
“Tôi đang chờ anh đến để quyết định. Trung đoàn Quân giải phóng đã cho trinh sát ra bến bắt liên lạc với tôi, nói rằng, họ cần đưa một đại đội với đầy đủ trang bị sang sông trước một giờ sáng”.
Văn Bái xem đồng hồ:
“Không được. Giờ ấy đối phương còn đang cảnh giác. Phải sang sông lúc chúng đã mỏi và mất cảnh giác nhất. Nhắc họ ém quân kỹ trong rừng lau, hai giờ mới được lên thuyền, ba giờ sáng, thuyền mới chở họ sang sông. Tôi nhắc lại, chuyến đầu, chỉ đi bảy thuyền, mỗi thuyền chở mười người đủ trang bị. Chuyến thứ hai đi bảy thuyền nữa, là đưa đủ một đại đội sang bên kia. Nhớ bãi tập kết là khu vườn chuối, cách cầu năm trăm mét. Lúc đó tôi không ở đây, và ở dưới gầm cầu để cho quân tử thủ của Hàm yên tâm. Thôi, tôi đi. Bác cố gắng nhé. Mưu sự mười năm chỉ dùng trong vài giờ”.
Văn Bái vừa bước đi, định xuống xuồng thì ông Ba Tàu giữ lấy tay, nói:
“Tôi sẽ không đi chuyến đầu, mà ở đây chờ đưa ông Ba Quang. Ý anh thế nào?”.
Văn Bái nói:
“Tôi đồng ý. Giao cho ông trưởng ấp Xoài Hai chỉ huy tốp thuyền đầu. Ông ấy tin được”.
Xuống xuồng, trung tá Văn Bái lại kéo lút ga để hors-bord bay lên các cụm bèo đang trôi ngược vì triều cường. Anh đi vòng quanh, cố gắng dọi đèn pha để từ trên trận địa tử thủ, Hàm nhìn thấy anh đang lục lọi từng mét nước dọc theo hai bên cầu Cây Bông. Chừng hai giờ sáng, Văn Bái quay về nơi đậu thuyền của ông Ba Tàu. Qua ánh đèn pha, ý tứ quét vội, anh thấy đã có người bước lên thuyền của ông Ba. Vì thế anh nhẹ tay ga cho xuồng lướt nhẹ rồi đánh tay lái để xuồng vào sát chiếc thuyền buôn của ông Ba không gây tiếng động nào.
Bước lên thuyền, Văn Bái nhận ra ngay người mà lâu nay anh vẫn chờ gặp. Anh đứng thẳng người, bỏ chiếc mũ cảnh sát, đưa tay lên trán chào theo điều lệnh nhà binh:
“Báo cáo thủ trưởng Quang, tôi, Chính trị viên Văn Bái đã hoàn thành nhiệm vụ”.
Mắt ông Quang sáng lên, nhưng nghiêm mặt:
“Anh chưa hoàn thành nhiệm vụ, chưa được phép của cấp trên cho trở về với đơn vị mà đã chủ quan. Anh vẫn là trung tá cảnh sát ngụy. May đây là thuyền buôn của bác Ba. Anh có thể lấy ở đây một vài bao thuốc lá, vài gói mì tôm rồi đi ngay, coi như lên thuyền mua hàng. Từ các cửa ô tiến vào Sài Gòn, chúng ta đã có hơn năm nghìn ba trăm cán bộ, chiến sĩ hy sinh. Chúng ta không muốn thêm một người nào nữa ngã xuống trước giờ chiến thắng. Cả anh nữa, đừng chủ quan lộ danh tính để bị một viên đạn bắn lén sau lưng”.
Nói rất nặng lời, nhưng Trung đoàn trưởng Quang lại ôm lấy Văn Bái:
“Anh đã phải hy sinh rất nhiều, đã phải gần hai mươi năm chịu tiếng xấu là một kẻ phản bội, chui vào hàng ngũ địch là vì yêu cầu của cách mạng, trong đó có vì tôi. Gia đình vợ con tôi sống an toàn đến ngày hôm nay là do anh. Còn gia đình anh thì…”. - Ông Quang lặng đi, không nói tiếp, mà vỗ vỗ lên lưng Văn Bái. - “Thôi, nói sau. Anh Bái này, hơn lúc nào, tôi mong anh trở về. Anh phải về với vợ con anh nhanh nhất để cởi cái ách vì chồng phản bội theo giặc để cho chị ấy và con trút bỏ tủi nhục, được sống đàng hoàng như mọi người. Lúc này không nói dài được, anh xuống xuồng đi”.
Văn Bái định nói thêm một vài lời với ông thủ trưởng mấy chục năm mới gặp, nhưng ông Quang thúc ép quá, anh phải xuống xuồng.
