Đêm hai mươi bảy rạng ngày hai mươi tám tháng Tư với Hàm, là đêm rồ dại.
Pháo nổ ở ngoại ô làm rung cả thành phố, không ai, kể cả dân thường, không nói đến binh lính là yên ngủ. Quân giải phóng mở cuộc tiến công lớn sau mấy ngày dừng nghỉ đánh thắng Xuân Lộc.
Hàm gọi điện qua máy đặc chủng Motorola cho Việt:
“Ông rỗi thì đến bờ sông uống với nhau vài chai”.
Việt thông báo:
“Cả đường thủy, đường bộ nối Sài Gòn với Cần Thơ và các tỉnh miền Tây nói chung bị họ cắt cả rồi, không còn liên lạc được. Như vậy là kế hoạch đưa bộ tổng và binh lính vào miền Tây để thực hiện kế hoạch Gavin bị xóa. Thêm một phương án cứu nguy cho quân đội Sài Gòn vứt vào sọt rác. Không còn đường rút về miền Tây nữa. Ông tính đường sống cho cho ông đi, đừng để muộn quá, nước đến chân không nhảy kịp”.
“Còn ông?” - Hàm hỏi lại.
Việt nói:
“Mình vẫn nhớ lời tay chính trị viên đại đội hai ta gặp bữa nào”.
Hàm ngoài khẩu súng ngắn, anh tự trang bị thêm cho mình khẩu AR-15 và khẩu M-79 với hai băng đạn vàng chóe cuốn quanh thắt lưng. Anh đi quanh trận địa, thấy lính ngồi ỉu xìu trong giao thông hào, cho gọi đội trưởng tiếp vụ đến, bảo:
“Đêm nay, cho các em chơi thoải mái. Ai muốn gì được nấy. Ta sống đêm cuối của thằng lính biệt động”.
Được lời trung tá đại đội trưởng, lính nhảy lên reo hò và nhanh chóng lo cuộc chơi tới bến. Hai cậu tiếp vụ cầm hai quả lựu đạn vào gõ cửa nhà hàng bán bia, rồi đặt lựu đạn xuống bàn ông chủ, cười hề hề:
“Lính tráng lúc này chả có gì, đành phải lấy thứ này ra cược vài thùng bia… Xin ông giữ hai quả nổ làm tin”.
Ông chủ không lấy hai quả lựu đạn, xin cho bia, muốn vác bao nhiêu thùng thì vác, nhưng phải cầm lựu đạn đi.
Uống xong một chầu bia, hai cậu tiếp vụ lại sục vào phố. Lát sau, hai cậu dẫn được bốn cô gái ăn mặc te tua về giao thông hào.
Lính như chợ vỡ:
“Mời mấy em, nhậu tới bến”.
Lính tiếp vụ bảo:
“Cả bốn em, mấy hôm nay không có khách, bị đói. Thằng nào có mì tôm hoặc lương khô cho các em ăn rồi mới có sức phục vụ…”.
Trong lúc bốn cô gái ăn mì tôm thì lính nhanh trí, kéo một mảnh bạt che ngang giao thông hào, ngăn bên này ngồi nhậu với bên kia, ai muốn gì với các em thì cứ việc. Trong giao thông hào, trừ mấy cậu đang gác, còn chín chàng, lại chỉ có bốn gái, nên phải oẳn tù tì xem ai trước, ai sau. Oẳn tù tì xong, năm chàng ngồi chờ đến lượt sốt ruột quá, bàn nhau, phải xem bọn nó xay lúa giã gạo mới sướng. Thế là, tấm bạt che bị rút bỏ. Giao thông hào trở thành nơi làm tình tập thể của bốn cô với chín chàng lính, có chàng bao đạn sẵn sàng chiến đấu vẫn đeo quanh thắt lưng.
Cuộc ăn chơi đàng điếm của lính đang phút cao trào bỗng sững cả lại vì tiếng súng bắn ngang tai. Sau phát súng bắn chỉ thiên, thiếu úy, đại đội phó Khung đứng trên bờ hào, hét:
“Ai cho anh em làm trò bậy bạ ở trận địa tử thủ như thế này! Giải tán ngay”.
