• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Minh chứng thiên đường
  3. Trang 34

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 33
  • 34
  • 35
  • More pages
  • 45
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 33
  • 34
  • 35
  • More pages
  • 45
  • Sau

29Trải nghiệm của nhiều người

Cuối cùng ngày đó cũng tới - ngày tôi hoàn thành việc viết ra tất cả mọi thứ trong khả năng của mình, mọi ký ức sau cùng mình có thể ghi nhớ về Cảnh Giới Tầm Nhìn Của Giun Đất, Lối Vào, và Cốt Lõi.

Bây giờ là lúc dành cho việc đọc. Tôi lao vào ngụp lặn trong một đại dương sách và tài liệu về trải nghiệm cận tử - một đại dương mà trước đó tôi thậm chí chưa bao giờ nhúng một ngón chân vào. Chẳng mất bao lâu để tôi nhận ra rằng có vô số những người khác đã trải qua những điều giống như mình, cả trong những năm gần đây và hàng thế kỷ trước. Những trải nghiệm cận tử không hoàn toàn giống nhau, mỗi trải nghiệm đều có sự khác biệt - nhưng những yếu tố tương tự thì xuất hiện lặp đi lặp lại, và tôi nhận ra nhiều điểm giống với trải nghiệm của mình. Những chi tiết như đi qua một đường hầm hay một thung lũng tối tăm rồi đến một khung cảnh rực rỡ và sống động - siêu thực - đã có từ thời Hy Lạp và Ai Cập cổ đại. Những sinh vật thiên thần - ít nhất từ thời Cận Đông cổ đại, đôi khi có cánh, đôi khi không - xuất hiện, giống như niềm tin rằng những sinh vật này là những thiên thần hộ mệnh luôn dõi theo từng hoạt động của con người trên trái đất và chào đón họ khi họ rời bỏ trái đất này. Cảm giác về khả năng nhìn được đồng thời mọi hướng; cảm giác về sự tồn tại bên trên thời gian tuyến tính - tồn tại bên trên mọi thứ, về cơ bản, tức là những gì mà trước kia tôi từng nghĩ đến khi định nghĩa toàn cảnh cuộc sống loài người; việc nghe thứ âm nhạc tựa như thánh ca, đi thẳng vào bên trong toàn bộ thân thể và tâm thức mình thay vì chỉ đi vào đôi tai; sự lĩnh hội trực tiếp và tức thì, không cần chút nỗ lực nào, những khái niệm mà thông thường phải mất một thời gian rất lâu và rất nhiều sự học hỏi mới có thể hiểu được; cảm nhận sức mạnh của tình yêu vô điều kiện...

Trong những ghi chép về trải nghiệm cận tử thời hiện đại cũng như những bài viết về tâm linh từ thời xa xưa, tôi thường nhận thấy người viết luôn phải đánh vật với những giới hạn của ngôn ngữ thế gian, trong nỗ lực mang toàn bộ những gì họ thu nhận được từ đại dương lên con tàu ngôn ngữ và ý tưởng hạn hẹp của con người, và kết quả là… họ luôn thất bại, không nhiều thì ít.

Thế nhưng, với mỗi nỗ lực ngày một xa rời đích đến, với mỗi người viết đánh vật với từ ngữ và ý tưởng hầu mong có thể truyền tải sự vô giới hạn này đến với người đọc, tôi lại hiểu được mục đích của những người kể chuyện cùng với tất cả sự rực rỡ, huy hoàng của những gì họ mong muốn truyền đạt, nhưng đành bất lực.

Tuyệt quá, tuyệt quá, tuyệt quá! Tôi vừa đọc vừa thốt lên với chính mình. Mình thấy ra rồi.

Những quyển sách, những tài liệu này, dĩ nhiên, đều đã tồn tại trước khi tôi có trải nghiệm đặc biệt này. Nhưng tôi đã không khi nào chịu nhìn đến chúng. Không nhất thiết là đọc, mà là quan tâm theo một cách nào đó. Rất đơn giản là bởi tôi chưa bao giờ chịu mở lòng ra để suy ngẫm rằng liệu có điều gì đó xác thực hay không trong ý tưởng cho rằng phần nào đó trong chúng ta vẫn tiếp tục tồn tại sau cái chết của thể xác. Tôi là một bác sĩ có bản tánh thiện lương dù phần nào có xu hướng hoài nghi. Và vì là người như vậy, tôi có thể nói với bạn rằng hầu hết những người mà bạn gọi là kẻ hoài nghi thật ra chẳng phải là kẻ hoài nghi thật sự. Để là kẻ hoài nghi đích thực, bạn phải thật sự tìm hiểu về thứ gì đó, và tìm hiểu một cách nghiêm túc về nó. Và tôi, cũng như phần lớn các bác sĩ, chưa bao giờ dành thời gian để nghiên cứu về trải nghiệm cận tử. Tôi đơn giản chỉ “biết” rằng những điều đó là không khả dĩ.

