Mới ngang chiều mà nắng như đổ lửa.
Hàm ra xe, không thấy Nhu.
Cậu ngồi bên tay phải lái mở cửa bước ra, lễ phép nói:
“Thưa chú, cô Nhu bảo con đưa chú sang bên kia sông”.
Hàm nhận ra anh chàng đẩy xe bán phở gõ hồi sáng. Anh chàng đẹp giai này có nét quen quen.
Hàm:
“Có phải hồi sáng cháu bán phở gõ không?”.
“Dạ. Hôm nay chủ nhật, con đi làm thay ba Khung”.
Hàm thấy như có vật gì đó đè lên ngực. Một vật nặng mà không thể vứt bỏ. Nó đè lên tim anh đã lâu, nhưng lúc này nó mới thật sự bóp nghẹt từng nhịp đập. Nếu như ở Lamcaster anh sẽ trốn bỏ cuộc gặp mặt này. Vì một cuộc gặp mà anh không được làm chủ. Một cuộc gặp anh phụ thuộc vào lòng tha thứ của người khác.
Máy điện thoại của Hàm rung.
Hàm đọc dòng tin nhắn của Nhu:
“Chị Tư và mọi người chờ anh”.
Trong đầu Hàm kỷ niệm về Tư lại chợt đến về cái đêm ngủ lều bạt bên kia sông. Hàm đắp cho cô tấm chăn dù của lính rồi se sẽ xoay Tư nằm quay mặt lại phía anh, nói nhẹ nhàng:
“Yêu nhau đi em”.
Nhưng Tư không để Hàm ôm hôn mà hai tay đẩy anh ra xa. Hàm giả vờ tuân theo sự từ chối của Tư, nằm im. Lâu sau, cô he hé mở mắt khi thấy Hàm đã ngáy đều đều. Qua ánh sáng trăng lờ mờ hắt qua khe lều bạt, cô thấy gương mặt Hàm đẹp, kiên nghị, phong trần và dễ thương. Bấy giờ cô mới quay mặt lại, đặt một tay lên ngực Hàm. Hàm chỉ chờ có thế. Chỉ một cử động nhẹ của Tư làm Hàm bừng tỉnh giác quan đàn ông mạnh mẽ. Anh quay người lại. Vẻ đẹp đầu tiên mà Hàm chiêm ngưỡng là chiếc cổ tròn rám nắng của cô rồi mới tới vồng ngực nhỏ, nhô dưới tấm áo mỏng. Hàm nói nhỏ vào tai cô gái:
“Cưng”.
Rồi anh tung tấm dù choàng đắp lên hai người. Hai tấm thân bùng nhùng trong tấm dù hẹp, kín đầu thì hở hai chân, kín chân thì hở đầu.
Tư có khác xưa? Quả thật những ngày xa anh không thể hình dung ra Tư. Các cô gái tử tế, thường khó hình dung về họ, bởi họ luôn muốn làm người thường, người hòa lẫn vào đám đông, cười nói như đám đông, không tách biệt để làm điều khác lạ buộc người khác phải chú ý như các cô gái ăn chơi.
Xe chạy một đoạn nữa thì đột ngột rẽ vào cổng một ngôi nhà nằm khuất dưới bóng những cây xoài.
Cậu đi cùng để dẫn đường cho Hàm nói:
“Thưa chú, cô Nhu bảo đưa chú đến đây. Còn con thì quay về nhà trọ, vì má con nói, con còn nhỏ, không được nghe chuyện người lớn”.
Hàm xuống xe, nhìn thấy Nhu bước vội ra từ cửa căn nhà nhỏ dưới bóng xoài. Đứng trước anh, nước mắt Nhu rơm rớm:
“Anh ơi, em không giữ được ba má cho đến ngày anh trở về”.
Hàm nắm tay em gái:
“Tha lỗi cho anh... Tại anh về muộn”.
Phải hồi lâu Nhu mới dứt khỏi xúc động:
“Thôi, vào nhà đi anh. Chị Tư và ông Khung đang đợi anh trong nhà”.
