T hực phẩm là vấn đề quan trọng nhất trong đời sống. Muối và lửa là hai yếu tố nảy sinh ra sự sai khác giữa cách ăn uống của con người và các loài vật. Với việc dùng lửa, kỷ nguyên hóa học ra đời. Con người dùng lửa để đun nấu, biến hóa đồ ăn, nghệ thuật nấu nướng hình thành, từ đó con người đã tìm thấy sự khoái lạc trong miếng ăn và cũng chính từ đó sự sa đọa, bệnh tật vì ăn uống xuất hiện! Vì thế, vấn đề trước tiên và cốt lõi nhất của phương pháp phòng, chữa bệnh phải là ăn uống hợp lý.
Có nhiều quan điểm và phương pháp khác nhau, nhưng phương pháp thực dưỡng theo nguyên lý Âm - Dương của giáo sư G. Ohsawa đã đem lại kết quả rõ nhất, được nhiều người ở nhiều nước tán thưởng và thực hành có kết quả hơn cả.
Nội dung cơ bản của phương pháp này là ăn gạo lứt, muối vừng (xem Phụ lục 5) với những lý lẽ và cách tiến hành cụ thể như sau:
1. THÀNH PHẦN THỨC ĂN
a. Gạo lứt
Theo Đông y học cổ truyền, gạo lứt điều hòa năm tạng, bổ tỳ, vị, phế khí, ích thần kinh, mạnh tâm trí, cứng gân xương, giúp thân thể cường tráng. Khoa học hiện đại cho rằng, gạo lứt có hơn 30 chất rất phù hợp với cơ thể con người cả về số lượng, chất lượng (bảng so sánh ở Phụ lục 1). Thức ăn chỉ thiếu hoặc thừa một chất nào đó cũng sẽ dẫn tới sự mất cân bằng trong cơ thể và bệnh xuất hiện!
Đặc biệt, trong thành phần của vỏ cám ngũ cốc chứa nhiều chất đạm trong đó có đầy đủ cả 9 axít amin không thay thế với liều lượng khá cao, cân đối và các Vitamin, khoáng, chất béo... Gần đây một số nhà khoa học ở Anh và Nhật còn tìm thấy trong cám của cốc loại có chất tiền Vitamin C, có thể chịu được nhiệt độ trên 150°C; và các chất khoáng cũng như một số chất có hoạt tính phòng, chữa bệnh quan trọng như Selen (chống ung thư, và rất cần thiết cho tim), axít phytin (đào thải chất độc), Glutamin (chống nhiễm xạ) v.v...
Trong cám còn có chất xơ có vai trò kích thích nhu động ruột, đẩy mạnh quá trình bài tiết chống sự tích lũy cholesterol trong máu v.v... Mầm gạo chứa nhiều Amylase là enzyme phân giải tinh bột trong hạt gạo, Vitamin E có vai trò quan trọng trong quá trình phát dục và chống ung thư.
Khi ăn gạo trắng (loại bỏ hết cám) thì tỷ lệ phần trăm các chất bị mất đi như sau: Protein: 25%, Chất xơ: 95%, Canxi: 56%, Đồng: 62%, Sắt: 84%, Mangan: 82%. Phosphor: 68%, Kali: 74%, Selen: 52%, Kẽm: 76%, Vitamin B1: 73%, Vitamin B2: 81%, Vitamin B5: 56%, Vitamin B6: 87%, Vitamin E: 95% v.v... Quả là, máy xay xát đã nghiền nát sinh lực của loài người.
Chính vì vậy mà hạt gạo trắng là một thực thể không hoàn thiện, chẳng những đã mất hoặc giảm nghiêm trọng các thành phần quan trọng, chỉ còn lại chất bã, mà còn bị mất đi cả tính toàn vẹn của hạt gạo. Bằng chứng là: Gieo hạt gạo lứt sẽ mọc lên cây lúa, nhưng hạt gạo trắng thì không còn khả năng đó nữa. Gạo xát trắng là kém phẩm chất, nên khi ăn sẽ làm trì trệ các chức năng điều tiết vô cùng tinh tế của cơ thể.
