• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Minh chứng thiên đường
  3. Trang 30

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 29
  • 30
  • 31
  • More pages
  • 45
  • Sau

25Chưa trở lại hoàn toàn

Bond không phải là người duy nhất cảm thấy khó lòng chấp nhận được tình trạng dở dở ương ương không thể phủ nhận của tôi trong suốt những ngày đầu khi tôi mới tỉnh lại. Một ngày sau hôm tôi tỉnh lại - là thứ Hai - Phyllis gọi và nói chuyện với Eben IV trên máy tính qua Skype.

“Eben, cha của cháu đây”, Phyllis vừa nói vừa điều chỉnh camera về hướng tôi.

“Chào cha! Cha thế nào rồi ạ?”, thằng bé vui vẻ nói.

Trong một phút sau đó, tôi chỉ nhe răng cười rồi nhìn chằm chằm vào màn hình. Nhưng cuối cùng, khi tôi bắt đầu mở miệng thì Eben lại càng bối rối hơn. Tôi nói chậm kinh khủng, và những lời tôi nói ra đều chẳng có nghĩa. Về sau, Eben kể lại với tôi: “Cha nói nghe như xác sống - giống như một người nghiện ma túy đang bị hoang tưởng nặng”.

Thật không may, vì thằng bé đã không được báo trước về khả năng tôi có thể bị chứng rối loạn tâm thần ICU.

Dần dần, chứng hoang tưởng của tôi giảm bớt, suy nghĩ và lời nói của tôi cũng trở nên rõ ràng hơn. Hai ngày sau khi tỉnh lại, tôi được chuyển về Khu Chăm sóc Thần kinh Giảm nhẹ. Các y tá ở đó đưa cho Phyllis và Betsy mấy cái giường xếp nhỏ để họ có thể ngủ bên cạnh tôi. Tôi chẳng tin ai ngoại trừ hai người này - họ khiến tôi cảm thấy an toàn, gắn kết tôi với thực tại mới của mình.

Vấn đề duy nhất là tôi không ngủ. Cả đêm tôi không để họ ngủ, huyên thiên đủ thứ chuyện, về Internet, về các trạm không gian, về những gián điệp hai mang của Nga, và những thứ nhảm nhí tương tự. Phyllis cố thuyết phục các y tá rằng tôi bị ho, hy vọng họ sẽ cho tôi một ít xi-rô ho để cả ba có thể ngủ yên trong ít nhất một, hai tiếng. Tôi giống như một đứa trẻ sơ sinh chưa thể ngủ đúng giờ giấc vậy.

Những lúc yên ắng hơn, Phyllis và Betsy giúp kéo tôi từ từ về lại với cuộc sống trên trái đất. Họ nhắc lại đủ thứ chuyện từ thời thơ ấu của chúng tôi, và mặc dù chuyện nào tôi cũng nghe như thể mới nghe lần đầu, những chuyện đó vẫn khiến tôi thích thú. Họ càng nói, tôi càng cảm thấy một điều gì đó quan trọng bắt đầu le lói bên trong tôi - đó là sự nhận ra rằng bản thân tôi thật sự đã ở đó và trải nghiệm những sự kiện này.

Hai em gái của tôi sau này kể lại rằng chẳng mất bao lâu, họ đã có thể nhìn thấy lại người anh trai mà họ từng biết, qua màn sương mù dày đặc của hàng tràng những lời hoang tưởng của tôi.

“Thật kỳ diệu”, sau này Betsy kể lại. “Anh chỉ vừa mới tỉnh khỏi cơn hôn mê, vẫn chưa hoàn toàn nhận thức được là mình đang ở đâu hay chuyện gì đang xảy ra, vẫn nói những chuyện điên khùng hết một nửa thời gian, nhưng khiếu hài hước của anh thì vẫn không chê vào đâu được. Rõ ràng anh vẫn là anh. Anh đã quay trở lại!”

Về sau Phyllis kể thêm: “Một trong những việc đầu tiên anh làm là pha trò về việc anh muốn tự ăn. Tụi em đã chuẩn bị tinh thần là sẽ đút anh ăn từng muỗng đến bao lâu thì tùy. Nhưng không lần nào anh để tụi em làm việc đó. Anh nhất quyết tự xúc ăn từng miếng thạch Jell-O màu cam đó”.

