Đã có thời điểm hễ Josie khoe với tôi một bức tranh ngón tay nào là tôi lại nổ ra cả tràng tâng bốc mà không cần suy nghĩ. Nhưng tôi sớm nhận thấy cả hai chúng tôi đều không mấy tập trung vào bức tranh: Con chỉ cố gắng để được khen còn tôi như cái máy luôn ở chế độ khen tự động. Từ đó, tôi tiết chế hơn và bắt đầu làm theo lời khuyên của nhà lý luận giáo dục Alfie Kohn. Tuy ít khi đồng tình với ông nhưng tôi vẫn thích quan điểm của ông về cách nói chuyện với trẻ sao cho bổ ích, thay vì cứ ca mãi những bài ca cũ rích. Trong cuốn Punished by Rewards (Tạm dịch: Những phần thưởng chẳng khác nào hình phạt), Kohn cảnh báo về việc trẻ em hiện nay đang bị “nghiện” lời khen. Lời khen đối với chúng vĩnh viễn là liều thuốc gây nghiện cần được chích kịp thời; chúng không thể tự đánh giá thành quả công việc của mình mà phải phụ thuộc vào ý kiến của người khác. Cũng theo ông, người lớn hãy mô tả, mà không phán xét thành quả của trẻ và khen suông. Chẳng hạn tôi có thể ngắm thật kỹ những bức tranh của Josie, rồi bình phẩm: “Ôi chao, nhìn những chiếc răng nanh của con thỏ hút máu này, con vẽ chúng to thật đấy!” hay: “Làm thế nào mà con vẽ được cái đống nội tạng này trông như thật thế?” Hoặc khi Maxie tự biết mặc quần áo, tôi sẽ không tán thưởng nữa mà chỉ nhận xét: “À con tự mặc quần áo xong rồi đấy ư! Hôm nay con chọn đồ kẻ sọc và chấm bi đẹp nhỉ!” Kohn cũng kiến nghị giáo viên và phụ huynh không nên tán tụng trẻ, mà hãy đặt nhiều câu hỏi để giúp chúng suy ngẫm về những việc mà chúng vừa hoàn thành, chẳng hạn như: “Khi con làm bức tượng này thì phần nào là khó nhất?”; “Vì sao con lại chọn những màu này?”; “Con làm cùng những bạn nào? Các con chia việc ra sao? Các con hợp tác với nhau như thế nào?” Còn khi trẻ làm một việc tử tế hoặc thể hiện sự quan tâm tới ai đó, hãy chỉ cho chúng thấy hành vi này đã tác động thế nào tới họ: “Con có thấy vẻ mặt bé Shirley không? Bé đã rất vui khi con giúp bé xây lâu đài cát đấy.” Bạn có thể tăng dần mức nghiêm khắc theo độ tuổi của trẻ. Josie giờ đây đã bước sang tuổi vị thành niên và mẹ con tôi từng nhiều lần tranh cãi xung quanh chất lượng công việc của cháu. Cháu thường nhờ tôi đánh giá phần bài tập về nhà mà cháu đã hoàn thiện vào đêm trước hạn nộp bài, và tôi sẽ bắt cháu viết lại nếu phát hiện một vài lỗi chấm câu hoặc những từ bổ nghĩa bị đặt sai chỗ. Tôi thường nói với cháu: “Hãy chép lại và soát lỗi trước rồi hẵng đưa cho mẹ”. Đôi lúc con bé trợn mắt lên, giật lại tập giấy và cằn nhằn vì tôi đã quá khắt khe. Nhưng tôi nghĩ Josie cũng hiểu rằng, một khi tôi khen bài làm của cháu thì đó là những lời khen toàn tâm toàn ý (tôi không tẩy chay những lời khen như Kohn mà đơn giản là một người biết khen có chọn lọc).