Anh lính vội kéo quần lên bụng, nói:
“Thưa, trung tá đại đội trưởng cho phép, anh em xả một đêm để mai đánh nhau chết thôi”.
Giọng Khung vẫn đanh thép:
“Ai cố tình làm trái điều lệnh kỷ luật quân đội, tao sẽ bắn”.
Cuộc xả láng của lính dừng lại. Đại đội phó Khung đến nơi đặt sở chỉ huy đại đội, nhưng Hàm vắng mặt. Cậu cần vụ nói lại với đại đội phó, trung tá có việc về qua nhà.
Ở nhà, đêm ấy với Nhu là đêm định mệnh.
Cô không chờ đợi một đêm như thế.
Buổi sáng, cửa các căn phòng của nhạc viện đóng kín, chỉ có dòng thông báo ngắn gọn: “Dừng hoạt động”. Rời khỏi cửa nhạc viện, Nhu đi vòng qua một vài phố mua gạo, đồ ăn dự trữ phòng xa những ngày náo loạn kéo dài, chợ và hàng quán đóng cửa. Tuy nhiên cô không mua được gì vì cả thành phố giờ này, ai còn quan tâm đến cái ăn. Họ chỉ túm tụm bàn tán và nghe ngóng, Cộng quân đã tiến đến đâu, quân chính phủ và sứ quán Mỹ đang làm gì, bao giờ di tản hết. Người người nhìn nhau dò xét, xem ai thuộc phe nào. Dân thành phố bao nhiêu năm sống với nhau chẳng bao giờ nhìn nhau cách biệt vì phe phái như bây giờ chia phe giữa thân Cộng sản và thân chính quyền Sài Gòn. Thực ra việc chạy di tản đã diễn ra cả gần tháng nay rồi, ngay sau khi Huế và Đà Nẵng thất thủ. Nhưng mấy ngày nay, Xuân Lộc thất thủ, thì việc chạy di tản rầm rộ hơn. Cũng không ít người thuộc phái thứ ba, mặc xác, may cờ vàng sẵn sàng đứng về phe liên hiệp.
Nhu trở về không thấy má ở nhà. Mấy bữa nay, má thường ra bờ sông, cũng có khi lên thuyền của ai đó sang bờ bên kia. Má có việc gì thì Nhu không biết, nhưng lần nào từ sông về nhà, má cũng tư lự hơn, như đang chờ đợi điều gì. Nhu ngồi chờ, mãi đến khi má về, Nhu mới ngồi vào đàn.
Đêm định mệnh bắt đầu từ khi Nhu đang đàn concerto Bốn mùa thì bỗng tiếng loa của lính như chĩa thẳng vào nơi cô ngồi, thông báo có quân Cộng xâm nhập thành phố, cô bác hợp lực cùng anh em binh sĩ truy lùng, không cho Cộng sản ẩn nấp. Nhu đứng dậy đóng tất cả các cánh cửa sổ để giảm tiếng ồn, rồi ngồi đàn tiếp. Chưa kịp gõ ngón tay lên hàng phím, cô nghe tiếng gõ cửa nhè nhẹ. Có lẽ anh Hàm về, Nhu đoán vậy, bởi từ ngày đơn vị biệt động về đóng ở cầu Cây Bông, anh thường đột ngột qua nhà. Lần nào về anh cũng vội, gõ cửa dồn dập, khẩn thiết. Có lần về vội, anh chỉ hỏi lại má một câu:
“Má bệnh gì mà lúc nào cũng như người mất hồn?”.
Má cười mếu máo, bảo:
“Anh bỏ ngũ về với nhà, thì má khỏi bệnh”.
Anh không nói gì, vội quay mặt đi.
Tiếng gõ cửa vẫn nhè nhẹ. Nhu định mở cửa lại thôi. Ai đó, chứ không phải anh Hàm. Anh Hàm không bao giờ gõ cửa như vậy. Ai gõ cửa vào giờ này? Tiếng gõ kiên trì bên ngoài làm Nhu băn khoăn. Hay là bà con dưới quê lên thành phố gặp cơn lửa đạn đã tìm đến nhà người quen tá túc? Nếu vậy thì phải đón người gặp hoạn nạn vào nhà.
