Một vấn đề không dễ thực hiện. Ngay cả những người lớn, đôi lúc, cũng không nghe ngay từ lần đầu tiên. Bạn cũng thường xuyên nghe thấy người ta phàn nàn với chồng, với nhân viên, với đồng nghiệp: “Tôi nói với anh như nói với bức tường vậy. Bạn cần phải phá vỡ bức tường. Nếu như vậy làm sao tôi có thể nói người khác được đây?”
Những đồng nghiệp lắng nghe ngay từ lần đầu tiên sẽ không cần bạn phải kiểm soát họ. Ở họ, tính tự kiểm soát phát triển cao và luôn có cách tiếp cận vấn đề đúng đắn. Những người như vậy sẽ nhận được sự tôn trọng từ đồng nghiệp và làm việc với họ cũng rất dễ dàng.
Tất cả những người lớn, dù là những người lắng nghe ngay từ lần đầu tiên, những người không nghe hay phải nói đến lần thứ 10 mới nghe đều từng là những đứa trẻ. Nếu ngay từ khi còn nhỏ, bạn đã quen với việc lắng nghe từ lần đầu tiên thì xác suất lớn là kỹ năng này sẽ được kéo dài đến suốt cuộc đời.
Chúng ta có công thức rèn luyện như sau:
1. Trước tiên, hãy chắc chắn rằng trẻ đang chú ý lắng nghe bạn
Thường thì lũ trẻ sẽ không nghe thấy gì khi đang đắm chìm vào trò chơi hay hoạt động sáng tạo nào đó. Chính bản thân tôi khi viết lách hoặc ngồi làm việc, phát triển một chương trình đào tạo, huấn luyện nào đó tôi tập trung đến độ quên hết mọi chuyện đang diễn ra xung quanh. Khi đó, để tôi có thể nghe thấy, bạn phải gọi rất lớn hoặc chạm vào người tôi. Cách thứ hai: chạm vào người có vẻ dễ chịu hơn bởi tôi không thích những âm thanh lớn. Vì vậy, tôi cũng dùng cách này để tiếp cận với người khác. Đặt một tay lên vai họ để thu hút sự chú ý hoặc xoay họ lại một chút về phía mình. Chỉ khi chắc chắn rằng mình đã thu hút được sự chú ý của đối phương tôi mới bắt đầu nói.
Bạn đã bao giờ nói chuyện với một đứa trẻ nhỏ đang có chuyện quan trọng muốn nói nhưng không thể diễn đạt rõ ràng chưa? Để giữ sự chú ý, ở những tình huống như vậy, trẻ thường giữ chặt đầu người lớn bằng cả hai tay. Vâng, giữ chặt để người lớn không thể quay lưng lại bởi nếu họ quay đi, họ sẽ không nghe được thông tin quan trọng. Tôi nhớ từng có lần, bố tôi, ông ngoại thằng nhóc Arseny 2 tuổi đã phải thốt lên: “Được rồi Arseny, ông đang chăm chú lắng nghe cháu đây. Nhưng cháu có thể bỏ tay ra khỏi tai ông được không?”
Tất nhiên việc giữ tai đứa trẻ khi giao tiếp với chúng là điều hoàn toàn thừa thãi. Thay vào đó, bạn có thể giữ vai chúng. Về nguyên tắc, việc đó đủ để thiết lập giao tiếp bằng mắt. Nếu đối phương nhìn thấy tôi thì xác suất họ lắng nghe tôi sẽ tăng đáng kể. Những điều bạn nói sẽ khó trôi qua tai khi giữa bạn và người nghe có sự trao đổi qua ánh mắt. Tôi cũng nhiều lần quan sát lũ trẻ tôi từng dạy ở trường mẫu giáo. Khi chúng muốn nói điều gì đó với bạn bè, chúng dùng hai tay xoay người đó lại đối diện mình. Chúng chân thành muốn được lắng nghe.
Còn một cách giao tiếp khác cũng rất quan trọng − giao tiếp bằng tên gọi hoặc giao tiếp đơn giản. Những gì được nói ra thiếu sự giao tiếp sẽ là những giao tiếp không đi đến đâu và không mang lại hiệu quả gì. Từ kinh nghiệm trong các hoạt động sư phạm của mình, tôi có thể rút ra kết luận rằng: những câu nói không có sự liên quan, ràng buộc cụ thể “Dọn dẹp đồ chơi thôi nào” sẽ không hiệu quả bằng “Các con, tất cả hãy ngước mắt nhìn cô! Đã đến giờ ăn trưa. Chúng ta bắt đầu dọn dẹp đồ chơi nào”.
