1. Nhu bày đĩa sầu riêng màu vàng ươm lên bàn. Đặc sản này không có ở Cali vì không thể gửi qua đường hàng không cho nên hơn hai mươi năm Hàm mới lại được thưởng thức hương vị đặc biệt của sầu riêng miệt vườn Thủ Thiêm.
Hơn hai mươi năm Hàm mới lại ngồi trước cô em gái. Nhu vẫn không khác ngày xưa, gương mặt giống má, đặc biệt là đôi mắt sâu và lúc nào cũng phảng phất u buồn. Những người đàn bà có đôi mắt ấy thường nhiều tâm tư và khép kín lòng mình. Nhiều lá thư gửi cho Nhu, Hàm muốn biết thật nhiều tin về Tư và đứa con trai của cô ấy, nhưng Nhu lại kể rất ít. Cả lúc này, trước Hàm, Nhu cũng chưa nói điều mà Hàm cần nghe. Nhu chỉ nói về Sài Gòn, về những người bạn ngày xưa của anh đôi khi Nhu gặp trên đường.
“Còn cô Tư?” - Hàm không kìm được hỏi thẳng vào điều mà anh chờ đợi câu trả lời của em.
Nhu nhìn anh, bảo:
“Vâng, khi nào rảnh em dẫn anh đi thăm mẹ con chị ấy”.
“Sao không phải là hôm nay em đưa anh đi thăm mẹ con cô Tư?”.
“Dạ, hôm nay thì vội quá”.
“Vậy em nên báo lại cho Tư để anh gặp cô ấy sớm nhất”.
“Vâng. Nhưng chị Tư đã nói với em chuyện với anh đâu còn đó, vội gì”.
“Nhu có biết mẹ con cô Tư luôn nặng trong lòng anh lâu nay hay không?”.
Nghe hỏi, Nhu bảo:
“Anh đâu có hiểu, mẹ con chị Tư cũng luôn canh cánh trong lòng em. Từ lúc biết tin anh về, em chưa biết sẽ chỉ dẫn anh xử sự thế nào cho phải về mối quan hệ với chị Tư và con trai của chị ấy”.
Hàm ngồi lặng nghe.
Hồi lâu, Nhu mới kể: “Hôm mới rồi, trước khi theo Đoàn nghệ thuật Bông Sen đi miền Trung biểu diễn, em ghé thăm mẹ con chị Tư, thuyết phục mẹ con chị ấy chuyển về ngôi nhà ba má để lại. Từ khi vợ chồng em chuyển vào ở khu tập thể, nhà cũ đóng cửa bỏ không. Nhà rộng rãi bỏ không, trong khi mẹ con chị Tư lại ăn ở nhếch nhác trong gian nhà phong phanh bên kia sông, thật không hợp lý. Tuy nhiên dù em có cố thuyết phục với rất nhiều lý lẽ, chị Tư cũng chỉ biết cúi đầu biết ơn lòng tốt của cô em, xin ở lại nơi cũ với lý do, đây là đất quê, chị quen sống với lề thói của ấp Xoài Hai. Hơn nữa, mồ mả ông bà nội cháu Soạn ở đây, chị đi xa ngày ngày không chăm nom được hương khói, sao đành.
Chị Tư nắm lấy tay em:
“Thôi, ba cái chuyện nhà cửa để đó. Biết tin em sang thăm, chị nấu nồi nước lá hương nhu cho em gội đầu”.
Em chỉ còn biết nghe lời chị.
Từ lâu, dù không ăn ở cùng, nhưng chị em vẫn gần gũi như một nhà, nhất là từ sau khi ba má mất. Tuần một lần em lại sang nhà đòi chị nấu nước lá hương nhu gội đầu. Tuần một lần em trẻ lại tuổi thơ như được gần má, cúi xuống chậu nước vàng chanh, thơm hăng hắc để chị múc từng gáo nước gội lên mái tóc dài mềm mượt chấm ngang lưng. Có những đợt đi lưu diễn lâu về, em sà vào lòng chị như tìm ở chị hơi ấm của má, đòi ăn cơm cá bống kho khế, đòi ngủ với chị một đêm.
Anh biết không, em và chị Tư biết nhau vào đúng cái sáng anh chạy di tản trên chuyến tàu cuối cùng của quân đội Sài Gòn rời bến cảng tổng kho Nhà Bè.
Hôm đó, mới mờ sáng, em đã chạy ra bến định giữ anh lại. Nhưng chạy đứt hơi đến nơi thì tàu nhà binh đã rời bến, chỉ còn nhìn thấy bóng nhiều anh lính cúi đầu nhìn xuống nước như lạy Sài Gòn để ra đi, không hẹn ngày trở lại. Có một người áo quần xộc xệch, đội chiếc nón vải xanh che gần kín khuôn mặt không son phấn bợt bạt, chỉ còn hở đôi mắt hoảng loạn nhìn theo con tàu chở quân di tản mỗi lúc một xa bến hướng về phía sông Xoài Rạp khuất sau rừng đước xanh mờ. Không còn để ý đến đám đông người đưa tiễn và chen chúc nhau định đi nhưng không được lên tàu vì trên boong người đã như nêm cối, cô gái đội nón vải, vươn người về phía bóng con tàu, giọng gào lên tuyệt vọng:
“Đừng bỏ em, anh Hàm ơi!”.