Nhu bước ra cửa mở chốt khóa trong, hé cửa. Cô sững lại, kinh ngạc. Trên bệ cửa một người đậm sức, đầu cuốn băng, chỉ còn hở đôi mắt nằm vắt cả lên ba bậc tam cấp. Người băng đầu ngửng mặt lên, nhìn thấy trước mặt là cô gái mảnh mai trong bộ đồ ngủ nên ngần ngại:
“Xin lỗi… Tôi làm phiền...”.
Anh định quay lui. Nhưng ngay lúc đó một loạt súng rát rạt nổ sau lưng và tiếng hô hoán cùng tiếng chân chạy đuổi.
Nhu cúi thấp người, hỏi:
“Anh là… bị nạn?”.
Người băng đầu nói:
“Hoàn cảnh này, chẳng giấu gì cô, tôi là Giải phóng. Nếu không phiền, cô cho tôi lánh tạm vì đang bị truy đuổi”.
Nhu đã gặp anh trong hoàn cảnh bất thường như vậy. Mãi sau này đêm nằm bên chồng, Nhu hỏi anh:
“Sao anh lại đến với em vào lúc chả ai có thì giờ để yêu nhau?”.
Anh bảo:
“Số trời định”.
Trời định hay người định Nhu cũng không biết nữa. Nhu chỉ nhớ lúc bấy giờ ngoài cửa ồn ã tiếng súng, tiếng loa kêu gọi Cộng quân ra hàng. Trước đó Nhu tắt đèn thắp nến như nhà đã đi ngủ để mọi người đỡ làm phiền. Cô thích đàn trong ánh sáng nến hư ảo, không gắt gao như ánh đèn. Ánh sáng của ngọn nến, chỉ thấy trên lầu một tấm lưng màu áo bàng bạc của má, và dưới nhà ánh sáng nến vừa đủ soi một phần của gương mặt trái xoan, có sống mũi cao, tóc buông ngang vai của Nhu. Và ánh sáng nến soi lên gương mặt anh, cô chợt nhận ra, đó là gương mặt của một người cương nghị và thuần phác. Có phải vì thế cô đã mở cửa?
Nằm bên chồng, Nhu lại hỏi anh:
“Sao anh lại gõ cửa nhà em vào cái đêm bị truy đuổi ấy?”.
Anh bảo:
“Vì anh nghe thấy tiếng đàn”.
“Tiếng đàn của em?”.
“Đúng thế. Tiếng đàn”.
“Sao lại là tiếng đàn?”.
“Vì nghe thấy tiếng đàn, anh chợt nghĩ, người đang chơi tác phẩm âm nhạc cổ điển bất hủ này hẳn phải là người có tấm lòng nhân ái và cao thượng, thương người”.
“Vậy mà anh vừa nói xin cứu giúp, sao vừa thấy em anh lại thay đổi ý định quay ra, mặc phía sau có người đang truy đuổi?”.
Anh cười bảo:
“Anh sợ em”.
“Không, không phải. Không phải anh sợ em. Anh nói thật đi”.
Mãi lâu anh mới nói:
“Lúc bấy giờ, nhìn vào nhà, chỉ thấy có một người là em, lại đang mặc đồ ngủ, nên anh ngại”.
Nhu cắn lên vai chồng:
“Nhát gái vậy mà dám yêu em!”.
Anh cười bảo:
“Anh nói rồi, trời định”.
Đêm ấy dìu anh vào nhà, cô đã làm gì?
Cô không làm gì, và cũng chẳng biết phải làm gì. Má từ lầu một xuống. Tưởng má bất ngờ vì chàng trai Nhu dẫn vào nhà, mà không, má dường như đã hiểu mọi chuyện, không hề ngạc nhiên. Má giục Nhu đàn tiếp để không gây điều gì bất thường. Nhu nghe má ngồi đàn Bốn mùa như hồi hôm. Phía sau lưng Nhu, má băng bó lại vết thương trên trán cho anh bộ đội Giải phóng. Nhu nghe loáng thoáng lời má, bảo anh lên lầu, vào phòng của bà, vì ở đó an toàn, không ai bước đến, kể cả Hàm khi về nhà. Tuy nhiên anh Giải phóng chỉ xin ngồi lại ở tầng trệt, bảo:
“Thưa bà, tôi phiền bà và cô một chút nữa, tôi xin phép đi”.