Xuồng của Văn Bái phóng đi, ông Quang cứ đứng nhìn theo, chết lặng. Sao ông không nói thêm với người cán bộ điệp báo một vài lời nữa? Không, ông phải giữ an toàn cho Bái. Vả lại, câu chuyện với người điệp báo này không chỉ nói vội vã vài lời, mà là cả câu chuyện dài, nói vài đêm chưa chắc đã hết.
Năm ấy, năm một chín năm sáu, Chính trị viên đại đội Văn Bái vừa đi khỏi chiến khu với hồ sơ giả là người chiêu hồi chạy về phía chính phủ quốc gia, Tiểu đoàn trưởng Quang cũng được trên điều ra Bắc để học khóa chính quy đào tạo sĩ quan cấp trung đoàn. Những ngày còn học trong trường, đôi lần anh lần theo địa chỉ Bái để lại, tìm về thăm vợ con của anh. Lần thứ nhất về thăm, vợ Bái còn làm công nhân sắp chữ một nhà máy in của Bộ Văn hóa, sống trong gian nhà tập thể của công nhân, hẹp nhưng hai mẹ con tạm đầy đủ, vui vẻ, đầm ấm. Ông chỉ dám nói với mẹ con chị chuyện anh Bái khỏe mạnh, đang làm nhiệm vụ ở chiến trường. Lần thứ hai, anh đến thăm, thì vợ anh Bái không còn ở khu tập thể nhà máy in nữa. Hỏi thăm, anh mới biết, vì chồng phản bội theo địch, nên chị Thảo không được làm việc ở một nhà máy của Bộ Văn hóa, điều đi làm công nhân công trường trồng chè ở mãi tận Mộc Châu. Ông Quang dành cả ba ngày được nghỉ Tết lên Mộc Châu thăm mẹ con chị Thảo. Trời ơi, bao nhiêu là oan ức mà ông không thể nói ra. Bao nhiêu tủi khổ mẹ con chị Thảo phải chịu, ông cũng không được phép nói ra sự thật. Cho đến khi cháu Vân, con gái chị Thảo và Bái học hết chương trình phổ thông mười năm, để cháu được đi thi vào đại học, ông xin nhận cháu làm con nuôi, mà cái tiếng bố phản bội, cháu vẫn không được thi đại học, đành ở nhà, làm công nhân hái chè như mẹ. Hai mẹ con cúp mặt sống giữa một xóm công nhân hầu hết gia đình có chồng con đi bộ đội, không thể nào thông cảm, tha thứ cho gia đình có người theo giặc, phản bội lại chồng con họ. Đôi khi có gia đình nhận báo tử, họ đến tận cổng nhà mẹ con chị Thảo gào khóc, cứ như là con em họ hy sinh là do kẻ phản bội, chồng chị gây ra. Những lần như thế, có người thật lòng khuyên chị, đừng tiếc kẻ ăn ở hai lòng nữa, ly dị đi, lấy một thằng chăn bò mà yên ổn còn hơn chờ thằng chồng phản bội, bị mang tiếng với làng xóm. Nhưng chị vẫn đứng lại, chị nghĩ, không sao có thể hiểu nổi, người như anh Bái lại ăn ở hai lòng, lại phản bội lại vợ con. Có sự lầm lẫn đáng tiếc nào chăng. Cứ nghĩ thế mà chị Thảo ôm con khóc đẫm gối, nhưng không đi bước nữa.
Ông Quang chưa có thì giờ để nói lại với Bái tất cả chuyện đó. Nhưng với người khác thì ông đã nói. Mới đây, nói chuyện với đám sĩ quan ngụy ra hàng sau trận Xuân Lộc, họ hỏi ông nhiều điều về hòa hợp dân tộc, ông đã nói cái ý, rồi vài ngày nữa chiến thắng, hòa hợp đâu chỉ giữa tôi với các anh, giữa bên thắng và bên thua, mà hòa hợp ngay chính trong nhiều gia đình của cán bộ, chiến sĩ chúng tôi. Họ đã vì nhiệm vụ, đi vào hoạt động trong lòng địch mà bao gia đình phải sống trong oan trái gần hết cả một đời người, nay cần hòa hợp để lấy lại thanh danh đã mất, những gì đã phải chịu đựng quá sức. Ông kể cho mấy viên sĩ quan hàng binh nghe câu chuyện mẹ con chị Thảo. Họ nghe xong, cứ ngồi lặng đi. Rồi ông nguyên đại tá lính thủy đánh bộ, nói với ông Quang:
“Thưa ông, các ông thắng chúng tôi, thắng cả Pháp và Mỹ là phải. Bởi vì các ông có điều mà chúng tôi không có”.
“Là điều gì?” - Ông Quang hỏi.
Viên đại tá hàng binh bảo:
“Đó là điều, không chỉ binh sĩ các ông mà nhân dân của các ông, nghĩa là vợ con của binh sĩ, đều coi sự hy sinh là cao cả”.