Tôi cũng đọc lại toàn bộ những ghi chép y khoa về khoảng thời gian hôn mê của tôi - một khoảng thời gian được ghi chép lại kỹ lưỡng, gần như ngay từ đầu. Xem lại những bản chụp phim của chính mình, như tôi thường làm cho bệnh nhân của mình, cuối cùng tôi cũng thấy rõ rằng mình đã trải qua một trận ốm kịch liệt đến thế nào.

Viêm màng não do vi khuẩn là căn bệnh có một không hai trong các loại bệnh, bởi cách mà nó tấn công vào phần mặt ngoài của bộ não nhưng vẫn để cho những cấu trúc ở sâu hơn bên trong được nguyên vẹn. Trước tiên, các vi khuẩn tàn phá một cách hữu hiệu phần “người” của bộ não, và cuối cùng tung đòn sát thủ bằng cách tấn công vào những cấu trúc “nội cung” nằm sâu hơn bên trong - phần tương tự với các loài động vật khác, ở sâu bên dưới phần “người”. Những chứng bệnh khác, có thể gây tổn thương vỏ não và khiến bệnh nhân bất tỉnh - như chấn thương đầu, đột quỵ, chảy máu não hay u não, không thể sánh với các vi khuẩn viêm màng não về sức công phá, làm tổn thương hoàn toàn bề mặt vỏ não. Những chứng bệnh này có xu hướng chỉ tập trung vào một phần của vỏ não, những phần khác của vỏ não không bị tổn thương và vẫn có khả năng hoạt động. Tuy nhiên, thay vì chỉ xâm hại riêng phần vỏ não, các chứng bệnh này cũng thường có xu hướng phá hoại cả những phần sơ khai nằm sâu hơn bên trong bộ não. Xét về tất cả những mặt này, bệnh viêm màng não do vi khuẩn có thể được coi là căn bệnh tốt nhất ta có thể tìm được nếu muốn mô phỏng cái chết của con người mà không thật sự gây ra nó. (Mặc dù dĩ nhiên là bệnh này thường gây tử vong. Sự thật đáng buồn là hầu hết những người bị bệnh viêm màng não do vi khuẩn và bị ốm nặng như tôi đều không bao giờ hồi tỉnh để có thể kể lại câu chuyện của họ.) (Xem Phụ lục A.)

Mặc dù đã có từ thuở sơ khai của lịch sử, cụm từ “trải nghiệm cận tử” (dù trải nghiệm này được xem là thực hay chỉ là một ảo tưởng vô căn cứ) chỉ được sử dụng rộng rãi cách đây không lâu. Vào những năm 1960, nhờ những kỹ thuật mới được phát triển, các bác sĩ có thể hồi sức cho những bệnh nhân bị ngưng tim. Các bệnh nhân mà trước đó chắc hẳn là sẽ tử vong giờ đây được kéo trở lại về miền đất sống. Các bác sĩ này không biết rằng chính qua những nỗ lực cứu sống bệnh nhân của mình, họ đang tạo ra một loạt những nhà thám hiểm ra ngoài thế gian: những người đã được hé nhìn ra bên ngoài bức màn và quay trở về để kể lại những gì mình nhìn thấy. Ngày nay, con số những người này đã lên đến hàng triệu. Sau đó, vào năm 1975, một sinh viên y khoa tên là Raymond Moody đã xuất bản một quyển sách có tên là Life After Life (tạm dịch: Cuộc sống sau khi chết), miêu tả trải nghiệm này của một người đàn ông tên là George Ritchie. Ritchie đã “chết” vì bị ngưng tim do biến chứng của bệnh viêm phổi và đã ra khỏi cơ thể của mình trong chín phút. Ông ta đi xuống một đường hầm, đến thăm những cõi giới thiên đường và địa ngục, gặp gỡ một sinh vật tỏa ra ánh sáng mà ông ta nhận ra đó là Chúa Jesus, và trải qua những cảm giác bình an và hạnh phúc sâu đậm đến nỗi ông thấy khó mà dùng từ ngữ để miêu tả. Một kỷ nguyên của trải nghiệm cận tử hiện đại đã được khai sinh.

