1. Vừa ra khỏi phòng, Hàm thấy một người mặc thường phục đứng đón. Ai nhỉ, gặp anh có việc gì? Khi bước lại gần nhau, Hàm mới kêu lên:
“Việt phải không? Ông sợ mặc quân phục rồi à?”.
Việt bảo:
“Bây giờ mặc thường phục đi ngoài đường phố an toàn hơn. Tôi biết ông mới về thành phố, lại được thăng quan, nên tìm để chúc mừng”.
Việt là nhà báo, từng học nghề ở Mỹ, về nước đầu quân cho tờ Tiền tuyến của quân đội để thỏa mãn đi đến các chiến trường. Hai người quen nhau từ ngày cùng học ở trung tâm Dục Mỹ - nơi đào tạo sĩ quan biệt động. Việt học bổ túc qua loa mấy tháng ở đó để được chuyển sang ngạch sĩ quan. Làm cho Tiền tuyến, nhưng Việt lại ít viết bài cho tờ báo sặc mùi công tác tuyên truyền của tổng cục chiến tranh chính trị mà viết cho Việt tấn xã và một số cơ quan thông tấn nước ngoài có đại diện ở Sài Gòn. Là người của báo quân đội, Việt đi nhiều, biết nhiều, có quan hệ rộng với nhiều cấp chỉ huy. Việt ít đến các đơn vị biệt động quân, nên hai người thường chỉ gặp nhau trong những dịp Hàm về Sài Gòn, gọi nhau ngồi ở một quán nào đó. Ít gặp, nhưng Việt và Hàm có nhiều đồng cảm, quý mến nhau mặc dù chẳng giúp nhau được việc gì.
Gặp Hàm, Việt nói ngay:
“Đến lúc này mà người ta còn phong hàm vượt cấp cho ông, để làm gì?”.
Hàm cười:
“Chắc là người ta cổ vũ tôi tử thủ đến viên đạn cuối cùng? Hoặc là cấp trên chẳng có việc gì mà làm, nên nghĩ ra phong hàm cho cấp dưới mua vui”.
“Rồi anh sẽ dùng nốt viên đạn danh dự của khẩu Colt vừa được nhận nữa chứ?”.
Nghe Việt nói, Hàm nghĩ, không hiểu sao Việt cũng đã biết chuyện này.
“Không” - Hàm nói chắc chắn - “Có thể tôi bắn viên đạn đó lên trời. Tôi không dùng nó cho bản thân mình. Danh dự không có nghĩa là phải chết. Với lại đánh nhau nhiều trận rồi, tôi biết, sống mới khó, chứ chết thì chỉ bòm một phát, khó gì”.
Họ cùng bước vào quán. Như mọi khi, Hàm gọi hai chai la-de nhâm nhi với mực một nắng.
Việt nâng cốc:
“Tất nhiên không phải chúc ông được gắn hai sao rồi”.
Hàm hỏi:
“Vậy chúc gì đây?”.
Việt chạm cốc:
“Chúc còn có cuộc gặp lần sau”.
“Đó không phải cách nói ủy mị của thằng sĩ quan làm báo lão luyện như ông” - Hàm nói - “Hôm nay đã là ngày hai tư tháng tư. Chắc gì cuộc chiến kéo dài đến hết tháng mới ngã ngũ. Tuy nhiên, cuộc chiến kết thúc mà chúng ta vẫn còn sống. Tôi tin như thế”.
Việt lại cụng bia:
“Tôi nói, không phải xem thường ông và cả cái tiểu đoàn biệt động khét tiếng của ông. Không chỉ một vài trận địa tử thủ của các ông, mà cả ngàn trận địa tử thủ cũng không giữ được Sài Gòn vài ngày nữa. Vì sao, vì lực lượng và tinh thần của các ông và họ không còn tương xứng. Họ có cả hàng chục binh đoàn với đủ loại vũ khí và tinh thần đang hào sảng. Còn các ông là đội quân chắp vá và nhiều tướng lĩnh đã bỏ cuộc vì tin rằng trước sau rồi cũng thua. Tôi nghe nói ở cơ quan bộ tham mưu, chỉ còn mỗi đại tá Phạm Bá Hoa là quanh quẩn với công việc, còn tướng lĩnh và các sĩ quan chuyên môn biến cả rồi. Chả lẽ lại bỏ trống bộ tham mưu nên người ta phải vội điều động trung tướng Vĩnh Lộc lên tổng tham mưu trưởng. Tướng lĩnh và cơ quan điều khiển cuộc chiến như thế, còn lính tráng, đánh nhau thế nào?”.