2. Hãy chắc chắn rằng đứa trẻ đã thực sự nghe thấy bạn
Nghe và nghe thấy là hai việc khác nhau. Về mặt thị giác, một người đang nghe, nhìn vào mắt bạn, gật gù cái đầu nhưng thực tế suy nghĩ của anh ta đang ở đâu đó rất xa. Khi đó câu hỏi phù hợp nhất là: “Bạn có nghe thấy tôi không? Nãy giờ tôi đang nói gì? Katria, bây giờ chúng ta sẽ làm gì?” Nếu câu trả lời trùng khớp với những gì bạn nói nãy giờ thì xin chúc mừng, bạn đang được lắng nghe, anh ta nghe thấy bạn.
- Arseny, bữa tối sẽ sẵn sàng trong năm phút nữa. Dừng trò chơi lại đi con.
- Ừ hứ.
- Ừ hứ? Ý con là gì đây?
- Con hiểu bữa tối sẽ bắt đầu sau năm phút nữa và con đang kết thúc trò chơi đây mẹ.
Hãy thực sự lắng nghe con
3. Hãy thảo luận về hậu quả
“Tôi cứ nói, nói và nói. Nói với bạn như nói với bức tường vậy”. Vâng, tại sao lại phải nghe thấy từ ngay lần đầu tiên nếu người nói sẽ nhắc lại lần thứ ba, thứ năm? Để người nghe nghe thấy bạn từ ngay lần đầu tiên, bạn chỉ nên nói duy nhất một lần. Hãy cảnh báo về hậu quả: “Mẹ sẽ không dọn bàn ăn lần thứ hai đâu. Ai không ngồi vào bàn ăn đúng giờ sẽ phải chịu đói”. Ai không dọn đồ chơi buổi tối sẽ không có đồ chơi để chơi. Ở trường mẫu giáo, chúng tôi có nguyên tắc chung: “Ai không dọn dẹp đồ chơi sau khi chơi, người đó sẽ không được sử dụng đồ chơi”. Ai không nghe thấy: “Hãy mang chiếc quần bẩn cho mẹ. Mẹ sẽ giặt đồ bây giờ đây”, người đó sẽ phải tự giặt đồ của mình bằng tay. Đó không phải bởi vì mẹ lười biếng. Đó là bởi vì ngày mai con sẽ cần mặc chiếc quần này, còn máy giặt thì không nên sử dụng vào buổi tối bởi tiếng ồn của nó có thể ảnh hưởng đến giấc ngủ của hàng xóm trong cùng khu nhà.
Ai không nghe: “Hãy nhanh chóng mặc quần áo. Chúng ta sẽ xuất phát sau 10 phút nữa nếu không sẽ đến muộn giờ chiếu phim”, người đó chắc chắn sẽ đến trễ hoặc phải ở nhà.
Tất nhiên, để những cảnh báo đó thực sự có hiệu quả, những điều kiện quy định luôn luôn cần được thực hiện.
CHÚ Ý! Những bổ sung quan trọng, bắt buộc phải đọc trước khi áp dụng công thức.
✓ Hãy là tấm gương cho con. Có nghĩa, chính bạn cũng phải lắng nghe con từ lần đầu tiên con nói.
✓ Những yêu cầu đưa ra cần phù hợp với độ tuổi của trẻ. Sẽ không hợp lý khi bạn yêu cầu trẻ: “Đồ chơi phải được dọn sạch sẽ sau 10 phút”, nếu trẻ vẫn chưa biết xác định thời gian và không xác định được 10 phút sẽ là bao lâu.
✓ Không bỏ qua điểm thứ nhất và thứ hai để vội vàng áp dụng ngay điểm thứ ba.
✓ Hậu quả phải là hậu quả chứ không phải là một hình thức đe dọa. Có nghĩa, hậu quả là thứ tự nhiên, xảy ra sau một loạt các hành động do con gây ra trước đó. “Nếu con không ngồi vào bàn ăn bây giờ, con sẽ phải chịu đói” − đó là hậu quả tự nhiên. “Nếu con không ngồi vào bàn ăn, mẹ sẽ đổ súp vào đầu con” − đó là đe dọa.