Có thể nói, gạo lứt có đầy đủ mọi yếu tố cần thiết cho đời sống con người. Gạo lứt nói riêng, ngũ cốc lứt nói chung là sự tổng hợp kỳ diệu nhất của thiên nhiên, là ân huệ mà Tạo hóa, Vũ trụ đã ưu ái ban tặng cho loài người. Tiếc thay, trên thế giới rất ít người biết tới điều này, hoặc biết nhưng không thắng nổi sự cám dỗ của khoái khẩu nên xem thường điều tối quan trọng ấy!
b. Vừng
Đông y học cổ truyền cho rằng vừng không những là một thực phẩm quý mà còn là một vị thuốc bổ, không độc, đi vào bốn kinh: Phế, Tỳ, Can, Thận; có tác dụng ích gan, rất tốt cho người bị bệnh đau gan mật, cường thận, nhuận tràng, lợi sữa, bổ huyết, tư Dương, cường tráng, ích khí lực, bổ ngũ tạng, dưỡng não tủy, an thần, ngủ ngon, kích thích sự hoạt động và gia tăng sức mạnh cơ tim, bền gân cốt, sáng tai mắt, đen râu tóc, da dẻ mịn màng, ngừa và trị phong tà, chủ trị thương phong hư nhược, đặc biệt rất tốt cho phụ nữ trong thời kỳ thai nghén, thêm sức chịu dựng đói khát(*), sống lâu...
(*) Bài thuốc tịch cốc (không cần ăn trong thời gian dài) được làm từ vừng đen.
Khoa học hiện đại còn cho rằng: Vừng có tỷ lệ đạm cao và nhiều chất rất cần thiết cho cơ thể như đồng, leucithin, một số axít đặc, axít lỏng... Vừng là loại thức phẩm rất hoàn hảo. Người Châu Á quen dùng vừng, còn người Âu Mỹ vì không có cây vừng nên họ chưa quen dùng loại thực phẩm quý giá này.
Dầu vừng nguyên chất là chất béo không no nên dễ tiêu, không gây xơ vữa động mạch, lại bổ và mát, có thể trị bệnh về mắt, có tính sát trùng, nên dùng để bôi vết bỏng chống phồng rộp, bôi các vết thương, xức ghẻ... rất tốt.
Những nơi bị rải chất độc hóa học cây cối chết hết, thì vừng là cây có thể mọc lại đầu tiên. Chứng tỏ cây này có khả năng đề kháng và sức sống rất mạnh!
Gần đây bác sĩ F. Karach người Ucraina công bố nghiên cứu của ông về ngậm dầu vừng hàng ngày, nhất là buổi sáng mới thức dậy, có thể chữa được rất nhiều bệnh, kể cả những bệnh nan y, đã làm sửng sốt nhiều nhà khoa học. Một số người ở Việt Nam, trong đó có tôi đã thực hành, kết quả thật bất ngờ!
Vừng quý giá như thế, cho nên chúng ta không ngạc nhiên khi thấy câu chuyện Alibaba và bốn mươi tên cướp trong kho tàng truyện cổ tích lừng danh: Chìa khóa để mở kho báu chính là “Vừng ơi”!
c. Muối (xem Chương 2, mục II - 2 - c)
d. Nước (xem Chương 2, mục II - 3)
Theo giáo sư Ohsawa, điểm nổi bật của phép dưỡng sinh là:
• Dùng thức ăn thông thường nhưng được sử dụng đúng nguyên lý Âm - Dương của trời đất, đã tạo ra sự màu nhiệm ngoài sức tưởng tượng.
Ohsawa không phải chỉ nhấn mạnh, coi trọng Dương, khinh thường Âm, mà xác lập tỷ lệ Âm/ Dương lý tưởng là 5/1.
• Khi dùng Dương, ông chủ trương tìm trong Âm (cốc loại). Đó là dùng Dương trong Âm (nên đã quen với Âm). Khi dùng Âm lại lấy nước bọt trong chính cơ thể là dùng Âm trong Dương (đã quen với Dương). Đồng thời tận dụng cả Âm trong Dương và Dương trong Âm.