“Nghĩa là ông xui tôi đầu hàng, hoặc tháo chạy?” - Hàm nói.
“Đó không phải tính cách của ông. Ông từng nói với tôi, nếu tình thế buộc phải chạy thì ông phải bắn một loạt đạn về phía đối phương, rồi có chạy mới chạy”.
“Cám ơn ông đã hiểu tôi”.
Việt nói:
“Thôi, chuyện thắng thua để lại đó. Tôi tìm gặp ông để nhờ một việc, ông bằng tài năng của sĩ quan biệt động quân, lại đang đứng chân ở đầu cầu bên kia, ông liên hệ làm sao để tôi gặp được một cán binh cộng sản thì thật tốt”.
“Gặp họ để làm gì?” - Hàm hỏi.
“Lâu nay tôi biết về họ qua những bài báo của Wilfred Burchett, nằm trong vùng chiếm đóng của giải phóng. Tôi muốn gặp trực tiếp họ, chứ không chỉ nghe qua người khác. Không có gì hiểu người bằng nhìn vào mắt nhau”.
“Để làm gì?”.
“Hiểu họ để quyết định cho số phận của mình”.
“Tôi không dám hứa có thể tổ chức để ông gặp được người phía bên kia. Tình hình bây giờ rất lộn xộn. Nhưng tôi sẽ cố gắng. Trước hết tôi với ông sang trận địa của tôi ở đầu cầu bên kia. Bên ấy có xóm nhà dân, có thể qua họ để tìm kiếm cuộc gặp đối phương. Tôi và cả ông đều biết rằng, bên kia cầu là vùng đất rộng, hướng phía tây kéo lên tận Thủ Dầu Một, phía đông, qua sông Đồng Nai là Biên Hòa. Vùng đất ven hai con sông lớn này, thường ban ngày thì ta làm chủ, còn ban đêm là của họ. Họ vẫn ở đó mấy chục năm nay, giống như Củ Chi, ta không làm chủ được. Ở bên kia, đương nhiên là có họ, tôi không biết, anh không biết, lính không biết, nhưng dân thì biết”.
Hai người rời khỏi quán bước xuống chiếc ca nô máy sơn màu trắng. Họ không đi lại trên cầu ban ngày mà dùng ca nô cho an toàn. Hàm cầm lái, kéo lút ga, chiếc hors-bord như bay trên mặt nước, phóng qua cả những cụm bèo trôi sông, hướng về bờ bên kia.
Hàm nói với Việt:
“Moa muốn có một ngày lái chiếc hors-bord ngược lên Thủ Dầu Một đến thăm một cha xứ hết sức thông tuệ và nhân từ. Cha từng nói với tôi, nếu ông không theo binh nghiệp, xin ông cứ đến nhà thờ của chúng tôi. Ông không có thời gian để làm cha nữa, vì để trở thành cha phải tu luyện từ bé. Ông về nhà thờ để làm người hành thiện theo ý Chúa”.
“Hay nhỉ” - Việt nói - “Nhưng có lẽ chúng ta không còn thời gian để thăm nhà thờ nữa đâu. Tính toán việc gì bây giờ cũng đã muộn”.
Ném dây buộc xuồng cho cậu lính, Hàm không dẫn Việt vào nơi tổ chức trận địa tử thủ, mà kéo theo ba anh lính cầm súng đi bảo vệ, rồi tiến thẳng vào ấp Xoài Hai ở sau khu rừng hỗn giao giữa tre trúc và cây gỗ tạp. Cái ấp đầu cầu vừa giống làng, vừa giống phố, vì có con đường nhựa chạy giữa, nhà dân làm hai bên, hơi lùi vào sâu trong các khu vườn trồng nhiều loại cây có trái như xoài, chôm chôm, dừa và đào lộn hột. Ấp nhỏ và đời sống dân chúng có vẻ khá giả vì nhà cửa khang trang và trẻ con ăn mặc tươm tất.
Ông ấp trưởng mắt trãu, cổ ngoẵng, gầy tong teo, như đúng là ông sinh ra để làm cái việc không ai muốn làm là trưởng ấp ở cái nơi ngày địch, đêm ta, phía nào cũng có thể hạch sách, sẵn sàng lấy đầu nếu ông quá nghiêng về bên nào trong hai phía. Ông gần như kinh ngạc khi nhìn thấy hai người khách lạ một là trung tá, một thường dân lại có lính bảo vệ, đứng trước cổng.