Anh nói điềm tĩnh và nhẹ nhàng.
Má lấy cho anh ly nước, rồi kéo tấm ri đô, che anh ngăn cách nơi Nhu ngồi đàn, rồi lên lầu.
Nhu đàn đi đàn lại bản concerto Bốn mùa, cho đến lúc dừng lại, cô thấy anh chiến sĩ đứng sau lưng cô từ lúc nào rồi. Sợ Nhu hiểu lầm, anh vội nói:
“Xin cô mở cửa sổ để tôi nhìn ra ngoài có được không?”.
Nhu mở hé một cánh cửa sổ. Bên kia cửa sổ là một vùng trời sao lấp lánh. Anh chiến sĩ nhô người quan sát sát bên ngoài. Đường phố đã có vẻ yên tĩnh.
Nhu nhắc:
“Nhìn lẹ nghe anh”.
Anh khép cửa, ngồi lại chỗ cũ. Vừa lúc đó, bên ngoài cửa sổ bỗng có tốp lính chạy qua, vừa chạy vừa bắn từng loạt súng ra phía bờ sông, rồi lớn tiếng:
“Việt cộng ra hàng ngay, quốc gia khoan hồng tha tội chết”.
Nghe tiếng chân lính đã đi xa, anh chiến sĩ đến bên Nhu:
“Thưa cô, ngoài đường phố lính canh phòng chỉ hò hét đe nẹt, bắn hú họa vậy thôi, chứ không phát hiện ra mục tiêu cụ thể nào. Tôi đã có thể đi được rồi”.
Nhu nhìn những vòng băng trên trán anh:
“Vừa băng vết thương xong, anh đi sao được”.
Vừa lúc đó má từ trên lầu bước xuống:
“Đã mở giúp cậu, mà để cậu đi như thế này, má con tôi không đành lòng...”.
Nhu nói theo má:
“Má tôi nói phải đó, anh nên ở lại…”.
Anh chiến sĩ ngoảnh về phía Nhu:
“Bị truy đuổi, tôi không những được bà và cô cứu giúp, lại còn được nghe concerto Bốn mùa của Antonio Vivaldi rất hay... Tôi thấy vô cùng may mắn, không thể làm phiền gia đình thêm nữa... Vả lại, cả đơn vị đang chờ tôi trở về...”.
Nhu nhìn anh chiến sĩ Giải phóng:
“Anh cũng biết bản nhạc này?”.
Anh cười:
“Ngày còn nhỏ, chưa đi Giải phóng, tôi có học nhạc ở Nhà văn hóa thiếu niên, được thầy dạy bản nhạc này. Nhưng tôi chơi tồi lắm. Nghe cô đàn tôi nhớ thành phố, nhớ bạn bè, nhớ gia đình… Tôi cám ơn cô đã cho tôi nhớ lại. Xin phép cô và bà, tôi đi. Cô và bà yên tâm, nhất định tôi sẽ trở về đơn vị trong đêm nay”.
Anh Giải phóng vừa bước đi vài bước, má lại giữ lại:
“Cậu dừng lại đã...”.
Anh Giải phóng dừng bước.
Má nắm lấy tay anh:
“Tôi xin cậu đừng đi vội mà ở lại, mở lòng giúp cho một việc... Xin cậu. Nhà tôi có việc phải nhờ đến cậu”.
Anh Giải phóng:
“Thưa bà, tôi giúp được việc gì ạ...”.
Má chưa kịp nói thì có tiếng gõ cửa.
Má hỏi:
“Ai?”.
Tiếng từ bên ngoài vọng vào:
“Việc gấp. Mở lẹ cho con, má...”.
Lúc đó Nhu hoảng sợ thật sự. Nhu đã lo từ trước rằng anh Hàm đột ngột về, và mọi chuyện vỡ lở. Tuy nhiên má ngược lại, không hề mất bình tĩnh. Má đẩy anh chiến sĩ vào sau tấm ri đô, ra hiệu cho Nhu ngồi vào đàn, cất tiếng:
“Chờ má”.
Má mở cửa trong khi ở phía sau má, Nhu gõ lên các phím đàn như không có chuyện gì xảy ra.
Cửa mở.
Trước cửa là Hàm mặc quân phục trung tá biệt động, khoác áo giáp, súng đeo trễ bên hông, ôm một ôm bao bố.