Nếu bạn chỉ thích nghe những lời có cánh như “tuyệt vời” hay “kỳ diệu” và “không cần phải thay đổi gì thêm” mỗi khi hoàn thành công việc, thì những phản hồi mang tính xây dựng có lẽ không dành cho bạn. Nhưng coi nào, chúng ta đều biết hầu như chẳng ai có thể hoàn tất công việc một cách hoàn hảo. Khi bước chân vào thế giới thực, con bạn sẽ phải đối mặt với những lời bình luận và chỉ trích thực sự. Nếu trẻ biết cách đón nhận và xử lý chúng thay vì “nhũn” ra, rồi suy sụp như một chiếc khăn giấy bị nhúng nước thì chẳng phải tốt hơn sao. Những lời khen chân thành mới là người bạn tốt, dù không phải lúc nào chúng ta cũng nhìn nhận đúng giá trị của chúng. Giờ đây mỗi khi tôi thể hiện sự hào hứng trước một bức tranh của Maxie hay một bài tranh biện của Josie, chúng biết rằng tôi hoàn toàn thành thật và những lời khen của tôi do đó còn tăng giá trị lên gấp bội.
Hãy để dành lời khen khi trẻ làm việc tốt một cách hoàn toàn tự nguyện, chẳng hạn như cho đồ bẩn vào máy giặt giúp anh (chị/em); giúp bạn cùng lớp làm bài tập về nhà qua điện thoại; tỏ ra kiên nhẫn với một em nhỏ mới biết đi đến chơi nhà; hay dồn hết nỗ lực để tất cả các bạn tham gia tiệc ngủ đều cảm thấy thoải mái; đọc sách cho em nhỏ nghe; và tự giác soát tất cả các ngăn kéo quần áo để loại những đồ không mặc vừa mà không đợi cha mẹ nhắc nhở. Những hành động ấy, chứ không phải điểm kiểm tra, mới là những điều đáng để gây ấn tượng.
Bạn cũng có thể khen ngợi những hành vi mà bạn thấy ngưỡng mộ ở người khác. Hãy cùng con phân tích những tấm gương cư xử đẹp hoặc can đảm mà bạn đọc được trong một tờ báo hoặc cuốn sách. Vài năm trước đây, khu phố nhà chúng tôi xảy ra một vụ nổ cực lớn mà nguyên nhân là do đấu nối gas trái phép. Vụ nổ làm hai người tử vong. Đó là khoảng thời gian buồn và đáng sợ. Nhưng khi quan sát diễn biến vụ nổ trên ti-vi, chúng tôi thấy mọi người xung quanh đã không bỏ chạy mà lao về phía đám mây khói khổng lồ. Một anh lính cứu hỏa lớn tuổi với cái bụng bự mặc dù đã hết giờ làm nhưng vẫn cuống cuồng leo lên thang thoát hiểm và đập mạnh các cửa sổ để kiểm tra xem có ai bị mắc kẹt bên trong không. Đúng lúc đó, các em của các bạn cùng lớp với Josie đang băng qua đường để trở về nhà ở cách đám cháy nửa khu phố. Một người không quen biết đã dồn các bé vào một nhà hàng, cho các bé ăn, trông giữ các bé an toàn và còn bày trò để dỗ các bé cho tới khi được đoàn tụ với gia đình. Đó là những tấm gương mà chúng tôi muốn các con mình học tập. Hãy chú trọng dạy trẻ biết sống tử tế, chứ đừng chỉ lo cho lòng tự trọng của chúng.