Em giật mình vì cô gái xa lạ bỗng réo gọi tên anh.
Không có tiếng đáp trả, đương nhiên. Con tàu lầm lì đi xa bến, tiếng còi ly biệt giội về phía sau như tiếng nấc.
Cô gái bất lực ngồi thụp xuống bãi đất, day dả khóc. Ai đây? Cô gọi anh Hàm nào trong đám người chạy di tản chật cứng trên tàu? Em đã đi một đoạn, rồi tự thấy không yên lòng, quay lại, nắm tay cô gái:
“Chị ơi, đứng dậy, anh Hàm đi thật rồi”.
Cô gái đang hoảng loạn như sắp chết đuối, bám được vào cây cọc:
“Em cũng biết anh Hàm?”.
Em và chị Tư quen nhau từ đó.
Sau buổi trưa hoảng loạn trên bến cảng, chị Tư câm lặng. Một cô gái trẻ đẹp, gương mặt thon thả, mắt đen thăm thẳm, câm lặng. Rồi em biết nhà chị Tư ở bên ấp Xoài Hai, đang mang thai. Cái thai là con của ai? Có phải đó là giọt máu của anh để lại cho chị? Em khéo léo gạn hỏi nhưng chị Tư chỉ nói: “Chị khổ lắm, đừng hỏi gì nữa, em ơi”.
Bấy giờ ba mẹ còn sống.
Ba trở về nhà sau ngày Sài Gòn giải phóng, gia đình sum họp, nhưng sống ngượng ngập, không trọn vẹn. Má luôn coi mình là người có tội với ba vì không giữ được anh, để anh đi lính, trong khi ba là cán bộ chỉ huy bộ đội cách mạng từ rừng núi trở về. Oái oăm thay, đại đội của anh bữa đó lại tử thủ đầu cầu Cây Bông bắn lại đội quân của ba kéo về thành phố, và rồi anh lại ném bỏ tất cả, chạy theo những người di tản, trong khi ba trở về sau gần hai chục năm xa cách.
Phút gặp ba, em cũng đứng phòng khách, theo dõi người đàn ông cao lớn, áo quần bụi bặm bước đến trước mặt má. Người đàn ông không reo lên, không cất tiếng chào, chỉ nhìn má rồi nói nhẹ:
“Tóc bà cũng bạc cả rồi”.
Má ôm mặt khóc, rồi quỳ xuống trước mặt ba, kêu lên:
“Tôi có tội với ông”.
Ba nâng má đứng dậy, ôm vào lòng. Đến lúc đó ba mới thấy em cũng ở phòng khách.
Ba nói dịu dàng:
“Con gái, lại đây với ba”.
Ba mở ba lô lấy ra hai cái áo phụ nữ. Một chiếc áo lụa tím, may thuôn, không bó eo, hẳn là dành cho má. Còn chiếc áo cho em, xanh nhẹ da trời điểm những bông hoa xoan trắng li ti, cổ bẻ, chiết eo khéo léo và vừa vặn. Em mặc áo, hỏi ba:
“Con gái ba có đẹp không?”.
Ba cười:
“Công chúa của ba, sao không đẹp!”.
Ngày sau, sợ ba buồn lòng, má giấu tất cả những tấm ảnh có anh chụp cùng má và em vẫn treo trên tường phòng khách. Ba biết điều má làm, lặng lẽ tìm lại những tấm ảnh má giấu, treo trở lại trên tường.
Má lại nói:
“Tôi có tội vì không giữ được thằng Hàm đến ngày ông trở về”.
Ba vỗ về má bảo đừng khóc:
“Thằng Hàm mang dòng máu của tôi và bà, thì đi đâu rồi nó sẽ trở về, nhất định thế”.
Sinh hoạt gia đình hửng vui lên một chút, tuy nhiên má vẫn hay thở dài.
Mãi cho đến khi, con trai chị Tư lẫm chẫm biết đi, chị mới dắt con đến thăm ba má. Một cuộc gặp do em dàn xếp.
Chị Tư dẫn con đến trước mặt hai cụ, dạy:
“Chào ông bà đi con”.
Em đã mừng, dòng máu ruột rà sẽ thôi thúc chị Tư nói lên tất cả để cho con nhận ông bà nội.
Nhưng không, suốt cuộc gặp, chị Tư không lộ ra cử chỉ nhỏ nào về mối quan hệ máu mủ của con chị với con trai của ba má. Má âu yếm ôm thằng Soạn con chị Tư vào lòng, hai bàn tay xoa xoa lên mái tóc mềm mượt như tơ của bé, mặt đờ đẫn nói:
“Đời má chỉ mong một đứa cháu như vầy”.
Em thấy chị Tư chợt quay ra hè như là giấu giọt nước mắt.