Hàm ném bao bố xuống nền nhà.
“Má ạ, con nghĩ ba cái va-li không chứa hết đồ của nhà này, nên đem về thêm mấy chiếc bao bố. Kế hoạch về Cần Thơ của con thay đổi. Má với em Nhu thu dọn đồ, con sẽ cho xe đến đón đi di tản trước. Gia đình sĩ quan biệt động được ưu tiên”.
“Còn con?”.
Hàm nói nhẹ nhàng với má:
“Con có việc, phải đi sau. Chiến hữu của con sẽ lo chu đáo cho má và em Nhu”.
Bà Liên:
“Hàm, má nghe tin Giải phóng sắp vô thành phố. Má chỉ có mình con là trai. Má muốn con ở nhà với má. Nhà ta còn chuyện lớn lao nữa, má sẽ nói với con sau. Con ở nhà với má. Có con bên cạnh là má có tất cả”.
“Việt cộng vô thành phố thì sĩ quan biệt động tử thủ như con, chúng tắm máu. Má cứ đi trước đi. Con biết tránh để không phải tắm máu”.
“Ai bảo con Việt cộng sẽ tắm máu binh sĩ Sài Gòn? Má có người bảo lãnh, con có ở nhà với má không?”.
Hàm hỏi:
“Ai? Má đã tìm ai bảo lãnh cho con?”.
Bà Liên kéo mạnh tấm ri đô.
Hàm sững người vì bên trong tấm ri đô là một người mặc bộ đồ Giải phóng, đầu cuốn băng trắng. Người ấy đứng vụt dậy, cử chỉ không hề sợ hãi, gật đầu chào Hàm.
Hàm lạnh lùng chĩa súng vào đầu anh chiến sĩ. Nhu vội chạy đến, đứng chắn trước đầu súng của anh trai.
Giọng Nhu cứng rắn lạ thường:
“Không. Anh không được bắn người này. Đây là bạn của em”.
Hàm gạt mạnh Nhu sang một bên, nhìn thẳng mặt anh chiến sĩ:
“Ra đây là người lính quốc gia chúng tôi đang truy lùng... Vì sao vào đây?”.
Anh Giải phóng nhìn Nhu, nói:
“Vì tôi nghe thấy tiếng đàn!”.
Hàm đay lại một cách giễu nhại:
“Vì tiếng đàn?”.
“Vâng, đúng vậy... Một người có trái tim trong trắng và nhân ái thế nào mới làm vang lên tiếng đàn như tôi vừa được nghe”.
Hàm bước một bước đến sát mặt anh Giải phóng:
“Anh từ Bắc vô, rúc vô đây để nghe đàn? Và bây giờ, để tránh khỏi cái chết, anh định bảo lãnh cho một sĩ quan biệt động?”.
“Không. Tôi không bảo lãnh cho ai cả. Cách mạng sẽ không giết khi đối phương dù là sắc lính nào đã thất trận đầu hàng”.
Nghe anh Giải phóng nói, Hàm ghé sát mặt vào mặt anh:
“Tao căm thù Cộng sản. Tao máu lửa với Cộng sản nhiều năm nay để bảo vệ thế giới tự do. Tao và Cộng sản chỉ có sống hoặc chết. Cộng sản nợ tao một cái chết của ba tao. Quỳ xuống!”.
Bà Liên đến bên Hàm:
“Hàm, cứu một người phúc đẳng hà sa con ạ”.
Hàm nắm lấy tay má:
“Má nghĩ lúc này, Việt cộng bắt được con thì họ cứu ư? Chiến tranh hoặc con chết, hoặc người này chết, không có lựa chọn khác. Hàng chục năm nay con và họ nói chuyện với nhau bằng súng. Con cũng đã liều lĩnh đến gặp một người Cộng sản ở căn cứ của họ. Nghe họ nói những điều tốt đẹp. Nhưng con không tin. Cũng như không tin cái thằng trước mặt con, nó nói, đến nấp ở nhà này vì tiếng đàn. Không, nó khôn ngoan chọn chỗ nấp là nhà một sĩ quan biệt động để tránh con mắt dòm ngó. May mắn con đột ngột về, bắt quả tang”.
