• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Mây vẫn bay về trời
  3. Trang 12

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 11
  • 12
  • 13
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 11
  • 12
  • 13
  • Sau

Chương chín

Oái oăm thay, người mà Nhu không còn chờ đợi lại đường đột trở về.

Quế về như người khác, không e ấp, ý tứ như ngày nào mà hồ hởi, gần gũi, thân mật, và bộc trực. Quế cũng chẳng quan tâm đến vết sẹo bên má trái dù đã được làm mờ đi, nhưng vẫn là sẹo kéo bên mắt và môi hơi xếch lên. Khi cười, vết sẹo căng ra, mắt trái xếch ngược nhìn có vẻ dữ tợn, nhưng môi thì không thấy bị lệch vì nụ cười đã xóa nhòa. Đấy là Nhu ý tứ để ý mà thấy, chứ Quế thì chẳng quan tâm đến vết thương. Anh không che đậy, không giấu giếm, có thế nào thì phô ra thế.

Quế về, cách ứng xử với Nhu, với má thay đổi hẳn, quan tâm một cách thiết thực như người trong nhà đi xa lâu ngày về. Chưa kịp hạ ba lô, anh ôm lấy má:

“Má ơi, ngày ấy, nếu không được má và em Nhu che chở thì không còn con hôm nay nữa. Vì thế hôm nay trở về, con làm gì cho má, cho em Nhu cũng không đủ”.

Má bảo:

“Thằng Hàm dại dột đi mất, có anh về nhà, tôi thấy đỡ trống vắng”.

Quế như người nhà, hạ ba lô và túi bạt to kềnh càng xuống sàn, nói chuyện ồn ào chốc lát, rồi anh xuống gian bếp, nhìn cái tấm tôn che mái đã thủng lỗ chỗ, bảo:

“Má ơi, để con gọi thợ thay tấm lợp khác cho má. Chứ mái này, gặp mưa thì má và em Nhu đứng đâu mà nấu”.

Rồi lên nhà, vừa ngồi xuống xa-lông, anh nhổm dậy, hỏi Nhu:

“Nhà có kìm và búa không em, để anh sửa cái chân xa-lông như răng bà lão rồi”.

Nhu bảo:

“Nhà chỉ có hai người đàn bà, kim chỉ thì có, chứ lấy đâu ra kìm với búa”.

Thế là Quế chạy ra phố, mua kìm, mua búa, rồi đinh và dây thép đem về hì hục xoay xở chữa mấy cái chân xa-lông lỏng lẻo từ lâu.

Má không chỉ việc, Nhu cũng không nhờ, nhưng Quế cứ tự nghĩ ra việc mà sắp xếp, sửa sang lại căn nhà lâu nay chỉ có hai người đàn bà trú ngụ. Nhiều thứ hỏng nhưng hai má con cũng để đấy, sống quen với những thứ đang hư dần, có thế nào thì dùng thế. Nay có Quế, bao nhiêu việc cần sửa trong nhà mới lộ ra. Nhìn Quế hăng hái, hì hục sửa chữa và sắp xếp ngăn nắp lại mấy gian nhà, Nhu lại tự hỏi mình, sao lâu nay cô vẫn bỏ lá thư của Quế trong ngăn bàn, không đọc. Sao lâu nay cô vẫn nghĩ anh là kẻ bội bạc, quên ơn. Anh quên tình nghĩa cũ hay anh còn điều gì mà cô chưa hiểu sau ngày anh bị thương? Điều gì làm anh thay đổi. Nhu định hỏi anh, sao gần hai năm đi chữa bệnh, ba mất mà anh cũng không có một lời chia buồn, thăm hỏi Nhu và má. Nhưng chả lẽ, vừa mới gặp lại nhau lại đem chuyện thiếu tế nhị ra hỏi, nên cô lại thôi, tự hẹn để khi khác.

Một mình anh hì hụi sắp xếp nhà đến tận chiều, má bảo:

“Anh Quế đi tắm táp, nghỉ ngơi đi. Nhu nấu cơm tối, nhà ta ăn cơm gặp mặt”.