Tôi không thể nói là mình chưa từng biết gì về quyển sách của Moody, nhưng chắc chắn là trước đây tôi chưa từng đọc nó. Tôi cũng không cần phải đọc nó vì trước nhất, tôi biết ý tưởng cho rằng tình trạng ngưng tim đại diện cho một kiểu trạng thái cận tử là vớ vẩn. Hầu hết các tài liệu viết về trải nghiệm cận tử đều đề cập đến việc bệnh nhân bị ngưng tim trong vài phút - thường là sau một tai nạn hay trên bàn mổ. Ý tưởng cho rằng ngưng tim là chết đã lỗi thời trong khoảng năm mươi năm trở lại đây. Nhiều người bình thường vẫn tin rằng nếu ai đó sống lại sau khi bị ngưng tim thì có nghĩa là họ đã “chết” và sống lại, nhưng cộng đồng y khoa từ lâu đã sửa đổi lại định nghĩa về cái chết - định nghĩa này xoay quanh bộ não, chứ không phải trái tim (ngay từ khi các tiêu chuẩn về chết não được thiết lập vào năm 1968, trên cơ sở những phát hiện quan trọng có được từ những quan sát hệ thần kinh của bệnh nhân). Tình trạng ngưng tim chỉ liên quan đến cái chết khi nó có tác động tới não. Trong vòng vài giây kể từ khi tim ngừng đập, máu ngừng chảy lên não, dẫn đến sự gián đoạn trên diện rộng hoạt động điều phối thần kinh và dẫn đến việc mất ý thức.

Trong suốt một nửa thế kỷ, các bác sĩ giải phẫu vẫn thường cho tim ngừng đập trong từ vài phút cho đến hàng giờ trong các cuộc giải phẫu tim và thỉnh thoảng trong các cuộc giải phẫu thần kinh, bằng cách sử dụng máy bơm tim phổi, và đôi khi làm lạnh bộ não để tăng sức sống cho nó dưới những áp lực đó. Việc chết não hoàn toàn không xảy ra. Ngay cả trong trường hợp một người bị tim ngừng đập khi đang đi trên đường, nếu ai đó thực hiện hồi sức tim phổi cho họ trong vòng bốn phút cho đến khi tim họ được khởi động lại, thì não của người đó vẫn có thể không bị tổn thương. Miễn là dòng máu mang theo ôxy vẫn còn chạy lên não, thì bộ não - và như vậy, bản thân người đó - vẫn còn sống, mặc dù họ sẽ ở trong trạng thái bất tỉnh tạm thời.

Chỉ một kiến thức nho nhỏ này thôi đã đủ để tôi gạt quyển sách của Moody sang một bên, thậm chí không mở nó ra. Nhưng bây giờ thì tôi đã mở nó ra, và việc đọc được những câu chuyện Moody kể lại, vừa đối chiếu với những gì bản thân mình đã trải qua, đã khiến tôi hoàn toàn thay đổi quan điểm. Tôi gần như không nghi ngờ gì về việc có ít nhất một vài người trong những câu chuyện này đã thật sự rời bỏ cơ thể vật lý của họ. Những gì họ đã trải qua đơn giản là quá giống với những trải nghiệm của tôi bên ngoài cơ thể mình.

Những phần nguyên sơ hơn của bộ não của tôi - những phần “nội cung” - vẫn hoạt động trong toàn bộ hay phần lớn thời gian tôi hôn mê. Nhưng về phần não của tôi mà mọi nhà khoa học nghiên cứu về não đều sẽ nói với bạn là chịu trách nhiệm cho phần “người”: ừ thì, cái phần đó đã đi xa. Tôi có thể nhìn thấy được điều này trên phim chụp, trong những thông số xét nghiệm, trên các kết quả kiểm tra thần kinh của tôi - trong tất cả dữ liệu về tình trạng của tôi được ghi lại sát sao trong một tuần tôi ở bệnh viện. Tôi nhanh chóng nhận ra rằng trường hợp của tôi là một ví dụ gần như hoàn hảo của trải nghiệm cận tử, có lẽ là một trong những trường hợp có tính thuyết phục nhất trong lịch sử hiện đại. Điều thật sự quan trọng trong trường hợp của tôi không phải là những gì đã xảy đến cho cá nhân tôi, mà là sự bất khả dĩ, hoàn toàn không thể tranh cãi, từ góc độ y khoa, của nhận định cho rằng nó chỉ là ảo tưởng.

Việc miêu tả một trải nghiệm cận tử vốn là một thách thức, nhưng làm điều này khi đối diện với những chuyên gia của ngành y vốn luôn từ chối tin rằng những việc đó có thể xảy ra thì còn khó hơn. Nhờ vào sự nghiệp của tôi trong lĩnh vực khoa học thần kinh và trải nghiệm cận tử của chính mình, đây là cơ hội có một không hai để tôi làm cho việc bàn luận đến vấn đề này được dễ dàng đón nhận hơn.