Từ hôm đó má hẹn với chị Tư thỉnh thoảng đưa cháu sang nhà để má đỡ thèm một đứa cháu trai. Có hôm em ý tứ hẹn chị Tư đưa con sang chơi dịp ở nhà chỉ có một mình má. Em nghĩ đàn bà sống với nhau dễ nói những chuyện riêng tư. Tuy nhiên, mãi cho đến ngày ba mất, rồi má cũng mất sau đó ít năm, sửa lễ đến viếng mộ ông bà, chị Tư mới nói với em, thằng Soạn là con của anh Hàm. Em không bất ngờ về tin này, không reo vui, không trách chị Tư, chỉ giấu giọt nước mắt lăn trên má, rồi dọn túi đồ sang ở với mẹ con chị Tư mấy ngày.
Ở với chị, em mới thông cảm phần nào vì sao lâu nay chị Tư câm lặng, vì sao chị Tư không nói trước chuyện hệ trọng này khi ba má còn sống, để ba má được an ủi vì có cháu. Chị Tư bảo, cái ấp Xoài Hai là dân công giáo toàn tòng, tục lệ hà khắc không bao giờ có con gái chửa hoang, chỉ có kết hôn, không bao giờ ly hôn kể cả khi người đàn bà lấy phải người chồng không ra gì. Con gái chửa hoang với làng Xoài Hai là đồ bỏ đi, bị hắt hủi, bị ghẻ lạnh. Gái hoang thai ra đường phải úp nón lên mặt mà vừa đi vừa chạy, tránh lúc đông người. Không muốn tủi hổ cho con, muốn con có bố để được sống như các đứa trẻ khác, chị đã cầu xin người bạn lính của anh mà chị đã biết chút ít nhận làm bố của con. Thương cảm hoàn cảnh của chị Tư, người chồng hờ này tận tâm chăm sóc bé Soạn, mặc dù bao lâu nay vẫn chỉ là bạn của chị Tư. Hoàn cảnh éo le, là bố mà không phải là bố, là chồng mà không phải là chồng để che mắt thiên hạ, vun cho con lớn chỉ chị Tư biết, lối xóm không biết. Chị không muốn con nhận ba má là ông bà nội vì sự hiểu lầm có thể làm ông bà phiền não thêm.
Chị Tư ôm lấy em, bảo:
“Làm đàn bà nhiều khi nước mắt chảy vào trong”.
Đó là những ngày buồn với em và má.
Ba về khỏe mạnh được chừng một năm thì phải nằm viện. Biết bao thứ bệnh ủ trong người ba từ thời ba còn ở trong rừng. Bấy giờ ba nhiều việc, phải lăn lộn chỉ huy cả một trung đoàn luyện tập rồi đi chiến trường, ba không có lúc nào rảnh rỗi để các căn bệnh nhô đầu ra mà hành ba cả. Các con bệnh cứ nằm ủ đấy, cho đến khi ba về nhà rảnh rỗi thì bệnh mới phát. Em và má không để ba nằm một mình, ngày đêm túc trực. Nhưng tình yêu của cả em và má không níu giữ ba lại được.
Ba mất, nhà như nấm mồ. Em muốn đàn cũng không dám ngồi vào đàn, chỉ im lặng nhìn má ngồi mắt nhìn ra cửa, buồn đến nỗi, em sợ không dám nhìn vào mắt má. Ba đã mất, má chờ anh chứ còn chờ ai nữa? Má chờ một tiếng gõ cửa của con trai. Cuộc đời má, là dằng dặc những đợi chờ. Lấy chồng từ năm mười bảy tuổi, có liền hai đứa con trong vòng ba năm. Rồi ba lên chiến khu, má chờ hai mươi năm để được sống với ba hơn một năm. Bây giờ má lại chờ con trai của má… Má không chờ được đến lúc anh về. Vì vừa mãn tang ba, má lại theo ba…”.
Hàm bỗng nhô người dậy, ôm lấy hai vai em gái:
“Thôi, đừng nói nữa, anh không chịu đựng được. Anh biết tội với ba, với má với Tư rồi”.
Hồi lâu, Nhu nói:
“Anh cứ để em nói. Em chỉ nói một lần này với anh thôi, rồi mãi mãi không bao giờ nói lại nữa. Anh có bắt nói em cũng không nói lại. Ba mất, má mất, chị Tư trở thành thân thiết nhất với em. Em tin lời chị Tư cho nên mãn tang, chị Tư xin em đưa phần mộ ba má từ nghĩa trang thành phố về khu đất vườn bên sông của nhà chị Tư để mẹ con chị gần gũi chăm sóc, em cũng đồng ý. Chị chỉ dặn em, không nói cho con chị biết đó là mồ ông bà nội. Em hỏi, vậy em sẽ nói sao? Em nói là mộ ân nhân của chị.
Bữa rồi, gội đầu cho em xong, ngồi hong tóc ở hiên nhà, nhặt mớ bông điên điển mua ở đầu chợ để nấu canh cá lóc, em nói với chị Tư:
- Anh Hàm về nên em muốn chị về ở căn nhà ba má để lại. Ngày xưa vì chiến tranh anh chị phải chia cắt, chưa đoàn tụ, thì nay anh về, anh chị nên đoàn tụ.
