• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Minh chứng thiên đường
  3. Trang 36

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 35
  • 36
  • 37
  • More pages
  • 45
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 35
  • 36
  • 37
  • More pages
  • 45
  • Sau

31Ba trường phái tâm linh

“Tôi vẫn giữ quan điểm cho rằng bí ẩn của nhân loại bị hạ thấp đến mức không tưởng bởi chủ nghĩa giản lược khoa học, với lời tuyên bố theo tư tưởng của chủ nghĩa duy vật hứa hẹn, rằng toàn bộ thế giới tâm linh cuối cùng sẽ có thể được lý giải dưới dạng các mô thức hoạt động thần kinh. Niềm tin cần phải được xem là một dạng mê tín... chúng ta cần phải nhận ra chính mình là những sinh vật tâm linh tồn tại trong một thế giới tâm linh, đồng thời cũng là những sinh vật vật chất với cơ thể và bộ não tồn tại trong một thế giới vật chất.”

- Sir John C. Eccles (1903-1997)

Nói đến trải nghiệm cận tử, có ba trường phái cơ bản. Những người tin: hoặc là những người đã từng trải qua trải nghiệm cận tử, hoặc những người chỉ đơn giản là dễ dàng chấp nhận những trải nghiệm như thế. Kế đến, dĩ nhiên, là những người kiên quyết không tin (như tôi trước kia). Tuy vậy, những người này lại thường không tự xếp mình vào loại không tin. Họ chỉ đơn giản “biết” rằng bộ não sản sinh ra ý thức và sẽ không chịu ngồi yên để nghe những ý tưởng điên rồ về tâm trí bên ngoài cơ thể (trừ khi họ có thiện ý muốn an ủi ai đó, như suy nghĩ của tôi khi nhận cuộc gọi của Susanna ngày hôm đó).

Rồi đến nhóm trung dung. Nhóm này bao gồm những người đã từng nghe về trải nghiệm cận tử qua đủ mọi phương thức khác nhau, qua sách báo, tài liệu về trải nghiệm cận tử, hoặc qua một người bạn hay người họ hàng của mình đã từng trải qua trải nghiệm cận tử - vì trường hợp này gần đây đã trở nên cực kỳ phổ biến. Những người ở nhóm trung dung này là những người mà câu chuyện của tôi thật sự có thể hữu ích. Những hiểu biết có được từ trải nghiệm cận tử có khả năng thay đổi cuộc đời. Nhưng khi một người có tâm thức cởi mở để sẵn sàng lắng nghe chia sẻ về trải nghiệm cận tử hỏi một vị bác sĩ hay một nhà khoa học - những người mà trong xã hội chúng ta là những vị “thần giữ cửa”, chính thức quyết định vấn đề liên quan đến những gì có thật và không có thật - thì họ hầu như luôn nhận được câu trả lời, nhẹ nhàng nhưng quả quyết, rằng trải nghiệm cận tử chỉ là những ảo tưởng: là sản phẩm của một bộ não đang nỗ lực để bám víu vào sự sống, ngoài ra chẳng có gì hơn.

Là một bác sĩ đã trải qua những gì mình đã trải qua, tôi có thể kể lại một câu chuyện hoàn toàn khác. Càng nghĩ về điều này, tôi càng cảm thấy mình có nghĩa vụ phải làm như vậy.

Tôi lần lượt rà soát lại những giả thuyết mà tôi biết rằng các đồng nghiệp, và bản thân mình trước kia, sẽ đưa ra để “giải thích” những gì đã xảy ra với tôi. (Để xem chi tiết, xin hãy đọc phần tóm tắt các giả thuyết khoa học thần kinh ở Phụ lục B.)

Phải chăng trải nghiệm của tôi là một chương trình của cuống não sơ khai nhằm xoa dịu cảm giác đau đớn và khổ sở của con người vào phút lâm chung - có thể đây là dấu tích của chiến thuật “giả chết” mà các loài động vật có vú bậc thấp thường sử dụng? Tôi loại bỏ giả thuyết này ngay lập tức. Đơn giản là những trải nghiệm của tôi, ở những mức độ vô cùng tinh vi của thính giác và thị giác, và với khả năng lĩnh hội ý nghĩa ở mức độ cao như thế, không thể nào là sản phẩm của phần bò sát bên trong bộ não của tôi được.