Viên ấp trưởng cúi thấp lưng:
“Dạ, trình hai ông, hai ông có công vụ gì ở ấp, tôi xin được hết lòng phụng sự”.
Việt nói:
“Ông đừng sợ gì cả. Chúng tôi đến không kiếm chuyện để hạch tội ông. Chúng tôi chỉ đến nhờ ông một việc…”.
“Dạ, xin hai ông cứ nói”.
“Chắc ông đã nghe tin Quân giải phóng vẫn thường hoạt động trong các thôn ấp bên bờ sông rồi chứ”.
Ấp trưởng lắc đầu:
“Trình hai ông, tôi không nghe thấy gì. Cộng sản mới về đến Xuân Lộc, đâu đã về đến bờ sông Sài Gòn?”.
“Ông đừng giả điếc. Họ vẫn ở đây nhiều năm. Nếu ông không biết, ông đi hỏi dân chúng xem, có khi họ biết hơn ông”.
“Vâng, có thể dân chúng biết hơn tôi. Cộng sản khác quốc gia ở chỗ, quốc gia chỉ tin vào tướng lĩnh, vào những người có quyền lực, có thế lực, những tầng lớp giàu có. Còn Cộng sản họ lại tin vào những người dưới đáy là những ông xe ôm, những người đánh cá, người làm vườn, dân chạy chợ và bà con nghèo ở nông thôn và thành thị. Vì thế dân chúng biết về họ hơn chúng tôi. Hai ông để tôi đi hỏi xem, có gì thì xin báo lại hai ông”.
Việt nói:
“Chúng tôi không cần ông tìm họ để đánh họ, mà cần ông giúp cho một việc, là nói với họ chúng tôi muốn gặp để hiểu họ. Họ ra điều kiện gì để được gặp gỡ, chúng tôi cũng đồng ý”.
“Vâng. Tôi chỉ xin hai ông cho biết, nếu gặp họ, họ hỏi gặp để làm gì, thì tôi trả lời thế nào. Hai ông muốn gặp họ để hòa đàm phải không?”.
“Không. Hòa đàm không phải là việc của chúng tôi” - Việt nói - “Gặp để hiểu họ thôi. Chúng tôi muốn hiểu người mà chúng tôi phải bắn đến viên đạn cuối cùng trước giờ thua cuộc là thế nào. Phải hiểu để quyết định xử sự với bên thắng cuộc”.
“Vâng. Tôi hiểu”.
Việt hỏi:
“Ông vừa nói là ông hiểu. Vậy ông hiểu thế nào?”.
Chủ nhà nhìn nhanh hai ông khách, nói:
“Tôi hiểu là đến lúc phải tự mình hiểu về đối phương. Nếu gặp được họ, tôi sẽ báo lại với hai ông. Xin hai ông cho biết, tôi báo lại cho hai ông ở đâu?”.
Hàm nói:
“Ông nói với lính của tôi ở trận địa tử thủ ở đầu cầu. Họ sẽ nói lại với chúng tôi. Chúng tôi chờ tin của ông. Chào ông”.
Hàm và Việt quay về xuồng. Hai người đi xuồng chầm chậm trên sông mà không nói thêm gì với nhau. Có vẻ như mỗi người đang nghĩ về một hướng. Việt thì thật sự muốn gặp đối phương. Còn Hàm thì thế nào cũng được. Hai người hành xử khác nhau ở phút chiến tranh sắp mãn cuộc. Việt là sĩ quan, nhưng là sĩ quan làm báo, đứng ở sau lưng lính, không phải bắn giết, không phải chết chóc. Quân Cộng sản có tràn vào thành phố, Việt chỉ ném bỏ bộ quân phục, là xong. Còn Hàm thì không được thế, anh có nhiệm vụ cụ thể, vẫn phải thực hiện cho cái kế hoạch Gavin mà anh chưa được nghe rõ ràng. Vả lại anh còn đơn vị, còn những chiến hữu - những người từng sinh tử dưới quyền. Anh phải có trách nhiệm với họ, sống với họ với tư cách người chỉ huy mà họ từng yêu mến và tin cậy.