Nhu đi trước, Hàm bước theo sau vào gian nhà có ban thờ ảnh Chúa, đĩa hoa và thắp nến trắng. Tư mặc áo chùng đen cổ trắng, quỳ hai đầu gối xuống chiếu, mặt hướng ban thờ Chúa. Trước mặt người đàn bà là cuốn kinh Thánh mở ở trang giữa.
Bên bàn uống nước chỉ có một ông Khung, bên tay cụt, ống tay áo lòng thòng. Hàm nhận ra ông Khung ngay từ khi bước vào nhà. Chưa biết chào thế nào cho tiện thì Khung chủ động đứng lên mời Hàm ngồi xuống ghế uống nước.
Ông Khung nói:
“May mà chúng ta còn gặp lại nhau”.
Hàm đáp như cái máy:
“Tôi có lỗi với anh”.
Ông Khung mời Hàm hút thuốc, nói:
“Bấy giờ nó thế. Chiến tranh người ta điên cuồng làm những điều dại dột. Thôi, chuyện đã qua, khỏi nhắc lại”.
Nhu ghé vào tai Tư nói gì đó. Tư vẫn ngồi quỳ hai gối, không xoay người lại nhìn Hàm, chỉ nói:
“Mời cả hai ông và cô Nhu ngồi xuống chiếu. Mọi người không theo đạo thì không phải quỳ, cứ ngồi xếp bằng cho tiện”.
Hàm và ông Khung ngồi sang hai phía Tư. Còn Nhu ngồi phía sau Tư. Bây giờ Hàm nhận ra tóc Tư đã điểm bạc mặc dù gương mặt thì không khác xưa là bao. Vẫn gương mặt ấy, cái miệng ấy, đôi mắt ấy...
Mắt nhìn lên ban thờ, Tư nói:
“Xin ông Hàm và cô Nhu thắp cho ba má một cây nến”.
Hàm và Nhu tăm tắp làm theo yêu cầu của Tư.
Đợi hai người thắp nến xong, Tư lại nói:
“Mời ông Hàm và cô Nhu ngồi xuống chỗ cũ”.
Vừa ngồi xuống, Hàm vừa nghĩ nhanh, từ lúc bước vào nhà, chưa lần nào Tư nhìn mặt anh, cũng chưa lần nào cô gọi Hàm là anh mà một lời ông, hai lời ông. Cách gọi, cách ứng xử của Tư xa cách, không còn thân mật như anh chờ đợi.
Đợi mọi người yên chỗ, Tư nói:
“Ông Hàm đi xa mới về, nay mới gặp mặt, xin ông Hàm nói gì, thì nói trước”.
Hàm nói:
“Thưa cô Tư, tôi đi từ nơi xa xăm về, mang một ngàn lời xin lỗi cũng từ thuở xa xăm gây nên, làm khổ Tư, để Tư cơ cực và cay đắng nuôi con gần hết một đời. Tôi nghe lời Chúa dạy, kẻ lỡ làm điều xấu nay biết hối cải, thì được Chúa tha lỗi không chỉ một lần mà tha lỗi bảy mươi bảy lần, tha lỗi vĩnh viễn, để con người hòa đồng không thù hằn nhau. Trước Chúa, tôi cúi đầu xin Tư nhớ lại duyên xưa để chắp nối…”.
Hàm vừa nói hết lời, Tư từ tốn nói:
“Ông Hàm từng là cái tình của tôi, dù ngắn ngủi, dù thoáng qua, nhưng tôi vẫn nhớ. Dù bị ông phụ bạc, tôi vẫn hàm ơn, vì có ông mà tôi có đứa con. Ông Khung là cái nghĩa của tôi, mấy mươi năm không có ông Khung, mẹ con tôi biết úp mặt vào đâu mà sống. Bây giờ ông Hàm quay lại, tôi bỏ nghĩa về với tình cũng không được. Cho nên, tôi chắp tay, xin ông Hàm cho tôi được vì nghĩa, sống trọn nghĩa với ông Khung để được làm người”.
Nghe cô Tư nói, Hàm tiếp lời:
“Tôi biết Tư tuổi còn trẻ mà lâu nay vẫn một mình, cho nên, tôi muốn chắp nối lại...”.