Nhìn chung, thực phẩm có nguồn gốc động vật Dương hơn thực vật. Theo nguyên lý vô song thì trong Âm có Dương, trong Dương có Âm. Vì thế khi ăn ta nên chọn thảo mộc Dương tính như hạt cốc loại nguyên cám, cà rốt, bí đỏ, đậu đỏ, củ cải, xà lách xoong, rong biển, củ sen... không nên ăn những thực vật thịnh Âm như trái cây, nhất là cà dái dê.
Khi ăn (nhai kỹ) thì hai yếu tố Dương trong thức ăn và Âm trong nước bọt sẽ tương giao, hòa đồng, dung nạp lẫn nhau nhằm thực hiện nguyên lý vô song mà Ohsawa tìm ra là “Âm - Dương hòa hợp”. (“Hòa” là dung hòa để tương tế nhau, “Hợp” là cùng hợp tác để tăng khí lực, tuổi thọ).
Các thức ăn thịnh Dương như thịt, trứng, phô mai mặn... và thịnh Âm như đường, hoa quả... do quá sai khác, xa lạ nhau nên khi ăn vào, chúng sẽ xung khắc, chứ không thể hòa hợp với nhau, làm rối loạn sinh lý cơ thể, gây bệnh!
Tốt nhất nên ăn những thức ăn ở mức gần quân bình (tỷ lệ K/Na bằng 5).
2. NẤU NƯỚNG CHẾ BIẾN
a. Nhận thức
Với thành phần và công dụng như đã nói trên, có thể coi gạo lứt, vừng, muối, nước, rau, củ... là một thực đơn cơ bản, một “toa thuốc” trong mọi toa thuốc, có cơ cấu điều hòa, quân bình rất phù hợp với cơ thể con người.
Tuy nhiên, để đảm bảo hiệu quả của thực đơn cơ bản, thì khâu nấu nướng, chế biến có vai trò cực kỳ quan trọng: Nấu nướng là khâu “tiêu hóa” ở ngoài cơ thể nhằm làm cho thức ăn dễ hấp thu hơn. Trong quá trình đó, một phần vitamin, enzyme của thực phẩm bị phân hủy, vì vậy một số người, nhất là các nhà dinh dưỡng Âu Mỹ chủ trương nên ăn thảo mộc thô, sống. Nhiều tài liệu cổ động cho việc sử dụng rau sống hoặc nước ép rau củ quả. Đó là vì họ ăn nhiều thịt, trứng, phô mai... nên cơ thể Dương tính cao. Nếu ăn rau sống, nước ép rau củ tươi sẽ giúp quân bình lại trạng thái cơ thể. Mặt khác, họ cũng chưa chú ý đến sự sai khác giữa tổng số đưa vào và lợi ích “hậu tiêu hóa” của các chất bổ dưỡng ấy.
Bởi vì, một loại rau củ nào đó, giả sử có 100 đơn vị vitamin và enzyme, chẳng hạn. Nhưng các chất bổ đó phần lớn được giữ trong các cấu trúc của chất xơ khó tiêu, nên tỷ lệ hấp thu chỉ đạt 50% (100 x 50% = 50 đơn vị), còn lại bị đào thải qua phân. Giả sử, khi nấu chín, hàm lượng dưỡng chất chỉ còn lại 85 đơn vị, nhưng chất xơ bị phân hủy, vitamin và enzyme dễ thoát ra, nên hiệu suất hấp thu lên tới 80%, do đó tổng số chất bổ dưỡng được hấp thu cao hơn (85 x 80% = 68 đơn vị)!
Mặt khác, thực vật thường nghiêng về Âm tính, qua nấu nướng sẽ được Dương hóa nên tỳ vị sẽ làm việc nhẹ nhàng hơn, lợi ích cao hơn!
Điều không kém phần quan trọng là, nấu nướng là quá trình sáng tạo, biến đổi Âm - Dương cho phù hợp với người ăn, nên có vai trò vô cùng quan trọng trong thực dưỡng!