Quế vội bảo:

“Ấy chết, con không ở lại ăn cơm với má và em Nhu được. Tối nay là con phải trình diện ở đơn vị rồi. Con xin phép phải đi ngay cho kịp giờ”.

Nói rồi, không kịp tắm, Quế đeo ba lô và cái túi vải bạt to tướng, gọi tắc-xi đi luôn.

Quế đi rồi, Nhu ngẩn ngơ trong nhà. Người như Quế đâu phải dễ dàng phản bội lại lời hẹn “em chờ anh” trong cái đêm lửa đạn. Người như Quế sao cô lại thờ ơ coi như đã quên đi. Nhu ngồi vào bàn, mở ngăn kéo. Lá thư dày cộm của Quế gửi Nhu hồi nào vẫn nguyên vẹn, chưa mở. Cô từng dằn lòng, không bao giờ mở, không cần quan tâm những lời trong thư bởi với cô, mọi sự đã muộn. Con gái, có thể chịu thiếu, chịu khổ, nhưng không chịu được xúc phạm vì người đàn ông bội nghĩa. Có phải anh đã bội nghĩa, hay còn lý do nào khác. Nhu đặt chiếc bì thư trước mặt, đã định mở, lại thôi vì nghĩ, đã gặp lại thì trực tiếp nói với nhau đôi lời, cần gì phải thư. Đã nghĩ thế, đi nằm, nhưng lăn lóc mãi không ngủ được, cô lại trở dậy. Lần này thì Nhu quyết định mở thư.

Một lá thư rất dài, chữ chi chít kín năm trang giấy mỏng. Trời ơi, chuyện lại thế ư? Sao Nhu nỡ bỏ quên trong ngăn bàn những dòng thư này. Những dòng thư Quế đã chịu đựng suốt hai năm mới viết ra.

Anh kể, ngày đang còn ở khoa chỉnh hình, anh biết tin ba mất, buồn vô hạn, nhưng không đánh điện chia buồn với má và Nhu, bởi vài lời chia buồn đâu nói được bao điều anh muốn nói. Thay vì điện chia buồn, anh lên chùa Hà, ngôi chùa thiêng của xứ Bắc Bộ, xin nhà chùa làm lễ vọng ba, cầu chúc ba yên nghỉ ở cõi vĩnh hằng.

Anh kể, anh buồn vô hạn và thất vọng cũng vô hạn. Anh gặp Nhu một lần và cũng chỉ một lần anh hẹn, anh sẽ trở về và Nhu cũng chỉ một lần hứa “em đợi anh về”. Chỉ một lời hẹn ấy mà anh tin rồi hai người sẽ có một tình yêu đẹp. Vậy mà, buồn sao, trận đánh cuối của cuộc chiến đã để lại vết sẹo trên gương mặt anh. Gương mặt thương tật đâu còn xứng đôi với Nhu, một nghệ sĩ thường quan tâm đến hình ảnh bên ngoài. Thế là anh mất Nhu rồi. Anh không muốn xuất hiện trước Nhu nữa, dù bị mang tiếng là quên nghĩa xưa nhưng vẫn giữ lại mãi hình ảnh đẹp của gương mặt thuở nào. Cái đẹp tồn tại dù chỉ trong ký ức vẫn hơn cái xấu thường trực. Tranh thủ những ngày chờ chỉnh hình, để đỡ nhớ Nhu, cố quên Nhu anh lao vào công việc mà anh tự chuẩn bị trước, để lỡ ra, vì thương tật, không được trở về đơn vị thì vẫn có việc để vui sống. Ở xưởng nhạc cụ của Học viện anh học nghề lên dây đàn piano. Đó là việc rất khó, phải là người có năng khiếu âm nhạc mới làm được. May mà anh được Giáo sư piano Lê Bằng đánh giá cao về thẩm âm. Lớp học chỉ kéo dài sáu tháng, anh đã được cấp chứng chỉ hành nghề. Cũng lúc đó, sau những ngày buồn, anh nghĩ lại, anh bị một vết sẹo, có đáng gì so với mất mát của bao đồng đội tiến về Sài Gòn. Vì thế, sao anh lại im lặng với em? Không còn xứng là một cặp tình yêu, thì anh em mình vẫn là anh em, chứ sao? Người lính là thế, không phải điều gì ước ao là thành hiện thực. Tự dứt khoát với mình, anh sẽ vào Sài Gòn.