Ông Quang ngồi một mình đốt thuốc lá, mặc cho ông chủ thuyền lúi húi dưới khu bếp đặt phía đuôi thuyền. Rồi ông chủ bưng lên một đĩa xôi với một con cá nướng.
Ông chủ thuyền nói:
“Thưa bác Quang, nhớ mấy chục năm trước, tôi được chở bác từ bến Tàu Hủ, ngược sông Sài Gòn, đến đầu Thủ Dầu Một thì bác lên thuyền để tìm đường về chiến khu. Bấy giờ còn nghèo quá, không có gì ăn, nên một nắm gạo nếp đem đồ xôi, phải lót lá thơm. Không có thịt cá, đến cả muối mè cũng thiếu, nên xôi thơm cho dễ ăn. Bây giờ tôi nấu lại món xôi này, để bác nhớ lại ngày xưa”.
Ông Quang cảm động:
“Chuyến đó may mà được đi trên thuyền buôn của bác nên an toàn, còn một số anh em cùng lên chiến khu nhưng đi thuyền của vạn chài, bị cảnh sát lục bắt. Tôi nhớ ơn bác nhiều lắm”.
Ông chủ thuyền ngồi xuống cùng ăn xôi với ông Quang, vừa ăn vừa kể, từ chính quyền ông Diệm đến các chính quyền sau này, họ đều chỉ tin người Tàu chăm chỉ làm ăn, không theo phe nào, đặc biệt là không theo Cộng sản. Cho nên có việc gì phải lục soát, họ bỏ qua nhà người Tàu. Thời còn đương quyền, khôn ngoan như anh em ông Diệm, Nhu cũng chọn Chợ Lớn làm căn cứ an toàn nếu có biến đến nấp. Chợ Lớn với hàng triệu người Tàu làm ăn chăm chỉ ào ào như ong, như kiến, nhưng họ có luật lệ riêng, đã cứu ai thì cứu đến cùng. Chợ Lớn mênh mông vậy, thiên la địa võng hàng quán vậy nhưng họ có mật lộ riêng cho người bị truy đuổi thoát nạn. Cần thì họ đưa người bị truy đuổi đi Hồng Kông, đi Ma Cao, đi Đài Loan, đi Thái Lan, những nơi đã chuyển hàng họ buôn bán phát đạt từ bao lâu nay. Thời hai anh em ông Diệm, Nhu bị đảo chính, trước đó, ông Diệm ở dinh Gia Long để nắm quyền chỉ huy, và ông cũng tin vào lính cảnh vệ. Dinh Gia Long có hầm ngầm cố thủ, nhưng hầm này, nói vô phép, chỉ để chống bọn ăn cắp vặt, chứ chống sao được quân đảo chính súng ống đầy người, nên hai anh em ông Diệm lui về mật cứ giữa phố người Tàu ở Chợ Lớn. Giá ông ấy cứ ở mật cứ Chợ Lớn thì không sao. Đằng này, bỗng ông Diệm đổi ý, sang ở một nhà thờ để nói chuyện với phe đảo chính cho có vẻ đường chính của một con chiên ngoan đạo nói trước Chúa. Minh lớn cho xe bọc thép đón hai anh em Diệm, Nhu về sở chỉ huy cuộc đảo chính để nói chuyện. Chắc là Minh lớn đã mưu sự trước, nên trên đường đi, viên thiếu tá chỉ huy xe bọc thép kéo hai anh em Diệm, Nhu xuống vệ đường bắn bỏ. Gặp lại Minh, viên chỉ huy báo cáo mọi việc đã giải quyết xong xuôi. Minh nói với viên chỉ huy trực tiếp giết anh em Diệm một câu tiếng Pháp:
“Hãy đi rửa tay cho sạch”.
Ngồi ăn xôi với khách, bác chủ thuyền người Hoa nói với ông Quang: “Bác ở trên thuyền của tôi thì cứ yên tâm. Tôi được giao, phải ba giờ rưỡi sáng, anh em đại đội xung kích đã sang hết bên kia an toàn rồi mới đưa bác sang thành phố để chỉ huy”.
Cũng không phải chờ lâu, ăn xôi xong, đã đến giờ thuyền rời bến. Ra đến giữa sông, ông Quang bảo ông chủ thuyền:
“Chẵn hai mươi năm tôi mới lại được đi trên sông Sài Gòn. Người ta bảo không ai tắm hai lần trên một dòng sông, tôi thấy đúng theo cả nghĩa đen. Tôi mới tắm trên sông này một lần hai mươi năm trước, mà đến tận bây giờ, gần hết một đời người chưa tắm lần thứ hai”.
Ông chủ thuyền chỉ nghe được loáng thoáng lời ông Quang nói vì cả tai, cả mắt, cả hồn vía của ông đều lắng nghe từng động tĩnh trên dòng nước.