Phải chăng đó là những ký ức sai lệch từ những phần sâu hơn của hệ limbic (hệ viền) - phần não tạo ra nhận thức cảm xúc của tôi? Một lần nữa, câu trả lời cũng là không - nếu không có phần vỏ não mới đang hoạt động, hệ viền của não không có cách nào sản sinh ra được những hình ảnh rõ ràng và logic như những gì tôi đã trải qua.

Phải chăng trải nghiệm của tôi là một dạng ảo giác được gây ra bởi một số (trong nhiều) loại thuốc mà các bác sĩ cho tôi dùng lúc đó? Giả thuyết này cũng không đúng - tất cả những loại thuốc này đều tác động vào các thụ thể ở vỏ não mới. Và nếu vỏ não mới không hoạt động, sẽ chẳng có cơ sở nào để thuốc phát huy tác dụng.

Còn giả thuyết về giấc ngủ REM thì sao? Đây là tên gọi của một hội chứng (REM: viết tắt của Rapid Eye Movement, có nghĩa là “chuyển động mắt nhanh”; giấc ngủ REM là giai đoạn ngủ khi những giấc mơ xuất hiện). Hội chứng này xảy ra khi các chất dẫn truyền thần kinh tự nhiên như serotonin tương tác với các thụ thể ở vỏ não mới. Rất tiếc, giả thuyết này cũng không đúng. Giấc ngủ REM chỉ có thể xảy ra khi có một vỏ não mới đang hoạt động, mà trong trường hợp của tôi lúc đó thì không.

Kế đến là giả thuyết về hiện tượng được biết đến dưới tên gọi là “nhiễm DMT”. Trong tình huống này, tuyến tùng phản ứng với sự căng thẳng khi bộ não nhận biết tình trạng hiểm nguy bằng cách sản xuất ra một chất gọi là DMT (hay N,N-dimethyltryptamine). DMT giống với serotonin về mặt cấu trúc và có thể tạo ra một trạng thái phiêu diêu cực độ. Tôi chưa từng có trải nghiệm nào với DMT, cho đến bây giờ, nhưng tôi không tranh cãi với những ai nói rằng DMT có thể tạo ra những trải nghiệm ảo giác mãnh liệt; có thể là một trải nghiệm ảo nhưng chứa đựng những ngụ ý chân thật, giúp chúng ta hiểu được thực chất của những khái niệm như ý thức, và thực tại.

Tuy vậy, sự thật là phần não mà DMT có ảnh hưởng đến (phần vỏ não mới) trong trường hợp của tôi lại không “có mặt” ở đó để bị ảnh hưởng. Do đó, để “giải thích” những gì đã xảy đến với tôi, giả thuyết nhiễm DMT cũng không đủ căn cứ như các giả thuyết được xem là khả dĩ khác, với cùng một lý do mấu chốt như nhau. Các chất gây ảo giác tác động vào vỏ não mới, và vỏ não mới của tôi lúc đó không hiện diện để có thể bị ảnh hưởng.

Giả thuyết cuối cùng mà tôi xem xét là “hiện tượng khởi động lại”. Hiện tượng này giải thích trải nghiệm của tôi như là một tập hợp những hồi ức và suy nghĩ về cơ bản là rời rạc còn sót lại trước khi vỏ não của tôi hoàn toàn bị đánh sập. Giống như một chiếc máy vi tính đang khởi động lại và đang lưu lại dữ liệu nhiều nhất có thể sau khi toàn hệ thống bị lỗi, bộ não của tôi có lẽ cũng đã cố gắng hết sức để lắp ghép những phần rời rạc còn lại này và tạo ra trải nghiệm mà tôi đã có. Điều này có thể xảy đến khi tái khởi động vỏ não để ý thức quay trở lại sau một thời gian ngưng hoạt động kéo dài do lỗi toàn hệ thống, như trong bệnh viêm màng não lan tỏa của tôi. Nhưng giả thuyết này là khó khả dĩ khi xét tới sự đa tình tiết và tương giao giữa những hồi ức rất chi tiết của tôi. Khi đã nếm trải một cách sâu sắc bản chất phi tuyến tính của thời gian trong thế giới tâm linh, giờ đây tôi có thể hiểu được tại sao rất nhiều nội dung viết về khía cạnh tâm linh lại có vẻ lệch lạc hay đơn giản là phi lý khi nhìn từ quan điểm thế gian của chúng ta. Trong những thế giới bên trên thế giới này, cách vận hành của thời gian đơn giản là không giống như nơi này. Trong những thế giới đó, không nhất thiết là mọi thứ xảy ra theo trình tự. Một khoảnh khắc có thể dài như cả một đời, và một hay vài kiếp sống có thể chỉ như trong khoảnh khắc. Nhưng dù cho thời gian không vận hành theo cách thông thường (theo cách của chúng ta) trong những thế giới bên trên này, điều đó không có nghĩa là nó lộn xộn, và những hồi ức của chính tôi từ thời điểm tôi rơi vào hôn mê đều rất rõ ràng. Sự kết nối gần gũi nhất với trần thế mà tôi có trong trải nghiệm của mình, nói theo thời gian tương đối, là những tương tác của tôi với Susan Reintjes khi cô ấy kết nối với tôi vào đêm thứ tư và thứ năm, và sự xuất hiện của sáu gương mặt ở chặng cuối hành trình của tôi. Bất kỳ sự trùng hợp nào về thời gian giữa các sự kiện trên trái đất và trong hành trình của tôi ở bên trên trái đất là hoàn toàn có tính phỏng đoán, bạn có thể nói như vậy!