Khi bộ máy trí não bị ngưng hoạt động tạm thời của tôi hồi phục được nhiều hơn, tôi quan sát thấy mình đang nói hoặc làm một điều gì đó và ngạc nhiên tự hỏi: cái đó từ đâu ra vậy? Trước đó, một người bạn từ Lynchburg tên là Jackie ghé thăm. Holley và tôi biết rõ Jackie và chồng của cô ấy, Ron, vì chúng tôi đã mua căn nhà hiện tại của mình từ họ. Không có sự chuẩn bị nào trước đó, phong cách quảng giao của người miền nam của tôi tự động phát huy. Vừa nhìn thấy Jackie, tôi lập tức hỏi: “Ron thế nào?”.

Sau đó vài ngày, tôi bắt đầu có những cuộc hội thoại thi thoảng vô cùng mạch lạc với các vị khách đến thăm và lại một lần nữa, thật đáng kinh ngạc khi thấy những sự kết nối này bộc phát ra một cách tự động mà không cần chút nỗ lực nào từ tôi. Như một chiếc máy bay phản lực đang ở chế độ lái tự động, bộ não của tôi, như có một sự thỏa thuận nào đó, đã thích nghi được với những khung cảnh thuộc về đời sống con người đang càng lúc càng trở nên quen thuộc này. Tôi đang tận mắt chứng kiến một chân lý mà tôi đã biết quá rõ khi còn là một bác sĩ giải phẫu thần kinh: bộ não là một cơ chế thật sự kỳ diệu.

Tất nhiên, câu hỏi không nói ra trong tâm trí của tất cả mọi người (trong đó có tôi, trong những lúc tỉnh táo hơn) là: Tôi sẽ hồi phục đến mức nào? Tôi có thật sự sẽ trở lại hoàn toàn như trước không, hay có phải vi khuẩn E. coli đã làm tổn thương ít nhất là một phần nào đó của bộ não của tôi, như sự tiên đoán chắc chắn của tất cả các bác sĩ? Sự chờ đợi ngày này qua ngày khác hành hạ tất cả mọi người, đặc biệt là Holley - với nỗi lo sợ rằng tiến trình hồi phục kỳ diệu của tôi sẽ đột nhiên dừng lại, và cô ấy chỉ còn lại bên mình một phần của “tôi” mà cô ấy từng biết.

Nhưng ngày qua ngày, “tôi” càng lúc càng trở về nhiều phần hơn. Ngôn ngữ. Ký ức. Nhận thức. Cái cá tính hay đùa nghịch mà mọi người đã luôn nhìn thấy ở tôi cũng quay trở về. Và dù mọi người đều mừng khi thấy óc hài hước của tôi quay trở lại, hai em gái của tôi thì không phải lúc nào cũng mừng rỡ đón nhận cách mà tôi sử dụng nó. Chiều thứ Hai, Phyllis sờ tay lên trán tôi và tôi giật nẩy người.

“Á”, tôi thét lên. “Đau!”

Rồi, sau khi khoái chí nhìn vẻ kinh hãi của mọi người, tôi mới nói: “Giỡn thôi mà”.

Tất cả mọi người đều kinh ngạc trước tốc độ hồi phục của tôi, trừ chính tôi. Tôi, cho đến lúc này, không có manh mối nào để xác định liệu tôi đã thật sự gần kề với cái chết đến mức nào. Khi lần lượt từng người trong gia đình và bạn bè trở lại với cuộc sống của họ, tôi chúc họ mạnh khỏe và vẫn vô tư chẳng biết gì về bi kịch mà mình vừa thoát được chỉ trong gang tấc. Tôi sôi nổi, hào hứng đến độ một trong các bác sĩ thần kinh, khi đưa ra đánh giá về việc có nên cho tôi vào khu phục hồi chức năng hay không, đã khẳng định rằng tôi “quá hưng phấn”, và rằng có lẽ não của tôi đã bị tổn thương. Vị bác sĩ này, cũng giống như tôi, là một người thích đeo nơ bướm, và sau khi anh ta rời đi, tôi đáp lại chẩn đoán đầy thiện chí của anh ta bằng cách nói với các em tôi rằng anh ta “thể hiện sự vô cảm khác thường so với một kẻ mê đeo nơ bướm”.

Ngay cả khi đó, tôi vẫn biết một điều mà càng lúc càng nhiều người xung quanh tôi cũng dần chấp nhận. Dù theo hay không theo nhận định của các bác sĩ, tôi chẳng ốm đau hay bị một tổn thương nào ở não cả. Tôi hoàn toàn ổn.

Thực chất - dù cho đến thời điểm ấy chỉ có mình tôi biết điều này - đây là lần đầu tiên trong suốt cuộc đời của mình, tôi hoàn toàn và thật sự “ổn”.

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 29
  • 30
  • 31
  • More pages
  • 45
  • Sau