Đọc xong thư của Quế, Nhu khóc, vội lấy máy gọi cho anh. Nhưng rồi cô nhớ ra, anh đang ở đơn vị, không thể đánh thức vào tầm đã quá nửa đêm. Nhu bó gối ngồi ở đầu giường chờ đến bảy giờ sáng thì gọi cho Quế.

Quế nói trong máy:

“Anh nghe đây. Má ốm hả em?”.

Nhu bảo má không ốm mà em ốm. Em ốm vì cây đàn của em không hiểu sao âm thanh cứ khác lạ, mà chưa sửa được.

Quế bảo:

“Chờ chủ nhật anh đến sửa đàn cho em”.

Chờ chủ nhật với Nhu dài như đói cơm.

Quế đến, chỉ đeo mỗi cái túi vải bạt đựng đồ nghề sửa đàn. Nhu rút bỏ tấm ga phủ đàn, nói với Quế:

“Anh sửa đàn giúp em. Từ ngày ba mất, cây đàn trùm tấm ga, ít khi em dùng đến. Đêm rồi em đánh Phục sinh cho má nghe, cứ thấy tiếng nó khang khác thế nào ấy. Anh xem, có phải lên lại dây không?”.

Quế mở túi đồ nghề, lấy ra chiếc âm thoa, đặt lên nắp đàn. Rồi anh mở nắp cây đàn, gõ nhẹ lên hàng phím, lắng nghe. Sau đó anh gõ âm thoa lấy âm chuẩn để tiếp tục kiểm tra âm thanh cả 88 phím. Anh lần sờ bàn tay vào bên trong và bên ngoài cây đàn.

Quế bảo:

“Cơ và khớp đàn còn tốt. Theo anh chỉ lau bụi thôi. Chứ đàn hãng Bechstein của Đức người ta dùng cả trăm năm ấy chứ... Nào, Nhu thử dạo một bản nhạc để anh xem pêđan ngắt âm, rung âm còn chuẩn không”.

Nhu ngồi vào đàn, nhìn qua cửa sổ, như lấy cảm giác, rồi dạo một khúc nhạc ngẫu hứng.

Quế nghe bảo:

“Pêđan cũng còn tốt, ngắt và rung rất chuẩn. Như vậy xong”.

Nhu vẫn chưa yên tâm:

“Thế mà em cứ cảm thấy đàn phải lên dây”.

Quế nói:

“Hay là tại tai anh. Nhu đàn một khúc cho anh nghe lại xem” .

Nhu đàn một bản cổ điển.

Quế lắng nghe, nói:

“Em đàn bản concerto Bốn mùa của Antonio Vivaldi hay lắm. Bây giờ thì anh biết em cần gì ở cây đàn này rồi”.

Nhu ngỡ ngàng:

“Em cần gì, anh?”.

Quế cả quyết:

“Em đánh bản concerto này từ thời trẻ. Lúc đó cần một thứ âm thanh chói chang và vui tươi. Bây giờ em cần một chuẩn âm khác, thay vì những âm thanh chói chang thời trẻ là một nền âm mềm mại, lãng mạn, tinh tế và quyến rũ phù hợp với độ tuổi bây giờ”.

Nhu bặm môi, bảo:

“Có lẽ như vậy. Em già rồi mà. Anh giúp em nha?”.

Quế không nhận lời ngay.

Anh bảo:

“Tìm âm chuẩn phù hợp với tình cảm của một nghệ sĩ như Nhu với anh là thách thức. Cũng là để anh thử thách tay nghề. Nhưng không phải là việc của anh hôm nay. Hôm nay chỉ dọn nhà, sửa đồ”.