Chị Tư ngồi ngẩn ngơ một lúc, rồi bảo:
- Anh Hàm về là việc của anh Hàm phải về. Chị ngại gặp ảnh lắm. Bây giờ nói ra sự thật, thì con chị sẽ nghĩ thế nào về má nó. Má đã dối con hai chục năm rồi ư? Ấy là chưa kể còn ông Khung. Ông Khung chưa bao giờ là chồng chị. Ông ấy cũng không đòi hỏi là chồng chị. Ông ấy sống với chị, với con chị vì cái nghĩa con người, vì cái nghĩa ấy bù đắp những lầm lỡ của quá khứ, mà bản thân ông ấy là người của một bên làm nên sự lầm lỡ. Thôi, cứ để anh Hàm về, rồi có dịp thì nói với nhau vài lời.
Bữa cơm chiều ở nhà chị Tư hôm đó có ông Khung và Soạn cùng về. Soạn bây giờ đã là một chàng trai, có vóc dáng vạm vỡ và cân đối, sau khi học xong trung học đã đi làm ở xí nghiệp. Còn ông Khung do thương tật, không xin việc được ở đâu, sắm xe đẩy, bán phở dạo bên phố, công việc cũng đủ sống. Ông bán phở dạo tất cả những ngày trong tuần. Chủ nhật, công nhân được nghỉ việc, Soạn lại tiếp nhận xe đẩy bán phở dạo giúp cha.
Hai người đàn ông ồn ào kéo về nhà. Ông Khung xách theo con cá mua được từ người câu sông, còn Soạn ôm mấy lon bia. Chị Tư nói, nhà này chỉ tụ họp ăn bữa cơm chiều chủ nhật, còn sau đó, ai đi việc người ấy. Soạn làm công nhân ở tạm nhà trọ gần xí nghiệp. Ông Khung cũng ở bên đó với con, cùng cơm niêu nước lọ. Có thêm em, cả nhà mỗi người một tay nấu cơm rồi dọn mâm bát, nhường nhịn gắp thức ăn cho nhau, nhường nhìn cả phần bia ít ỏi. Một bữa cơm đầm ấm. Chả ai, kể cả em lại có thể tin, đây là gia đình gá tạm, một gia đình sống với nhau để che khuất những bất hạnh của cuộc đời. Ngồi ở mâm cơm gia đình chị Tư, em nghĩ, hạnh phúc đôi khi là sự hy sinh và nhường nhịn của người đàn bà. Nay anh về. Có nên để anh làm đảo lộn cái gia đình gá tạm này không?
Hôm qua, sốt ruột quá, em lại sang nhà thăm chị Tư lần nữa, để thông báo anh Hàm chỉ chờ gặp chị. Giờ ấy chị Tư còn đang dọn dẹp đồ hàng để sớm mai ông Khung đẩy xe về lấy, đi bán rong. Thấy em hớt hải đến nhà báo ngay việc anh Hàm về, chị Tư bảo:
- Việc người đâu phải mớ cá, bó rau, văng vật vào tay ai cả giá cũng được. Em có chuyện gì cần giúp, chị giúp. Còn chuyện của chị, thì chỉ tự chị mới quyết được.
Em ngó vào cửa:
- Cháu Soạn và ông Khung có về không?
Chị Tư bảo:
- Ba con nó ở bên phố, sáng mai ông Khung mới về lấy đồ đi bán. Có chuyện gì mà em thở gấp?
Em nói:
- Anh Hàm còn muốn gặp cả anh Khung.
Em chủ ý quan sát thái độ của chị Tư, thấy chị bình thản như thường, chỉ nói “thế à”, không vui, không buồn. Hai người đứng bên nhau hồi lâu mà chẳng biết nói gì nữa. Cuối cùng có lẽ để em vui, chị Tư nói chuyện mùa vụ, chợ bán trái kỳ này khó làm ăn. Do được mùa, vựa hoa trái miền Tây đổ về Sài Gòn nhiều quá, sạp hàng bán trái cây của chị nhiều thứ hạ giá rẻ như cho, mà hàng vẫn chất đống. Em lựa lúc chị vui chuyện, nói chen vào một câu nói vui:
- Để bữa nào em bảo anh Hàm sang mua hết hàng ế cho chị.
Chị Tư lại chỉ nói “thế à” rồi im bặt. Chả lẽ cứ đứng mà gạn xem thái độ của chị Tư với anh, em làm như chợt nhớ ra:
- Thôi chết, em quên, chưa hỏi anh Hàm còn giữ chìa khóa không, sợ ảnh bỏ chìa mất rồi, về phải đợi ở cửa thì tội. Xin phép chị em về.
Đi một đoạn em tự trách mình, sao không mời chị sang nhà chơi, hoặc nêu một lý do nào đó để hai anh chị có dịp gặp nhau.