Không phải chờ lâu, chỉ hôm sau, sáng 25 tháng Tư, Hàm và Việt nhận được tin báo một cán bộ chính trị của Việt cộng, cấp đại đội sẵn sàng gặp họ ở căn lán trong vườn trái của nhà dân ấp Xoài Hai. Ấp trưởng sẽ dẫn họ đến. Họ chỉ yêu cầu đến gặp mặc thường phục, không đem theo vũ khí. Họ hứa danh dự đảm bảo an toàn cho hai người.
Hàm và Việt bàn nhau đi gặp đối phương vào tầm nửa buổi sáng và để an toàn, vẫn cần phải bí mật bố trí một tổ trinh sát tinh nhuệ đi bảo vệ từ xa.
Trưởng ấp dẫn Hàm và Việt vào căn lán mới được dựng, lá dừa nước lợp mái còn tươi. Trong lán chỉ có chiếc bàn ghép bằng phên tre, có bộ đồ uống trà. Một người đàn ông trẻ tuổi, gương mặt nhẹ nhõm, thanh tú, tóc cắt cao, chải gọn, mắt sáng bước ra cửa lán vừa chào vừa bắt tay khách. Cảm giác nhanh của Việt là cái bắt tay thân thiện và ấm áp.
Chủ nhà nói:
“Xin tự giới thiệu với hai ông, tôi là Hồng - Chính trị viên đại đội. Cám ơn hai ông đã đến đúng hẹn. Tôi đang chờ nói chuyện với hai ông. Tôi biết hai ông chưa thật tin vào việc đảm bảo an toàn của chúng tôi, nên đã bố trí người bảo vệ cảnh giới cách căn lán này chừng hai trăm mét.
Hàm hơi đỏ mặt:
“Xin lỗi, đó là thói quen của biệt động quân chúng tôi khi hoạt động trong rừng. Nếu ông không cho phép, tôi sẽ bảo họ rút quân”.
“Không sao” - chủ nhà nói - “Cứ để họ cảnh giới ở đó. Ở cuối ấp nơi có nhánh đường đi về Thủ Dầu Một và ra bến sông sang Biên Hòa có đồn dân vệ vài chục tay súng. Buổi sáng đi qua đó, tôi có nói với họ, hôm nay tôi sẽ gặp mấy sĩ quan của quân lực Sài Gòn, xin các ông giữ ổn định trong vùng cho. Họ đã nghe lời. Thôi, xin các ông nói trước... Dù sao thì gặp nhau thế này, là chúng ta cũng đã có một phần hiểu nhau”.
Hồng nói rồi tự tay rót thứ nước trà màu vàng ra ba chiếc chén bằng sứ trắng. Nhìn vào mắt hai người khách có vẻ ngại ngùng về thứ nước trà lạ này, chủ nhà bảo:
“Đây là trà rừng, do anh em tự sao chế lấy, uống tôi thấy sảng khoái”.
Chủ nhà uống trước, rồi mời hai ông khách cùng uống trà.
Việt hỏi:
“Ông vừa nói là ông hiểu chúng tôi về cuộc gặp này. Vậy xin ông nói cụ thể xem, ông hiểu thế nào?”.
Chủ nhà từ tốn nói:
“Tôi hiểu là đến lúc phải tự mình hiểu về đối phương. Cả chúng tôi và các ông đều vậy cả. Chẳng hạn chúng tôi phải vừa đánh, vừa tìm hiểu người Mỹ, quân Mỹ là thế nào, về tinh thần, về ý chí, lối sống và về mục đích của họ ở chiến trường xa nước Mỹ mấy chục ngàn cây số. Càng đánh, chúng tôi càng hiểu họ. Hiểu họ sẽ rút chân ra khỏi cuộc chiến mà chính họ đã gây ra, nên chúng tôi mới quyết định đi đến trận cuối cùng”.
Việt nói:
“Cám ơn ông đã chủ động đón tiếp hai chúng tôi. Tôi tự giới thiệu, tôi là phóng viên báo chí làm cho tờ Tiền tuyến của quân lực Sài Gòn. Còn đây là trung tá Hàm - đại đội trưởng đại đội đang tử thủ ở hai đầu cầu Cây Bông. Tôi nghĩ rằng cuộc chiến tranh sắp kết thúc mặc dù quân chính phủ vẫn đang giữ được Sài Gòn và Quân khu Bốn”.