Nhìn chung trong thực dưỡng đòi hỏi phải am hiểu từ khâu chọn nguyên liệu đến kỹ thuật chế biến và ăn uống đúng cách.
Nếu chất lượng của gạo, vừng, rau, muối không đảm bảo, có thể coi như “thuốc” không đảm bảo chất lượng; Nấu nướng không đúng cách là “bào chế” sai; Ăn uống không đúng phương pháp là “dùng thuốc” sai... thì chẳng những không tăng cường sức khỏe, không chữa được bệnh mà còn có thể gây bệnh!
b. Nấu cơm gạo lứt
Nên thêm một ít muối và tốt nhất nấu bằng nồi đất. Có thể nấu bằng nồi áp suất vì vừa nhanh lại vừa chín nhừ; trong quá trình nấu thì lửa, muối và áp suất sẽ làm tăng thêm Dương tính của cơm.
Kinh nghiệm của bản thân tôi, nấu cơm gạo lứt nên thêm ít đậu đỏ, vo gạo và đậu, đổ đủ nước, thêm ít muối cho đậm đà và tăng Dương tính, rồi ngâm từ 6 đến 10 giờ, giữ nguyên nước ngâm ấy để nấu, cơm sẽ chóng chín, đỡ tốn thời gian, củi, điện, hoặc gaz... Khi nấu, đun cho cơm sôi đều khoảng 10 đến 15 phút, rồi tắt lửa hoặc ngắt điện khoảng 30 đến 40 phút, rồi lại đun tiếp cho đến khi chín kỹ. Như vậy cơm sẽ tơi, không bị cháy, không dính nồi và ăn ngon hơn!...
Đối với thức ăn Âm tính cao, nên nấu lâu và cho nhiều muối hơn để “Dương hóa”. Ngược lại thức ăn Dương tính cao thì chỉ cần nấu với ít muối và thời gian ngắn hơn.
c. Làm muối vừng
Cần chú ý, rang vừng vừa chín ròn(*)! rang muối thật khô và giã chung với nhau, làm cho dầu ở vừng tiết ra thấm vừa đủ bao bọc xung quanh các phần tử muối nên khi ăn không thấy mặn, lại giúp cho muối có đủ thời gian đi tới những nơi cần thiết, tránh những tác dụng không đúng chỗ, gây khát nước. Cũng không nên giã vừng mịn quá, dầu sẽ ra nhiều, không bảo quản được lâu.
(*) Kinh nghiệm của bản thân tôi, nên đãi vừng cho sạch, để ráo nước, hoặc vẩy ít nước cho ẩm rồi mới rang. Khi rang luôn khuấy đều, đến khi bắt đầu bốc khói (cháy phần vỏ) thì tắt lửa, đậy vung đến khi còn hơi nóng thì giã, muối vừng sẽ thơm ngon.
Muối vừng mỗi lần chỉ nên làm đủ ăn trong một tuần là vừa, không nên để lâu dầu vừng sẽ gây mùi khét, khó ăn.
Tỷ lệ giữa vừng và muối cũng tùy người ăn:
• Người lớn bình thường 8 - 10 phần vừng, một phần muối.
• Người già, trẻ nhỏ, người tạng Dương: 10 - 12 phần vừng, một phần muối.
• Người tạng Âm, hoặc lao động nặng: 5 - 6 phần vừng, một phần muối.
• Trẻ dưới 9 tháng tuổi không nên thêm muối, dưới 6 tuổi và người đang cho con bú nên ăn nhạt hơn. Vì trẻ Dương tính cao, nếu ăn mặn Dương quá sẽ chậm lớn. Ngược lại trẻ ăn nhạt (Âm tính hơn) sẽ giúp quân bình Âm - Dương nên lớn nhanh!