Càng tìm hiểu nhiều hơn về trường hợp của mình, và càng tìm cách lý giải những gì đã xảy ra dựa vào những tài liệu khoa học hiện thời, tôi càng thấy giả thuyết này là hoàn toàn không có cơ sở. Mọi thứ - sự sáng tỏ lạ thường trong nhận thức của tôi, sự thông suốt và rõ ràng của suy nghĩ của tôi như một dòng chảy ý niệm thuần khiết - đều cho thấy một sự vận hành của bộ não ở mức cao hơn, hoàn toàn không phải thấp hơn. Nhưng khi đó, phần não cao hơn của tôi lại vắng mặt để có thể tạo ra những thứ này.

Càng đọc những lý giải “có cơ sở khoa học” về trải nghiệm cận tử, tôi càng sốc bởi sự hời hợt rõ rệt của chúng. Và tôi cũng buồn bã nhận ra rằng những lý lẽ này chính xác là những gì mà “tôi” trước đây đã viện đến một cách mơ hồ nếu có ai đó nhờ tôi “giải thích” trải nghiệm cận tử là gì.

Nhưng chúng ta đâu thể trông đợi những người không phải là bác sĩ có thể biết được điều này. Nếu những chuyện xảy đến với tôi lại xảy ra với một người nào khác - bất kỳ người nào - thì bản thân trải nghiệm đó cũng đã là đáng kinh ngạc. Nhưng nó lại xảy ra với tôi… Chà, nói rằng việc này xảy ra “là có lý do” khiến tôi có hơi bối rối. Tôi vẫn còn bên trong đủ nhiều cái phần bác sĩ trước đây để biết rằng điều này nghe kỳ quặc và khó chấp nhận - thật ra là nghe đao to búa lớn - đến thế nào. Nhưng khi tôi gom góp lại toàn bộ những chi tiết hoàn toàn không khả dĩ đó - và nhất là khi tôi xét đến việc bệnh viêm màng não do vi khuẩn E. coli là nguyên nhân hoàn hảo đến thế nào trong việc đánh sập vỏ não của tôi, và sự phục hồi hoàn toàn và nhanh chóng của tôi từ một tình trạng bị hủy hoại gần như chắc chắn - thì tôi chỉ còn có cách là nghiêm túc nhìn nhận khả năng mọi chuyện thật sự đã xảy ra vì một lý do nào đó.

Điều này chỉ khiến tôi càng cảm thấy mình có trách nhiệm hơn trong việc kể lại câu chuyện của mình một cách đúng đắn.

Tôi luôn tự hào về việc mình thường xuyên cập nhật những nghiên cứu y khoa mới nhất trong lĩnh vực của mình, và tham gia đóng góp bằng việc chia sẻ khi tìm thấy điều gì đó có giá trị. Việc tôi đã đi như tên lửa ra khỏi thế giới này và vào trong một thế giới khác là một khám phá - một khám phá y khoa đích thực - và giờ đây khi đã quay trở lại, tôi sẽ không hạ thấp giá trị của nó. Ở khía cạnh y khoa, khả năng tôi hồi phục hoàn toàn là bằng không, là một phép màu trong y học. Nhưng câu chuyện thật sự nằm ở những nơi mà tôi đã đến, và tôi có nhiệm vụ kể lại câu chuyện này, không chỉ với tư cách là một nhà khoa học và một người tôn trọng sâu sắc phương pháp khoa học, mà còn với tư cách một thầy thuốc. Một câu chuyện - một câu chuyện thật sự - có khả năng chữa lành chẳng kém thuốc men. Susanna đã biết được điều đó khi bà ấy gọi điện đến văn phòng tôi ngày hôm ấy. Và bản thân tôi đã thật sự trải nghiệm điều này khi tôi nhận được tin tức từ gia đình ruột của mình. Những gì đã xảy đến với tôi cũng là những tin tức chữa lành. Tôi sẽ là loại thầy thuốc như thế nào nếu tôi không chia sẻ nó chứ?