Cái khó của những cuộc hòa giải là bước đi đầu tiên. Ai sẽ là người bước trước? Chỉ một bước thôi có thể xóa bỏ những ngăn cách mà thời gian đã hằn sâu thành những cái hố khó bước qua. Chị Tư bước trước hay anh bước trước? Em nghĩ, chị Tư không có lỗi, chịu nhiều cay đắng, thì bước một bước lên phía trước dễ dàng hơn người mắc lỗi. Người mắc lỗi còn phải e dè, phải đắn đo chứ người không có lỗi thì ngửng mặt lên mà bước, có sao. Trong đời sống thường nhật với công việc, với bạn bè, với cả anh Quế chồng em, chúng em ăn ở với nhau lâu cũng có lúc mất lòng nhau. Thường thì em tự đứng ra dàn hòa. Em không có lỗi, em dàn hòa kiểu của người không có lỗi làm cho người có lỗi dễ nhận ra thiếu khuyết của mình, để lại sống với nhau hòa thuận. Em là nghệ sĩ đêm đêm đến với khán giả, đêm đêm son phấn sống tưng bừng trong những tràng pháo tay và rất nhiều hoa cùng những lời chúc mừng có cánh. Chồng em lại là một sĩ quan trinh sát của quân đội, sống giản dị, ngay ngắn, nghiêm khắc và rất ít lời. Có lần, đêm đi biểu diễn về, chồng mở cổng, em ríu rít tặng chồng bó hoa của khán giả tặng. Thay vì hôn cảm ơn vợ, anh sĩ quan trinh sát đặt bó hoa ở bậu cửa sổ, đóng cửa sắt, vào nhà, bỏ quên cả hoa. Em biết chồng lơ đễnh với quà tặng của vợ, nhưng không buồn, không trách, chỉ nhẹ nhàng nhắc, anh bỏ quên bó hoa của em ngoài cửa rồi. Lúc ấy chồng mới lẳng lặng trở dậy cắm hoa vào bình, đặt lên nắp cây đàn piano. Chồng có vẻ ngượng vì sơ sót của mình, nên cắm hoa xong, ngả lưng lên ghế xa-lông ở phòng khách để ngủ. Em vỗ vai chồng, có em ở nhà, em không cho anh ngủ một mình. Mối tình của em với chồng có khi đầy, khi vơi, nhưng em luôn chủ động bước về phía chồng để dàn hòa, mà giữ được mái nhà yên ấm. Liệu chị Tư có chịu bước lên trước tiến về phía anh?
Còn xung khắc của chị Tư và anh, tất nhiên không chỉ như bỏ quên một bó hoa mà nặng nề hơn, là sự phản bội và cay đắng, tủi nhục, và thanh danh, và được mất của cả một đời người. Chỉ có điều đặt sự bất hạnh của anh chị trong hoàn cảnh của chiến tranh, những lầm lỗi, cả những vô lối của chiến tranh gây ra mà thông cảm, mà dàn xếp, thì vẫn có thể dàn xếp. Người ta khi còn tình thì sông sâu mấy, núi cao mấy đều có thể vượt qua. Em nghĩ như thế, nên khuyên anh cứ bình tĩnh…”.
2. Ở phòng khách nghe em gái kể chuyện, Hàm cứ lặng đi vì xúc động. Lần đầu em gái nói với anh nhiều thế, nói kỹ càng và sâu sắc về Tư, về ba má, về cả chính gia đình vợ chồng em gái nữa. Bao điều anh nghĩ chưa tới, không thể hình dung anh đã đơn giản và vô trách nhiệm để lại đau đớn cho người thân. Hôm từ Lamcaster trở về, anh đã nghĩ đơn giản, gặp Tư nói một ngàn lần xin lỗi là có thể được tha thứ bởi vì hai người còn có một đứa con. Vả lại bấy giờ, Việt kiều từ Mỹ về như anh được người thân tha thiết, yêu mến vì Việt kiều có thể giúp đỡ về kinh tế. Bây giờ nghe em Nhu nói, anh mới chợt nhận ra, cái danh hiệu Việt kiều Mỹ với Tư chẳng là gì, những lời ngàn lần xin lỗi chả có giá trị gì. Xin lỗi sao được sau khi anh đã làm hỏng cả cuộc đời một người đàn bà. Có những lỗi lầm không thể xin lỗi mà phải trả giá.
Đợi Hàm ăn xong đĩa sầu riêng, Nhu bảo anh:
“Đợi vài bữa đến rằm, hai anh em đi viếng mộ ba má, thăm chị Tư, cháu Soạn và ông Khung luôn thể. Anh mới về tranh thủ đi đây đó thăm thú Sài Gòn, gặp gỡ bạn bè. Sài Gòn bây giờ dễ đi, vẫy chiếc tắc-xi, đến chỗ nào cũng được”.
Hàm rút trong túi áo mảnh giấy gập tư đọc trên đó một dòng chữ, ngẩng lên bảo Nhu:
“Anh tranh thủ đến ngõ 26/12 B.M”.
Nhu cẩn thận xem lại cái địa chỉ ghi trên giấy, bảo:
“Phố B.M gần đây thôi. Bạn anh ở đó à?”.