Nhu nói:

“Em dành cả ngày hôm nay cho anh lên dây đàn mà”.

Quế vẫn lắc đầu:

“Nghe tiếng đàn của Nhu anh biết, phải chờ dịp khác”.

Nhu lại không hiểu nổi:

“Chờ gì, hả anh?”.

“Chờ đợi một ngày nào đó tâm trạng của Nhu hoàn toàn thanh thản”.

Nhu trố mắt:

“Úi, chẳng lẽ anh Quế nghe được hôm nay em có điều gì lo âu?”.

Quế cười:

“Nghe tiếng đàn của Nhu, anh thấy em có cái gì khắc khoải. Phải chờ đến khi nào anh định dạng được chính xác xúc cảm thẩm mỹ âm nhạc của em thì mới có thể chỉnh âm”.

Nhu:

“Anh Quế như ma xó ấy... Nhưng em chưa chịu đâu nghe. Không phải khắc khoải mà chờ một lời hứa”.

Nói rồi Nhu cúi xuống chơi tiếp bản Phục sinh.

Như không muốn quấy rầy lúc Nhu đang chơi đàn, Quế xuống khu bếp, nói với má, anh đi có việc, buổi trưa sẽ quay lại ăn cơm với má và em Nhu. Nói rồi anh lặng lẽ xách chiếc túi bạt đựng đồ nghề đeo lên vai. Anh xua xua hai bàn tay, có ý nhắc má yên lặng cho Nhu đàn rồi bước ra cửa.

Nhu chơi hết bản nhạc, ngoảnh lại thì đã không thấy Quế. Cô hơi sững sờ vì muốn nói với Quế một ít chuyện nữa, nhưng chưa kịp nói anh đã lặng lẽ đi. Chỉ vài giờ gặp lại. Nhu cảm thấy không chỉ tin mà còn quý Quế hơn mọi khi.

Rồi lại đến một hôm, không hẹn trước, Nhu vừa ngồi vào đàn chưa hết chương hai bản Phục sinh, bỗng Quế hiện ra trước cửa.

Nhu reo lên:

“Ôi... Anh thiêng thế. Em vừa nghĩ đến anh thì anh có mặt”.

Quế thành thực:

“Sĩ quan, đêm không phải trực thì được về nhà. Anh chưa có nhà nên thuê tạm gian nhà trọ ở gần đây. Nghe tiếng đàn của em, anh không đành lòng không sang để lên lại dây”.

Quế bước tới gần cây đàn piano, hạ túi đồ, rồi ấn vài phím, lắng nghe.

Ngửng lên, Quế nói:

“Phải lên lại dây em ạ, nó chênh nhau đến nửa cung thế này thì không thể chơi được. Anh gõ lên phím để em cùng anh nghe lại nhé.

Nhu:

“Anh ở xa cả mấy dãy nhà mà vẫn phát hiện ra một quãng chênh, thực ra em biết, chỉ chênh nhau một cô-ma là cùng!”.

“Nghe mãi thì quen thôi em. Nào, em lấy nốt la làm âm chuẩn nhé”.

Nhu gõ nốt la. Quế lắng nghe, nói:

“Từ nốt la chuẩn, em thử quãng tám một, bên trái”.

Nhu đánh quãng tám một.

Quế chăm chú nghe, rồi nói:

“Em thử quãng tám một, bên phải”.

Nhu lại gõ lên phím đàn. Quế lắng nghe cho đến khi Nhu dừng thì tự tay mở nắp đàn, cầm dụng cụ đặt đúng vào trục cuốn sợi dây, vặn nhẹ. Vừa vặn, vừa ấn phím đàn để nghe âm thanh từ sợi dây vang ra.

“Có lẽ được rồi đấy” - Quế nói - “Từ si lên đô, chỉ chênh một phần hai cung. Em đàn thử xem”.

Nhu ngồi vào đàn. Quế lắng nghe một lát rồi soạn đồ, đeo túi lên vai:

“Anh yên tâm về được rồi... Chào Nhu”.