3. CÁCH ĂN UỐNG
Để đảm bảo cho phương pháp thực dưỡng nói chung, phép thực dưỡng Âm - Dương theo Ohsawa nói riêng phát huy hiệu quả tốt nhất, ngoài việc chọn thức ăn đúng, có chất lượng (thuốc tốt), nấu nướng và chế biến đúng cách (bào chế tốt), thì khâu ăn uống đúng phép (dùng thuốc đúng cách) có một vai trò vô cùng quan trọng! Vì vậy, cách ăn uống là bí quyết của sức khỏe con người!
a. Cách ăn
Trong cách ăn có nhiều điểm, nhưng quan trọng nhất, cần được nhấn mạnh nhiều nhất và có tác dụng lớn nhất chính là nhai kỹ. Theo “phép thực dưỡng Âm - Dương” thì mỗi búng cơm phải nhai trung bình 80 đến 100 lần, nhai đến khi cơm nhuyễn thành sữa, cảm nhận thấy vị ngọt rồi mới nuốt, đó là “uống đồ ăn”.
Thoạt mới nghe phải nhai như thế, không ít người thường ngại ngần sợ mình không đủ kiên trì. Xin bạn hãy bình tình đếm số lần nhai một búng cơm vài lần, sẽ thấy không phải là nhiều lắm đâu! Sau đó dựa vào độ mịn của cơm trong miệng để biết mình đã nhai đủ và đã có thể nuốt được chưa.
b. Cách uống
Phải uống từ từ, khi đưa nước vào miệng không nên nuốt ngay mà ngậm một lát cho nhiệt độ của nước cân bằng với nhiệt độ cơ thể, sau đó nuốt nhiều lần, từng tý một, như thế chỉ cần uống ít nước đã hết cảm giác khát! Trái lại, uống ừng ực thì uống nhiều, có khi đến căng bụng, vẫn không hết khát.
Nguyên tắc quan trọng của cách uống theo Đông phương là: “Ăn đồ uống”!
c. Ích lợi của việc nhai kỹ thức ăn
Trước hết, nhai kỹ không chỉ nghiền nhỏ thức ăn để dễ nuốt, dạ dày đỡ mệt, điều này rất quan trọng, nhưng quan trọng hơn là để tiết nhiều nước bọt, loại thể dịch mà cổ Đông hương gọi là “cam lồ” (sương ngọt của trời), sẽ có nhiều tác dụng kỳ diệu như sau:
• Giải độc(*), sát trùng ngay trong miệng làm cho răng miệng được sạch, sau đó dịch thể này thấm nhuần tạng phủ, nuôi dưỡng cho da thịt tốt tươi, trẻ trung, mát mẻ... do vậy làm giảm nhu cầu uống nước.
(*) Trong một số cuộc liên hoan, nhiều người bị ngộ độc thức ăn, nhưng có những người chẳng hề gì cả. Phải chăng họ nhai kỹ nên nước bọt đã hóa giải hết độc tố trong thức ăn?
• Nước bọt còn tác dụng nhuận trạch, tư dưỡng các tạng phủ, lọc sạch các chất dơ uế, giữ lại những thứ nguyên chất, tinh khiết... đưa vào thận hóa thành “tinh” cho cơ thể.
• Tính kiềm của nước bọt hạn chế tác hại của các thức ăn tạo phản ứng axít trong cơ thể. Vì nội môi trường axít sẽ rất có hại cho sức khỏe (xem cuối Chương 1). Nhai dối chẳng những không nghiền kỹ được thức ăn khiến dạ dày phải làm việc vất vả mà còn làm giảm sự tiết nước bọt, từ đó gây rối loạn hoạt động của dạ dày và các cơ quan khác, khiến thức ăn khó tiêu, dễ trương sình, sinh hơi độc, thường gọi là “sinh nhiệt” gây khát nước, và lâu dài là các bệnh mãn tính.
• Nhai kỹ thì cảm giác đói mau chóng chấm dứt, nên có thể ngừng ăn khi bụng vừa đủ no, do vậy sẽ tránh được tình trạng ăn nhiều quá mức cần thiết. Điều này có ý nghĩa vô cùng to lớn, vì con người là sinh loài rất tham ăn và ăn nhiều nhất! Bình thường con người ăn gấp ba đến mười lần so với nhu cầu của cơ thể, (những người béo phì còn ăn nhiều hơn thế). Nếu ngừng ăn khi vừa đủ, cơ thể sẽ nhẹ nhàng, tinh thần, khí lực được sung mãn, thanh sảng... nên khỏe mạnh, minh mẫn.