Bà Liên:
“Nhưng đây là nhà riêng của má… không phải trận địa của anh!”.
Hàm:
“Ở đâu có Việt cộng thì ở đó là trận địa, má ạ”.
Bà Liên vẫn nhẫn nại:
“Má xin con. Má chỉ một lần ngửa tay xin mà con không nghe lời sao?”.
Hàm đứng lặng hồi lâu, rồi cài khẩu colt vào bao đeo bên sườn:
“Con nhường má lần này... Với lại con không muốn có máu trong ngôi nhà của má con mình”.
Hàm quay sang nhìn anh Giải phóng. Một gương mặt hao hao giống anh chính trị viên mà Hàm và Việt đã gặp và nói chuyện trong căn cứ của họ. Anh ta đã không nghĩ đến việc giết anh, mà chia tay còn hẹn gặp lại. Thả anh Giải phóng này, cũng coi như anh trả cái ân huệ ấy.
Hàm nói:
“Anh ra khỏi nhà trước khi tôi đổi ý”.
Hàm bước đến trước má:
“Má dọn đồ để con cho xe về đón”. - Nói rồi, Hàm vội ra cửa.
Anh Giải phóng định bước ngay ra cửa, nhưng Nhu ngăn lại:
“Anh đừng đi. Ngoài đường bây giờ là các họng súng chờ anh”.
Anh Giải phóng:
“Không sao đâu. Tôi tin Hàm là một người lính thực thụ. Dù ở tuyến nào thì người lính thực thụ đều tôn trọng lời hứa. Tôi đi, nhất định tôi sẽ trở lại tìm em và má. Tên anh là Quế, Thanh Quế. Cho anh nắm tay Út nào”.
Nhu hơi sững lại vì Quế đột ngột thay đổi cách xưng hô, không tôi với Nhu mà xưng anh, không gọi má là bà mà gọi là má một cách thân mật.
Quế nắm tay Nhu:
“Một bàn tay mềm mại của nghệ sĩ mà dám dang ra chặn họng súng vì một chiến sĩ Giải phóng gặp bất chợt. Anh làm sao quên được. Cám ơn em!”.
Nhu cảm động:
“Út phải cám ơn anh mới đúng. Vì có anh dù chỉ trong phút chốc Út hiểu má, hiểu anh Giải phóng ... Út chờ anh trở về...”.
Anh Giải phóng bất ngờ ôm lấy cả hai vai Nhu:
“Anh sẽ trở về. Em đợi anh nhé”.
“Vâng, lửa đạn em cũng đợi”.
Như tự thấy mình nói hơi quá, hứa hẹn với một người bất chợt gặp. Nhưng Nhu lại tự nói với mình, sao anh Giải phóng bất chợt gặp dù chỉ mới nói với nhau vài lời, nhưng do cử chỉ đàng hoàng và thân thiện, cô đã tin anh.
Anh chiến sĩ Giải phóng vừa quay người bước đi thì bà Liên gọi giật lại:
“Cậu nhất quyết đi thì chờ tôi một chút”.
Bà Liên rút chiếc nhẫn đang đeo ở ngón tay, đến trước mặt anh Giải phóng:
“Má con tôi ở nhà thế nào cũng xong. Cậu bị thương, lại ra đường giữa lúc hỗn loạn thế này... Cậu cầm lấy chiếc nhẫn phòng khi bất trắc”.
Anh Giải phóng làm cử chỉ từ chối, nói:
“Con được má và em Nhu che chở thế này đã là cái ơn lớn rồi. Chỉ đêm nay, cùng lắm là đêm mai là con về tới đơn vị. Má và em Nhu khỏi lo”.
Nhu mạnh dạn nắm bàn tay anh Giải phóng:
“Anh không nhận quà của má, Út không mở cửa cho anh đi”.
Anh Giải phóng nhìn Nhu:
“Xin em đừng làm khó anh”.
Nhu:
“Anh nhận chiếc nhẫn của má, Út mới tin anh thật lòng và lời anh hẹn ngày quay trở lại”.
Anh Giải phóng:
“Vậy anh xin má và Út”.
Quế đeo nhẫn vào ngón tay, bước nhanh ra cửa. Nhu đứng ngóng theo cho đến khi bóng Quế rẽ vào ngõ vắng.