“Vâng”. - Chính trị viên Hồng nói tiếp: - “Đáng phải kết thúc sớm hơn. Cuộc chiến hơn hai mươi năm gây tổn thất nhiều xương máu của binh sĩ và đồng bào. Mục đích của chúng ta là đất nước hòa bình, thống nhất, để dân ta được sống bình yên, hạnh phúc. Vậy mà do lịch sử lầm lỡ đẩy dân ta vào cuộc chiến, phải hy sinh nhiều mới nhận ra mục đích cuối cùng, để bây giờ, chúng ta lại phải hàn gắn lại. Máu ở phía nào cũng là máu đỏ của người Việt”.
Việt và cả Hàm hơi sững lại vì câu nói của anh chính trị viên. Lâu nay họ đã hiểu sai về phía bên kia, hay do phía bên kia đang thắng mà họ đổi giọng? Việt quyết định đi nước cờ có thể làm đối phương bị lúng túng:
“Vâng. Tôi nghĩ, sau cuộc chiến nào, ở đâu, người ta cũng nghĩ đến việc hàn gắn. Có những cuộc hàn gắn rất thân mật, như bảo nhau ngày mai đi sửa lại đường sá, cầu cống, dựng lại nhà và cùng vui sống. Nhưng cũng có những cuộc hàn gắn phải đổ máu. Họ phải trừ diệt mầm mống của tội phạm từng làm đau lòng bên thắng cuộc, từng gây mất mát cho bên thắng cuộc để được yên ổn, rồi mới phân loại người có công và không có công, rồi mới hàn gắn. Tôi tin chúng ta sẽ lựa chọn hàn gắn bằng cách bảo nhau cùng xóa bỏ các vết thương cả trên mặt đất và trong cơ thể con người”.
Hồng cười:
“Nhiều bạn dễ sống hơn nhiều thù. Sao chúng ta phải mất thì giờ moi móc hận thù trong quá khứ để làm khổ nhau?”.
Hàm bất ngờ hỏi:
“Ông đã nói rất hay. Vậy, với tư cách là người chỉ huy, ông khuyên tôi điều gì?”.
Hồng nói:
“Ông đang chỉ huy đại đội tử thủ ở hai bên đầu cầu Cây Bông chứ gì? Tôi khuyên ông nên rút quân”.
Hàm nói:
“Tôi sẽ không rút quân. Ông biết đấy, các sĩ quan chúng tôi luôn được nhắc nhở: Trách nhiệm và danh dự”.
Hồng vẫn nhẹ nhàng:
“Vâng, tùy ông. Nhưng chúng tôi sẽ biết cách đi qua trận địa tử thủ của ông, tiến qua cầu để vào thành phố. Tôi biết cách kết thúc cuộc chiến không phải chỉ đối với các ông mà trước đó, đối với cả đội quân Pháp và bây giờ là quân đội Mỹ. Chúng tôi biết thắng họ để kết thúc cuộc chiến vì chúng tôi hiểu họ. Không phải chỉ hiểu mưu lược quân sự của họ. Sau mỗi trận đánh cả thắng và thua với họ, chúng tôi đều học được một vài bài học. Để hiểu Mỹ, dàn trận bước vào chiến dịch lớn này, trước đó, chúng tôi phải học để hiểu quân Mỹ qua nhiều thứ. Trong kháng chiến thiếu thốn và gian khổ, mà chưa bao giờ chúng tôi lại dịch nhiều cuốn sách của các tác giả Mỹ nổi tiếng như Dan Brown với Thiên thần và ác quỷ, như Ơhenry với Chiếc lá cuối cùng, như Hemingway với Chuông nguyện hồn ai, và rất nhiều, rất nhiều các tác phẩm văn học ưu tú khác của Mỹ. Dịch nhiều như vậy để làm gì, hai ông biết không? Để đọc mà hiểu con người Mỹ, họ yêu thương thế nào, họ yêu tổ quốc của họ ra sao, tâm lý và cả gu thẩm mỹ của họ như thế nào. Phải hiểu con người họ, chứ không thể chỉ hiểu vũ khí và mưu lược quân sự của họ, mới đánh thắng họ được. Với quân đội Pháp trước kia cũng vậy thôi, cha anh chúng tôi đánh nhau bằng gậy tầm vông và súng trường tự chế, nhưng đã phải xem kịch Molière, đọc Alphose Daudet và Guy de Maupassant để hiểu tâm lý con người Pháp mới có trận Điện Biên kết thúc chiến tranh. Nói chung, hai ông ạ, chúng tôi tự hào là một trong những cường quốc, trong chiến tranh đã dịch nhiều tác phẩm văn học Pháp và Mỹ nhất Đông Nam Á”.