Hàm lắc đầu:
“Không phải bạn. Không phải thù. Chỉ là người của một thời cùng làm lính, cùng di tản, nhưng ông ta về nước từ bảy năm trước, anh đến thăm, để biết thêm về người di tản trở lại quê”.
Nhu nghe biết anh vẫn còn gì đó cấn cá trong lòng, không tiện nói ra. Một chút cấn cá trong ngày trở về sau hơn hai mươi năm cũng là lẽ thường. Chỉ có điều cô tin, dù anh có đến đâu trong thành phố này, chắc anh sẽ tìm được sự yên tâm.
Nhu bảo anh:
“Để em gọi tắc-xi cho anh. Em đi chợ thổi cơm. Chiều anh về ăn cơm. Em vẫn nhớ anh thích ăn canh cá lóc nấu chua”.
Một lần, lâu rồi, Hàm đã đứng trước chiếc cổng sắt căn nhà sống khép kín trong ngõ nhỏ B.M này. Bấy giờ anh còn trong quân phục nhà binh. Nghe tiếng anh gọi cửa, người đàn bà không mở cổng, mà đứng trong nhà nói vọng ra, giọng chua như dấm:
“Cậu muốn tìm ổng thì đến nhà con đĩ Hồng mà hỏi”.
Phải đến khi cùng di tản trên tàu hải quân ở bến tổng kho xăng Nhà Bè, Hàm mới biết mặt con đĩ Hồng là cô đào cải lương trẻ, cao dong dỏng, khó đoán nhan sắc vì không thể hình dung gương mặt thật sau lớp son phấn quá dày như bả tường. Hồng là vợ nhỏ của trung tá, tiểu đoàn trưởng. Hai người thậm thụt ăn ở với nhau không qua cưới hỏi gì. Họ là nhân ngãi, như các cụ bảo, “già nhân ngãi non vợ chồng”. Nhân ngãi thì người đàn ông cần nhan sắc, còn người đàn bà cần tiền và sự che chở của người đàn ông. Nhiều sĩ quan trong quân lực Sài Gòn thuở ấy Hàm biết đều có vợ nhỏ, kiểu già nhân ngãi non vợ chồng này. Họ ở Sài Gòn có nhân ngãi Sài Gòn. Họ ở Bình Dương, Sông Bé, Huế, Đà Nẵng thì có nhân ngãi ở những nơi đóng quân. Đơn vị hành quân đến đâu, đồn trú ở gần thành phố hoặc vùng quê nào, họ có nhân ngãi ở đó như là sự đương nhiên. Rủng rỉnh tiền lương và hào quang trai thời loạn hấp dẫn đàn bà. Trong giới sĩ quan kháo nhau chuyện của ông trung đoàn trưởng trung đoàn lính thủy đánh bộ đào hoa đến nỗi có tới cả năm cô vợ bé, tất nhiên đều ngoài giá thú. Vợ của gã trung đoàn trưởng trăng hoa này là chủ một vựa nước mắm nổi tiếng ở Phan Thiết, khá giàu có. Bà biết tật của chồng, nuôi hẳn một thám tử tư, tìm ra danh tính và bản quán từng cô vợ hờ của chồng và khéo léo mời họ cùng một ngày đến vựa nước mắm để mở rộng kinh doanh. Những cô vợ hờ đâu có biết kế độc của Hoạn Thư. Năm cô ả tụ tập, không người nào biết người nào bỗng ngã ngửa vì bà chủ công bố danh tính chồng chính danh của mình. Bà chủ không cắt tóc bôi vôi ả nào, chỉ ngọt ngào nói, bữa ni ổng nhà tui về, làm cơm mời mấy em, rồi chia tay. Các em chỉ còn lạy bà chủ như tế sao, rồi ôm nhau khóc.
Hàm cũng học được ở cấp chỉ huy chút đỉnh, kín đáo chăn dắt đôi ba nhân ngãi, trong đó chỉ có Tư là có con nhưng không phải vợ chồng. Hàm hạ thấp mối quan hệ này, coi như là một sự lỡ làng, xui cô đi bệnh viện nạo bỏ, đẩy phần thiệt về phía người đàn bà. Trớ trêu thay, càng về cuối đời, mối nhân ngãi với Tư lại là hạnh phúc mà anh may mắn có được.