Ngược lại, ăn nhiều quá khả năng hấp thu của cơ thể thì phần thức ăn không kịp tiêu hóa sẽ lên men thối, gây ra những triệu chứng uể oải, mệt mỏi, phù nề, béo phì, nổi u nhọt, làm giảm tư duy trong sáng...
Thực tế cho thấy, các loài gặm nhấm, nhất là chuột, do ăn nhiều nên tuổi thọ rất thấp so với các loài khác. Trong khi các loài bò sát, nhất là rắn, rùa, vì ăn ít nên tuổi thọ rất cao, rất khỏe mạnh! Ấy là không kể trong lúc ta ăn quá thừa đến độ sinh bệnh, thì nhiều người không có mà ăn. Ăn như thế là một tội ác!
Điều vô cùng quan trọng là các hoạt chất sinh học như vitamin, khoáng thường tích trữ trong chất xơ, nếu không nhai kỹ sẽ chẳng thể chiết rút được để cơ thể hấp thu. Nhai kỹ còn giúp các enzyme trong nước bọt, đặc biệt Amylase có đủ thời gian chuyển hóa thức ăn ngay tại miệng. Nhiều loại thức ăn chỉ tiết hết hương vị của nó khi được nhai kỹ: các loại cốc và rau củ càng nhai kỹ bao nhiêu càng thấy ngon, ngọt, cơ thể càng hấp thu được triệt để chất bổ dưỡng bấy nhiêu!
Ở Á Đông tương truyền rằng các tiên gia, đạo sĩ rất quý trọng nước bọt, coi đó là “nước cam lồ”, là thứ thuốc “cải lão hoàn đồng”, chuyên trị các chứng lao thương cùng hết thảy hàng nghìn bệnh hư tổn, đồng thời chống ngoại tà, tiêu âm thực, tránh nhiễm bệnh... làm cho người nhẹ nhàng, khoan khoái, trẻ dai, sống lâu...
Trình Chung Linh, một danh y Đông phương quả quyết: Nuốt nước bọt là cách trị bệnh Âm hư, nguồn gốc của bệnh lao trùng, hay hơn hết thảy mọi phương sách.
Đông y học cổ truyền còn cho rằng: Các bệnh Âm hư thường phát nóng do Âm thủy không khắc chế được Dương hỏa. Trường hợp này nên liên tục nuốt nước bọt xuống để bồi bổ chân thủy, làm cho thủy (Âm) thăng lên khống chế hỏa (Dương) ở trên. Nước bọt xứng dáng là một loại “thần đan diệu dược”!
- Theo phương pháp “thực dưỡng Âm - Dương” của giáo sư Ohsawa thì nước bọt giữ phần chính trong “nguyên lý Âm”, muối và lửa giữ phần chính trong “nguyên lý Dương”. Nhai kỹ là để cho Âm - Dương hòa hợp và quân bình sẽ đem lại sức khỏe, sự trẻ trung, vô bệnh và trường thọ.
Để sử dụng một cách không lãng phí và tốt nhất nguồn nước bọt, mà Đông y học cổ truyền coi là thứ nước quý giá như vàng, như ngọc, tôi thường phổ biến cho nhiều người áp dụng rất hiệu quả phương pháp sau đây:
Hàng sáng khi thức dậy không nhổ nước bọt, cũng không súc miệng hay đánh răng (nên đánh răng buổi tối trước khi đi ngủ sẽ tốt hơn), hãy nhai luôn một thìa vừng rang chín để nguyên hạt, nhai đến khi thành sữa mới nuốt. Làm như vậy lâu dài miệng sẽ hết hôi, luôn thơm tho, dễ chịu, lại rất sạch: Dù sáng dậy lưỡi có nhiều bợn (rêu) nhưng sau khi nhai một thìa vừng rang, sẽ sạch ngay! Hơn nữa, bất cứ lúc nào, trong miệng cũng không bao giờ thừa, hoặc thiếu nước bọt. Thực hiện lâu dài sẽ đen tóc, chắc răng, mịn da, hết táo bón, mạnh thận, khi về già không bị run tay chân, nói năng lưu loát, mạch lạc...