Tư nói:
“Thỉnh thoảng tôi có nhìn ra phía bờ sông nơi ngày xưa tôi và ông Hàm gặp nhau. Mọi thứ giờ đã khác. Nhưng tôi thì vẫn thế, có ông hoặc không có ông, tôi vẫn thế, như là lời giáo thụ của Thánh Mẫu, dù thế nào thì mây vẫn bay về trời...”.
Nói xong, không chờ hai người đàn ông trả lời, Tư thong thả gõ một hồi chuông, cầu Chúa xá tội:
“Chúng con xin dâng lên Chúa với tất cả lòng yêu mến của chúng con. Xin Chúa ban Chúa Thánh thần để ngài soi sáng, nâng đỡ, giúp chúng con nghe, hiểu và sống những điều Chúa muốn dạy chúng con. Xin Chúa ân xá cho chúng con được sống yên lành dưới ánh sáng huyền diệu của Chúa”…
Nhu nhìn người đàn bà đang hướng tất cả lòng cầu xin Chúa xá tội, cô hiểu Tư đã lạc vào cõi khác.
Cô nói nhỏ với Hàm:
“Để cho chị ấy yên. Em đưa anh đi thăm mộ ba má”.
Thấy Nhu và Hàm khẽ khàng đứng dậy, Khung cũng đứng lên, đến ngồi ở bàn trà.
Nhu và Hàm đi ra bãi đất có hai ngôi mộ nhỏ nằm song song, mới quét lại vôi trắng. Mộ bên phải có ảnh hình ông Quang đeo quân hàm trung tá in trên đá. Mộ bên trái là hình má cổ quàng khăn rằn, cũng in trên đá. Hàm vội quỳ xuống, ôm lấy mộ má, vai rung lên từng nhịp.
Rồi Hàm ngửng lên, bước qua ngôi mộ bên kia, cũng quỳ xuống, ôm lên mộ.
Nhu nói:
“Chị Tư bảo anh Hàm chưa một lần đưa chị về nhà, nên chị chưa một ngày được làm dâu. Nay ba má mất chị xin đưa ba má về ở gần để hương khói cho trọn đạo dâu con”.
Hàm ôm mặt khóc.
Nhu đứng nhìn anh hồi lâu, rồi đặt một tay lên vai anh:
“Anh cứ ở lại bên này hương khói cho ba má. Em hẹn tối nay làm cơm mời cả nhà. Em về trước lo liệu. Rồi xe sẽ quay lại đón anh”.
Lâu lắm, Hàm mới ngửng đầu lên. Không thấy ai ở bên, Hàm đi về phía ngôi nhà. Tư vẫn ngồi đọc kinh.
Hàm cất tiếng:
“Tư, cho anh lạy em ba lạy”.
Tư không quay lại, cất tiếng cầu kinh:
“Kính lạy Đức Chúa Trời. Con đã xúc phạm thánh đức của ngài vì đã có những tư tưởng và hành động xấu xa ô uế. Nay con ăn năn trở về cùng ngài. Xin Đức Chúa Trời tha tội cho con. Xin dòng máu thánh của Chúa Giê-su đổ ra trên thập tự giá tẩy sạch tâm linh con. Xin Chúa Giê-su ngự vào đời sống con, đổi mới con, và ban cho con sức mạnh để có thể trung thành với ngài mãi mãi, hầu linh hồn con được sống đời đời. Con cầu nguyện trong danh Chúa Cứu Thế Giê-su. A-men!”.
Hàm biết rằng không thể nói với Tư thêm điều gì vào lúc này. Anh chợt nghĩ vết thương không phải do bom đạn, mà do chính con người gây ra thường hằn sâu trong lòng, khó tẩy xóa.
Anh bước về phía bờ sông. Trời đã tối, mặt sông trước cửa nhà nhấp nháy muôn ánh điện từ thành phố bên kia hắt xuống. Dòng sông yên bình. Hàm bước tận mép nước, cúi xuống mở hai bàn tay sục đầy nước sông Sài Gòn vỗ lên mặt.
Nhà sáng tác Đà Lạt, tháng 10-2020.