Hồng tự cảm thấy mình nói đã dài, dừng lại, để mời hai người uống thêm một tuần trà. Trà rót ra ba ly, nhưng Việt cầm ly trên tay, không uống. Một điều gì đó xáo động trong Việt khi nghe anh chính trị viên nói.
Việt chân thật hỏi:
“Thưa ông, tôi tò mò một chút, trước khi đi làm chiến sĩ Giải phóng, ông học trường nào?”.
Chính trị viên Hồng mỉm cười:
“Nói ông đừng cười, thế hệ tuổi tôi, chúng tôi tự bảo nhau, là thế hệ thất học. Thường thì anh em học đến hết lớp mười, thì cũng vừa tuổi đi cầm súng. Rất ít anh học qua đại học. Riêng tôi, đang học dở dang năm thứ hai Đại học Sư phạm thì lên đường nhập ngũ”.
“Vậy mà… tôi nghĩ, ông đã học rất nhiều”.
“Không đâu, toàn kiến thức chắp vá tự học cả thôi. Chúng tôi tự đọc sách ở tủ sách đại đội, tủ sách tiểu đoàn rồi thư viện trung đoàn. Ở đó thiếu sách văn học thì mua ở ngoài. Ở đại đội, chỉ cần một hai người mua sách, là anh em chuyền tay nhau đọc, cho đến khi cuốn sách nát bươm thì dán lại, đem cho một cô gái nào đó ở nơi trú quân. Tôi đã cho cô gái cả một nửa ba lô tiểu thuyết cũ trước khi có lệnh hành quân ra chiến trường. Cô gái ấy bây giờ là bà xã của tôi…”.
Bây giờ Việt mới thong thả uống hết ly nước trà rừng. Uống xong, Việt hỏi anh chính trị viên:
“Anh biết tôi đang nghĩ gì không?”.
Hồng cười:
“Tôi không giỏi xét đoán tâm lý người ngồi trước mặt”.
Việt nói:
“Tôi bỗng hiểu tại sao tuyên truyền tâm lý chiến của cơ quan chính trị quân đội Sài Gòn lại thất bại. Bởi họ đã nói những điều thô sơ, rất thấp với văn hóa của đối phương”.
Hồng ngồi lắng nghe, không nói thêm gì. Tự Việt và cả Hàm đều nhận ra, chủ nhà đã có ý kết thúc cuộc gặp ở đây.
Việt nói:
“Cám ơn ông đã tiếp chúng tôi. Bây giờ chúng tôi xin phép chia tay…”.
Hồng tiễn hai người ra cửa, nói:
“Xin hai ông coi đây là căn nhà hòa hợp, có điều gì cần trao đổi, tôi sẽ chờ gặp. Hẹn gặp lại”.
2. Một cuộc gặp hứa hẹn về hòa hợp dân tộc, nhưng không phải vì thế, cuộc chiến đã kết thúc một cách nhẹ nhàng.
Trận địa tử thủ bên kia cầu Cây Bông của đại đội biệt động bị Quân giải phóng bao vây. Không có quả đạn pháo nào bắn vào trận địa tử thủ, chỉ có tiếng loa gọi binh sĩ hãy đầu hàng để được yên ổn về với gia đình.
Hàm bấy giờ ở trận địa đầu cầu bên kia, lệnh cho thiếu úy Khung, chỉ huy binh sĩ, không được phép rời trận địa. Tất cả bất động chờ quân đối phương đến đúng tầm súng thì vùng dậy bắn bằng tất cả loại vũ khí có trong tay. Nếu đối phương quá đông, cũng phải đánh đến viên đạn cuối cùng rồi có rút mới rút.
Mai phục, đạn đã lên nòng, nhưng suốt cả ngày hai mươi sáu, Quân giải phóng không tiến công trận địa tử thủ. Mãi đến tận chạng vạng tối, bỗng trận địa tử thủ bị bắn trùm lên hàng chục quả pháo khói. Khói dày đặc, lính chỉ còn nhận được nhau qua giọng nói. Giữa lúc khói che lấp tầm nhìn, trận địa bị Quân giải phóng đột nhập nhưng không biết từ hướng nào, chỉ thấy tiếng chân người chạy huỳnh huỵch trong giao thông hào. Cho đến khi khói nhạt bớt, bộ phận trận địa tử thủ đầu cầu mới nhận ra mất ba người, trong đó có thiếu úy Khung. Họ bị mang đi đâu, không ai biết.