Lên tàu di tản, đâu còn vị trí chỉ huy là trung tá, tiểu đoàn trưởng nữa, nhưng Hai Xương vẫn kéo theo được cô ca sĩ vợ bé cùng đi về nơi đất hứa. Những người lính, những sĩ quan cấp dưới không còn nể tiểu đoàn trưởng như trước đó nửa ngày. Ông cũng như họ phải giành giật nhau sống lênh đênh trên mặt biển. Đặt chân lên Cali, đất hứa không giống như lâu nay Hàm và cả đám sĩ quan vẫn tưởng tượng hồi hộp chờ đợi. Để sống được, may thay, Hàm kiếm được việc lái xe cho công ty may. Bấy giờ trung tá, nguyên tiểu đoàn trưởng mới thật sự nhận ra mình chẳng có nghề ngỗng gì ngoài bắn súng và ăn nói ba láp. Ở đây người ta lại không cần người chỉ biết bắn súng vì ông đã luống tuổi. Xem các việc phù hợp với kẻ vô nghề ngỗng, chỉ còn có chân quét dọn nhà vệ sinh công cộng, hoặc làm vườn, hoặc khuân vác ở chợ người Việt. Lắc đầu không chịu làm việc xoàng xĩnh thì đói, nguyên trung tá Xương lần đầu tiên biết cầm chổi và xẻng làm vệ sinh hè phố, năm đô một giờ, ngày làm mười giờ, năm mươi đô, hai tay vơ đủ đút miệng. Cô đào Hồng vốn quen tiêu tiền của chồng, nay chồng cũng chỉ đủ tay làm hàm nhai, khó mà bao bọc cả hai miệng ăn, lại ăn sang quen rồi. Sang Cali được chừng hai tháng, cô đào Hồng bỏ ông Xương sống với một gã người Mỹ, có cửa hiệu bán cream. Điên tiết vì bị phụ tình, máu giang hồ của kẻ vốn từng khét tiếng trong tiểu đoàn biệt động Rừng Xanh sôi lên, Hai Xương giắt súng vào cạp quần tìm đến cửa hiệu chồng mới của cô Hồng. Hai Xương tưởng dọa được tình địch, nào ngờ chồng cô Hồng vốn là lính từng tham chiến ở Việt Nam, may mắn bị một vết thương xoàng để đủ tiêu chuẩn loại ngũ mà lại có lương cao, là một tay cứng cựa.
Hắn nhìn khách không mời, bảo:
“Xin ông đặt súng lên bàn để ta nói chuyện. Đây là nước Mỹ, tình yêu tự do, ai ngăn cản là vi phạm pháp luật. Ông có một khẩu súng ngắn, còn tôi có đến ba khẩu súng dài của ba người bạn ngồi trên gác đang nhìn ông”.
Hai Xương cứng họng, vã mồ hôi hột, không nói câu nào, bước lùi. Lùi ra đến cửa thì đụng chính cô vợ mới của chủ nhà hàng cream đứng đón. Cô đặt vào tay chồng cũ cái gói giấy, bảo:
“Đây là vòng tay, vòng cổ bằng vàng ông tặng tôi, nay xin gửi lại, để tôi với ông không còn liên lụy đến nhau”.
Hai Xương cầm gói giấy ném xuống chân, bước đi.
Mười năm sau Hai Xương mới quay về Sài Gòn.
Bà Thiện, vợ cũ của Hai Xương mở cửa, bảo Hàm:
“Vì hai con mà tôi phải đón cái ông tệ bạc vào nhà. Ổng sống như cái bóng trong nhà từ đó, mặc dù hai con vẫn ân cần chăm sóc ba”.
Hàm bước vào, thấy căn nhà lành lạnh, hỏi bà chủ:
“Thưa chị, ảnh đi đâu?”.
Bà Thiện nói:
“Ổng còn đi đâu ngoài ở nhà, ngồi ở ban công nhìn ra phố và ở bệnh viện nhìn qua cửa sổ. Bệnh tiểu đường biến chứng, ổng đã bị cắt một bên chân, đang ở phòng phục hồi chức năng bệnh viện Nhân Dân”.
Con gái ông đưa Hàm đến bệnh viện.
Cô gái chỉ dặn Hàm có một câu:
“Chú ơi, ba con yếu lắm rồi. Lát gặp ổng, chú đừng nói gì về má con”.
Hàm chợt nghĩ, đó là gia đình không bình thường, do người đàn ông gây nên. Gia đình vợ chồng ở dưới một mái nhà mà không nói về nhau thì sống sao cho hết ngày.
Hàm đoán chắc là anh Hai nhiều tâm sự nhưng không thể tin người đàn ông bấy bá ngồi trên xe đẩy là trung tá, tiểu đoàn trưởng hùng dũng ngày nào, mở miệng là đù má với choa, coi trời bằng cái vung, bây giờ đôi mắt núp sâu dưới hàng lông mi bạc và bọng mắt sưng to, đờ đẫn. Hai Xương nhìn người đến trước mặt mãi cho đến khi con gái giới thiệu, đến thăm ba là chú Hàm, ông Hai mới đưa tay nắm lấy tay khách rồi nhắc con gái đẩy xe ra hành lang để ông tiện nói chuyện. Hàm nghĩ ngồi với nhau sau bao năm xa, anh Hai sẽ hỏi vô vàn chuyện về Cali, thậm chí cả chuyện cô đào Hồng với gã bán cream, và sẽ nói với anh bao nhiêu điều từ khi về sống ở Sài Gòn cùng những kinh nghiệm sống của người xa xứ trở về quê. Nhưng không, ông chẳng nói chuyện gì, chỉ bóp bóp tay Hàm, nói:
“Phải rồi, phải rồi”.
Hàm không biết ông nói “phải rồi” là có ý gì, hỏi:
“Anh Hai dạy gì em?”.