Nhu vội nắm lấy tay Quế:

“Hôm nay em không cho anh về. Vì sao anh biết không?”.

Quế:

“Nhu yên tâm, lúc nào cần lên dây lại cây đàn, anh đều có mặt”.

Nhu bỗng thấy mình mạnh dạn hẳn, dám nói cái điều mà đêm qua cô đã nghĩ:

“Em không nói về sửa đàn. Em nói điều khác, nói rằng từ hôm anh về nhà, em không thấy anh là người bị thương, không thấy anh có khiếm khuyết gì trên mặt. Em vẫn thấy anh như cái đêm nào, em hẹn chờ anh…”.

Quế đứng lặng, rồi nói:

“Nhu ạ, anh còn chuyện nữa phải thưa với má, rồi sau đó mới có thể trả lời em”.

“Vâng! Tùy anh”.

Hôm đó ông Bản, trước kia là nuôi quân của bếp trung đoàn ông Quang, bây giờ làm ở nhà bếp khách sạn Saigon Group đến chơi. Ông đến thăm má thì gặp Quế vừa lên dây đàn xong, đang sắp đồ để về.

Gặp Quế, ông Bản ôm chầm lấy anh, bảo:

“Tôi chờ gặp để mắng anh đây! Ngày anh bị thương, còn nằm chờ để đưa ra Bắc chữa vết thương, chính ông Quang, trung đoàn trưởng, trao việc cho tôi đến chăm sóc anh. Tôi bón cho anh từng thìa cháo. Vậy mà ra Bắc anh quên hết cả hay sao? Cả thủ trưởng Quang mất, anh cũng không có một nén nhang”.

“Em có tội, em xin lỗi bác, xin lỗi cả nhà. Có những chuyện chưa nói ra, thì em còn mắc nợ không thể vội đến với gia đình Nhu được”.

Ông Bản quát lên:

“Cậu là thằng lính tồi. Sao cậu lại phải tự làm khổ mình thế! Một thằng lính có công mà phải cúi đầu giấu mình là thảm họa về đạo đức đấy cậu ạ”.

Quế bước đến má:

“Thưa má, con còn điều này”…

Quế đưa tay vào túi áo ngực lấy ra chiếc nhẫn:

“Ngày đó, vì lo cho con bị thương, lỡ không may gặp bất trắc trên đường về đơn vị mà tay trắng, nên má ép cầm theo chiếc nhẫn. Làm trinh sát đâu có được đeo vàng, con phải giắt cái nhẫn quý này vào cạp quần mấy năm nay. Nay xin má cho con gửi lại”.

Bà Liên:

“Nhẫn hứa hôn của ông Quang hồi nào đó... Tôi đã tặng cậu, cậu giữ lấy. Bao giờ cậu tính chuyện gia đình với ai thì cậu trao cho người ta”.

Quế:

“Mặt mũi thế này, con đâu đám mơ trao nhẫn hứa hôn cho ai nữa. Xin má nhận lại cho”.

Ông Bản nắm lấy tay Nhu, đặt vào tay Quế:

“Bà Liên không nhận lại, thì cậu đeo nhẫn vào ngón tay cô Nhu ấy. Không nên tình thì nên nghĩa, phải không nào?”.

Lúc đó cả Quế và Nhu không dám trao nhẫn cho nhau. Nhưng sáu tháng sau, má nhắc, anh chị có về ở với nhau thì về đi, để trước khi về với ông Quang, tôi còn nhắm được mắt. Thế là Quế và Nhu làm đám cưới vội, các cụ bảo, cưới chạy tang. Một đám cưới không có ban nhạc quen thuộc của lối sống Sài Gòn thuở ấy, chỉ có cô dâu tự chơi đàn piano, chỉ một bản concerto Bốn mùa tươi vui của Antonio Vivaldi.

Anh chị về ăn ở với nhau, má vui, sống được hơn năm nữa, mới đi.