Chỉ sau hơn hai năm kể từ khi tôi hồi tỉnh khỏi cơn hôn mê, tôi đến thăm một người bạn thân và cũng là một đồng nghiệp đang là trưởng khoa của một trong những trung tâm khoa học thần kinh học thuật hàng đầu trên thế giới. Tôi đã biết John (không phải là tên thật của anh ấy) cả mấy chục năm và xem anh ấy là một con người tuyệt vời, một nhà khoa học ưu tú nhất.

Tôi kể cho John nghe một phần câu chuyện về hành trình tâm linh của mình khi đang bị hôn mê sâu, và anh ấy trông vô cùng kinh ngạc. Không phải vì sự điên rồ của tôi, mà như thể cuối cùng anh ấy cũng hiểu được một điều gì đó mà anh ấy đã thắc mắc trong suốt một thời gian dài.

Hóa ra là cách đây khoảng một năm, cha của John cận kề cái chết sau suốt năm năm bệnh tật. Ông nằm một chỗ, loạn trí, đau đớn, và chỉ mong được chết.

“Làm ơn đi con”, cha của John đã cầu xin John khi đang hấp hối. “Hãy cho cha vài viên thuốc, hay thứ gì đó. Cha không thể tiếp tục như thế này được nữa.”

Rồi đột nhiên cha anh ấy trở nên minh mẫn hơn bất cứ lúc nào trong vòng hai năm trở lại đó, khi ông ấy bàn luận về những chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời mình và về gia đình. Rồi ông ấy đưa mắt nhìn sang bên và bắt đầu nói vào khoảng không, ở phía cuối giường mình. Lắng nghe những gì ông ấy nói, John nhận ra rằng cha mình đang nói chuyện với người mẹ quá cố của ông. Bà nội của John đã mất sáu mươi lăm năm trước, khi cha anh chỉ mới là một thiếu niên. Ông hiếm khi nhắc về bà từ khi John còn nhỏ, nhưng giờ thì ông lại đang trò chuyện rôm rả và vui vẻ với bà. John không thể nhìn thấy bà nhưng hoàn toàn tin rằng linh hồn của bà đang ở đó để đón linh hồn của cha anh về nhà.

Sau vài phút như thế, cha của John trở lại nhìn vào anh ấy, với ánh mắt hoàn toàn khác hẳn. Ông mỉm cười, và rõ ràng ông đang rất thanh thản, hơn bất cứ lúc nào mà John có thể nhớ được về ông trước kia.

“Ngủ đi, cha”, John nói. “Cha chỉ cần thả lỏng. Mọi việc ổn cả.”

Cha của John làm đúng như vậy. Ông nhắm mắt, thả mình trôi đi với nét mặt hoàn toàn bình an. Một lúc sau đó, ông qua đời.

John cảm thấy sự gặp gỡ giữa cha và người bà đã khuất của mình xảy ra rất thật, nhưng anh không biết phải nhìn nhận việc đó như thế nào, bởi, là một bác sĩ, anh biết rằng những điều như vậy là “không thể”. Nhiều người khác cũng chứng kiến những người già bị lẫn bỗng trở nên minh mẫn chưa từng có ngay trước khi họ qua đời, như John đã nhìn thấy ở cha mình (một hiện tượng được biết đến với tên gọi là “hồi quang phản chiếu”). Không có một sự lý giải nào trong lĩnh vực khoa học thần kinh cho điều này. Nghe câu chuyện của tôi, anh ấy dường như vừa được cấp tờ giấy phép mà anh ấy đã mong ước bấy lâu, đó là được phép tin vào những gì mình tận mắt chứng kiến - để biết cái chân lý sâu sắc và đầy an ủi ấy: rằng bản thể tâm linh vĩnh cửu của chúng ta thật hơn bất cứ thứ gì chúng ta nhận thức được trong thế giới vật chất này, và nó có một sự kết nối thiêng liêng với tình yêu vô tận của Đấng Sáng Tạo.