Ông ngửa cổ cười hờ hơ, bảo:
“Phải rồi. Mi về là phải rồi chứ còn dạy gì”.
Lại ngồi nhìn nhau một lúc, anh Hai bất ngờ rút từ trong cái bao vải đeo bên sườn một bộ bài tú lơ khơ đã cũ, bảo:
“Choa với mi thử vận may một lần. Mi cứ tráo, rồi rút một quân ở giữa, ở trên hoặc ở dưới bộ bài đều được. Nếu mi rút được quân đỏ, thì choa thua, rút phải quân đen thì nghĩa là choa thắng. Thắng thua chỉ mất hoặc được một nghìn đồng”.
Hàm cầm hờ hững bộ bài trên tay, không tráo cũng không rút. Quả thật anh không thể hiểu ông Hai Xương định chơi trò gì. Hết chuyện rồi hay sao mà lại phải chơi tú lơ khơ đen đỏ vào lúc vừa gặp mặt nhau sau mấy chục năm xa. Anh Hai còn tỉnh táo hay đã lú lẫn?
Thấy Hàm ngồi cầm bộ bài, anh Hai giục:
“Mi tráo bài đi”.
Hàm làm theo như cái máy, rồi hú họa rút một cây bài, chìa ra con tám nhép.
Ông Hai bảo:
“Vậy là mi thua, choa thắng một nghìn. Mi xì tiền cho choa”.
Hàm làm theo yêu cầu, rút một nghìn đồng đặt vào anh Hai. Nhưng anh Hai lại bảo:
“Số mi đen. Choa trả lại tiền cho mi, để mi tìm lại vận đỏ”.
Anh Hai nói:
“Thắng mi, nên choa mới nói, rồi mi sẽ lại như choa, về thì yên thân. Về nhà chẳng ai thù ghét mi, chẳng ai để ý đến mi, cũng chẳng ai dùng mi vào việc gì. Ở Cali uống bia muốn tè một bãi, phải vào toa lét nếu không muốn bị phạt. Còn ở đây, uống bia, ghé vào gốc cây mà xả, chẳng ai bảo gì. Thế mới sướng. Thế rồi mi sẽ như choa, chẳng biết làm gì, ngoài việc đánh cờ, chơi đỏ đen, chơi xổ số cho hết thời gian. Khi có việc, nhiều người nhờ vả thì cáu kỉnh, khó chịu. Khi không còn ai để ý đến nữa, thì mình như người thừa. Nhiều khi buồn quá, choa vác bàn cờ ra hè phố, bày sẵn quân, chờ ai đó ngang qua đi cho vài nước cho đỡ buồn. May mắn gặp được một tay ham cờ, đánh ván cuối cùng, choa phải giả ăn gian để có người ngồi đối diện cãi nhau thêm chút nữa, cho vui. Mi vẫn nghe choa nói đấy chứ?”.
“Dạ, em đang nghe trung tá…”.
Hàm tự thấy lỡ mồm, chưa kịp nói lại, thì anh Hai nhổ phì phì:
“Trung tá cái cứt. Danh vọng cái cứt. Choa chỉ nói mi về hơi muộn”.
“Muộn cái gì?” - Hàm hỏi.
“Muộn ráo trọi. Muộn trút bỏ ảo tưởng. Muộn nhận ra Cộng sản không phải kẻ thù. Muộn hàn gắn lại những thứ mình đã làm vỡ. Muộn nhiều thứ. Nhưng thôi, muộn còn hơn không”.
Hàm ngồi với anh Hai cho đến tận lúc y tá thúc giục khách đến thăm người bệnh phải rời bệnh viện. Hàm phải nhờ con gái anh Hai khai với trực phòng hồi sức, báo anh là người nhà, thay con gái ở lại với bệnh nhân một đêm. Lâu lắm rồi Hàm mới ngủ chung với một người lại là đàn ông, trên cái giường trải ga trắng bé tí. Đêm đó, anh đang lơ mơ ngủ thì điện thoại rung trong túi quần. Giờ này, bên Cali chắc là sắp sáng. Sao nàng dậy sớm vậy. Chắc là Jena nằm bên chồng, nên không nói, mà nhắn tin:
“Anh biết em nhớ anh vì điều gì không?”.
Hàm nhắn lại:
“Anh nhạt nhẽo và vô duyên, có gì mà em đáng nhớ”.
Tin Jena nhắn lại:
“Vậy anh không biết về anh rồi. Em nhớ anh về mùi”.
Hàm:
“Eo, chắc là phải bịt mũi”.
“Mùi cơ thể của anh không thơm mà ngai ngái khét. Con bạn của Jena có chồng là vận động viên bóng chày, bảo, đàn ông có mùi khen khét thì lúc nào làm tình cũng sung mãn”.
Hàm nhắn:
“Khiếp”.
Không thấy nàng nhắn lại.
Hàm quay ra, định nói chuyện với ông Hai Xương, nhưng ông đã ngủ rồi. Con người này đúng là chả có chuyện gì để lo. Hàm cũng ngủ một đêm ngon lành.