Bạn có thể hài lòng khi thấy con cư xử đúng mực, nỗ lực làm việc hoặc biết cách kiểm soát những cảm xúc khó chịu. Cũng là lẽ thường tình nếu trẻ có buồn bã, tức giận, ghen tức hoặc xấu hổ. Nhưng điều ấn tượng là: Chúng có thể nói ra những cảm xúc ấy thay vì giận dữ chỉ trích, tìm cách tự xoa dịu, cố gắng tự kiềm chế bằng cách rời khỏi phòng hay hít thở sâu vào lúc muốn bùng nổ nhất. Vào quãng thời gian khi Maxie sáu tuổi và chuẩn bị kết thúc năm học, một tối vào giờ đi ngủ, cháu lo cuống lên rồi khóc nức nở khi nghĩ tới những giờ học bơi mà cháu sắp phải tham gia ở trại hè. Dù chính cháu không thể giải thích rõ nguồn cơn, nhưng tôi có thể thấy rõ cháu đang lo lắng. Rồi cháu cũng tìm ra cách để lấy lại tự chủ. Cháu ra khỏi giường để đi lấy cho tôi cuốn các hình xăm đương đại và nói: “Một hình xăm sẽ giúp con bình tâm trở lại. Nước ấm chườm nơi cánh tay sẽ đánh lạc hướng suy nghĩ của con, nó sẽ khiến con nhìn ngắm hình xăm xinh đẹp này và cảm thấy vui.” Thế là tôi dán cho cháu một hình xăm hoa violet lên cánh tay, rồi dịu dàng chườm vết xăm thật lâu, lâu hơn nhiều so với thời gian cần thiết theo chỉ dẫn. Còn cháu thì đã đủ thả lỏng để trả lời những câu hỏi của tôi. Khi biết lý do là vì cháu sợ bị ép phải lặn, tôi đã trấn an cháu bằng cách kể về một trải nghiệm của chính mình, trong lần đi trại hè do Hiệp hội thanh niên Cơ đốc tổ chức trên đảo Rhode: Lúc đó tôi đã bị tay quản trại lừa. Anh ta nói sẽ không đẩy tôi xuống bể bơi, nhưng sau khi tôi tin anh ta và cúi đầu, co cằm xuống trước ngực, thì lập tức bị anh ta đẩy xuống nước. Tôi hứa với Maxie rằng sẽ gửi email đề nghị giám đốc trại không để điều tương tự xảy ra với cháu. Cháu lại nói sẽ lo không thể ở dưới nước được, tôi liền nhắc là cháu đã làm thế nhiều lần ở bể bơi. Rồi tôi khen ngợi cháu vì đã tìm được cách để trấn tĩnh và nói cho tôi nghe về những điều đang làm cháu lo lắng. Cháu còn lo không biết ai sẽ là giáo viên môn bơi của mình. Trong việc này tôi không thể trợ giúp vì phải đợi đến lúc tham gia trại hè mới biết được cháu được xếp vào nhóm nào, nên chỉ nói: “Đã đi đến cầu thì phải qua cầu.” Và đúng như tôi mong đợi, không lâu sau đó cứ mỗi khi gặp khó khăn là Maxie liền nhắc lại: “Đã đi đến cầu thì phải qua cầu.” Lòng tự trọng của trẻ còn được bồi đắp khi chúng biết tự kiểm soát, tự quyết định trì hoãn một niềm vui thích hoặc một cơn bùng nổ, và tự ý thức về công việc khó khăn mà mình đang thực hiện. Là một nhà tâm thần học, cha tôi phải làm việc với những người gặp vấn đề nặng về tâm thần. Tôi thường đùa ông rằng mình là đứa con còn tỉnh táo duy nhất của một nhà tâm thần học. Tôi cho rằng tâm thần mình ổn. Cha tôi chẳng mấy quan tâm tới những chứng bệnh thần kinh thông thường nên cái sự điên rồ của tôi không bị lọt vào tầm ngắm của ông. Vì thế quá trình trưởng thành của tôi không bị đặt dưới một chiếc kính hiển vi để săm soi, trị liệu và phán xét. Đối tượng tìm hiểu của cha tôi là những người bị tâm thần phân liệt, các thanh niên gặp vấn đề trong các nhà chăm sóc cộng đồng và những người mắc bệnh mất trí trong các viện dưỡng lão. Mùi hôi trên cơ thể họ không làm ông bận tâm, những lời la hét, chửi bới hoặc hoang tưởng của họ không khiến ông lùi bước. Ông thực sự thích những người điên. Ông chỉ thực hiện một liệu pháp tâm thần học duy nhất với tôi lúc tôi còn bé, đó là, mỗi khi tôi và em trai chuẩn bị xích mích với nhau, hoặc bắt đầu hăng máu và chuẩn bị cãi lộn, ông liền bắt chúng tôi phải dừng lại, đi đến chỗ ông để thông báo: “Con muốn bố nghe con chút ạ.” Tôi nhớ mình bị bắt phải nói câu đó từ lúc lên năm tuổi, còn em trai tôi từ lúc lên ba. Thời điểm đó, bố đã giảng giải rằng chúng tôi có thể kiểm soát hành vi của mình và có những kỹ năng để nhận ra mình bắt đầu mất kiểm soát trước khi bị rối trí thực sự, nhưng cứ yên tâm là ông luôn sẵn sàng ở bên để giúp chúng tôi đánh lạc hướng.