Hàm nghe báo cáo, tức điên, phóng xuồng máy sang trận địa đầu cầu bên kia. Hàm bắn một loạt AR-15 lên trời, hét lớn:
“Phải tìm ngay xác các chiến hữu vừa bị bắt. Một tổ ở lại giữ trận địa. Còn tất cả theo tôi. Ta sẽ đem ba cái xác vào căn nhà mà họ nói là hòa hợp để tố cáo sự giả dối”.
Trước khi dẫn quân đi lùng sục, Hàm dùng máy chuyên dụng Motorola gọi cho nhà báo Việt:
“Nếu rỗi ông đến trận địa tử thủ bên kia cầu để chứng kiến lòng tốt của ông chính trị viên mà ông đã bị thuyết phục về lòng nhân ái”.
Việt sốt sắng trả lời:
“Rất tiếc tôi không muốn rời vị trí đang đứng ở bên này cầu Y. Ở đây, tôi dùng chiếc ống nhòm Barska của quân đội Mỹ để quan sát Quân giải phóng tiến qua cầu. Họ cứ băng qua lưới lửa dày đặc của quân ta bắn chặn ở giữa cầu. Người trước ngã, người sau lại đứng vào chỗ trống, cứ hùng dũng tiến, như không có gì chặn lại được. Nhìn họ, tôi nhớ lại những thước phim về đội quân kiêu hùng của Napoléon Bonaparte tiến vào chiến địa Montenotte của Ý năm 1796. Họ là những người anh hùng tiến vào thành phố”.
Không có Việt, Hàm dẫn tốp lính trinh sát lùng sục vào khu rừng tạp giao và bãi lau ven sông, rồi cẩn trọng dò xét các trại trồng cây ăn quả của dân ấp Xoài Hai, moi rác ở các cống rãnh và thọc gậy xuống các hố nước sâu. Hàm nghĩ, thiếu uý Khung và hai người lính đã bị giết bí mật, rồi giấu xác ở đâu đó để phi tang. Không tìm thấy dấu vết về mấy người mất tích ở khu bờ sông và các trại trồng cây, Hàm rẽ qua nhà ấp trưởng và có thể đến cả đồn dân vệ để dò hỏi. Thật bất ngờ, vừa bước vào cổng nhà ấp trưởng thì Hàm sững lại vì nhìn thấy cả Khung và hai cậu lính lành lặn, đi ra.
Hàm hỏi thiếu úy Khung:
“Họ đã dẫn các ông đi đâu?”.
Khung bảo:
“Họ chỉ dẫn vào đơn vị của họ, rồi bảo, đến giờ ăn cơm tối rồi, các anh ăn cơm với chúng tôi, rồi ngủ lại một đêm ở đây, mai sẽ về, vì đi đêm không an toàn”.
Hàm vẫn truy tiếp:
“Tôi không tin họ lại không nhét điều gì vào đầu các ông trước khi tha”.
“Có” - Khung nói - “Họ chỉ bảo ở đây họ có cả một trung đoàn, một tốp các ông không giữ được đầu cầu đâu. Quân sự có luật lệ của quân sự, ấy là ngoan cố chống đối thì phải trừng phạt. Các ông nên bảo nhau rút, trước khi chúng tôi nổ súng để qua cầu”.
Hàm im lặng, rồi nói với Khung và hai người lính:
“Họ nói gì, thấy gì thì các ông câm miệng, về đơn vị không được nói lại với ai. Hôm nay ta sẽ rút về bên kia cầu để bảo toàn lực lượng”.
Về bên kia cầu, Hàm nói với tất cả lính trên trận địa: “Quân Cộng sản muốn qua sông thì phải qua cầu. Ta bịt chặt đường cầu, quân Cộng không thể tràn ngập trận địa tử thủ”. Anh lệnh cho hậu cần gấp rút trang bị cho mỗi binh lính ngoài khẩu AR-15 thêm khẩu M-19. Riêng ba khẩu súng máy M-60 thì tăng cường mỗi khẩu thêm ba cơ số đạn.