3. Quế đi công tác chừng nửa tháng mới về, thấy trên cánh cửa gian nhà tập thể gài một mảnh giấy, Nhu viết:

“Gọi hai lần mà không thấy anh bắt máy. Sợ anh bận việc gì gấp, em để lại thư này. Anh Hàm đã về rồi, mong gặp anh. Hôm nay em đưa anh Hàm sang thăm chị Tư và viếng mồ ba má. Anh về thì xuống nhà cũ để anh em gặp nhau. Em có hẹn với cả ông Bản nữa, để chiều nấu bữa cơm sum họp”.

Từ ngày cưới Nhu, chỉ đôi lần, tiện Nhu nhắn tin, thì Quế nhờ vợ gửi thêm một lời hỏi thăm anh Hàm, chứ hai người chưa gặp nhau, và cũng chưa nói chuyện điện thoại với nhau.

Quế về đến nhà, thì đã thấy ông Bản và Hàm đang ngồi với nhau.

Quế cất tiếng từ cửa:

“Em chào cả nhà”.

Ông Bản:

“Cả nhà đang đợi cậu đây. Thế là nhà ta đủ mặt”.

Quế bước đến chỗ Hàm ngồi:

“Anh Hàm đấy à? Xin anh đứng lên, bước lại gần em, được không?”.

“Ý cậu là…”.

Quế:

“Em là Quế, người mà anh từng tha, không bắn khi gặp em trong nhà má đêm nào”.

Hàm:

“Tôi nhớ ra rồi. Chuyện cũ nhắc lại làm gì nữa”.

Quế:

“Anh bước lại gần nữa để em nắn vai anh một lần...”.

“Tôi không hiểu cậu định gì”.

“Cứ để mặc em. Có bác Bản ở đây, bác chứng kiến nhé”.

Quế nắm lấy vai trái của Hàm bóp bóp. Xong, anh buông tay, nhìn thẳng mặt Hàm:

“Là em đây. Một bên vai của anh bị tật là do em đã bắn ở đầu cầu Cây Bông cái đêm hôm nào”.

“À… Thì ra cậu bắn. Lâu nay tôi vẫn nghĩ, tôi đã may mắn ở phút chót cuộc chiến, tôi đối mặt với một người lính điểm xạ tồi, nên còn sống…”.

Quế quay sang ông Bản:

“Đúng thế, bác Bản ạ. Ở phút cuối của cuộc chiến, em lại là người lính bắn tồi”.

Quế quay sang Hàm:

“Lúc đó em nhớ, em và anh chỉ còn cách nhau chừng mười mét. Phía Quân giải phóng dương lê để chuẩn bị đánh giáp lá cà như một trận đánh trong cổ điển nếu bên tử thủ chống đối. Nhưng quân bên tử thủ do bị ép sát, súng đặt vào lưng rồi, có phản ứng lại cũng không kịp, nên chỉ còn giơ tay hàng. Riêng anh thì không. Anh bỗng bắn về phía em đứng. Trong ánh sáng của lửa đạn, em chợt nhận ra anh là con của ân nhân vừa cứu mạng em. Chỉ một thoáng, chỉ tích tắc, em bỗng xiêu lòng, đổi ý, quyết định để con của ân nhân sống, nên đã kìm lòng chỉ định bắn sượt qua vai anh. Không ngờ viên đạn đã đi hơi thấp nên để lại vết thương nặng…”.

Hàm:

“Thì ra là vậy. Cậu đã nhân nhượng anh mà trước đó anh đã bắn cậu”.

Ông Bản hướng về phía Quế:

“Thôi, vậy là xí xóa chuyện xưa. Nói ra được với nhau là hòa giải chứ còn thù hận gì nữa. Bây giờ cô Nhu đang đợi ngoài xe, để đưa anh Hàm đi thăm cô Tư. Cố gắng hàn gắn anh Hàm nhé. Đi thăm xong rồi, kéo cả cô Tư về nhà, tôi nấu phục vụ các vị một bữa tối đặc sản Sài Gòn. Lâu nay tôi thấy cô Tư cũng khổ lắm, vật vã nuôi con”.