Dùng vừng trắng hay vừng đen đều tốt, có thể trộn hai loại trên mà dùng, nhưng phải là vừng còn nguyên vỏ.
• Các đạo sĩ Yoga Ấn Độ còn cho rằng: Nhai kỹ và chậm sẽ chiết rút được tối đa sinh khí (Prana) chứa trong thức ăn. Nếu nhai tới khi không còn nhận thấy mùi vị của thức ăn nữa, thì Prana trong thức ăn được chiết rút ra hết để cung
cấp cho cơ thể. Khi nhai nên ngậm miệng, như vậy trông vừa đẹp, lịch sự, mà Prana không bị thất thoát ra ngoài.
Tu sĩ Yoga Ramacharaka còn cho biết: Nhai kỹ và chậm thức ăn sẽ bổ dưỡng bằng hai lần và thu được sinh khí (Prana) nhiều gấp ba lần so với nhai dối.
Chính vì vậy mà nhiều tu sĩ phái khổ hạnh mỗi ngày chỉ ăn một bữa có khi không no, nhưng nhờ nhai kỹ, nhai chậm mà vẫn đủ chất, khỏe mạnh sống lâu.
• Nhai kỹ còn kích thích tuyến mang tai tiết ra chất parotin, chất này có đủ thời gian ngấm qua hạch lâm ba (hệ bạch huyết) rồi vào máu, kích thích hoạt động của các tế bào, đặc biệt kích thích hệ bạch huyết tạo ra lympho bào T, là loại có vai trò rất quan trọng trong hệ thống miễn dịch, nên chẳng những tăng cường khả năng đề kháng với bệnh tật mà còn làm cho cơ thể khỏe mạnh, trẻ trung.
Nếu ăn không nhai kỹ và chậm thì chất Parotin không những tiết ra ít mà sẽ theo thức ăn xuống dạ dày và bị dịch vị phân hủy. Sự lãng phí này rất ít người biết tới!
• Cử động nhai của hàm còn kích thích, điều hòa nhu động của dạ dày, ruột do đó có tác dụng rất tốt trong tiêu hóa thức ăn. Đồng thời còn kích thích gan, lá lách tiết dịch và hoạt động hữu hiệu trong quá trình tiêu hóa.
Viết đến đây tôi chợt nhớ tới câu nói của cổ nhân “Miếng ăn đến miệng còn để rơi”! Nhưng ăn mà không nhai kỹ, nhai đúng cách... thì ngay cả miếng ăn đã đưa vào miệng, qua dạ dày rồi... vẫn bị “rơi”! Do cơ thể không hấp thu được các thành phần quý giá trong đó, như thế có phải là lãng phí không?
• Nhai kỹ, khí huyết trong đầu được lưu thông, do vậy não hoạt động hữu hiệu hơn. Động tác nhai còn kích thích hệ thần kinh giao cảm điều hòa, đẩy mạnh hoạt động của các tạng phủ, các tuyến nội tiết, nhịp tim và sự co dãn của mạch máu... làm cho hệ thống cơ mặt hoạt động nhiều, đó là sự luyện tập làm cho mặt linh hoạt, trẻ trung, cân đối...
Hơn thế nữa, trong khi nhai chậm và kỹ sẽ làm tăng khí lực cho các trung tâm thần kinh. Do vậy nhai kỹ, nhai chậm con người sẽ thông minh hơn lên!
• Điều vô cùng quan trọng là nhai kỹ sẽ làm tăng cường tiềm thức và tư duy sâu thẳm. Có lẽ vì thế mà ông cha ta đã ghép hai từ “nghiền” với “ngẫm” đi liền với nhau, nghĩa là nhai có nghiền kỹ thì ngẫm nghĩ mới sâu và khuyên rất thâm thúy: “Ăn phải nhai, nói phải nghĩ”!
Thực tế cho thấy: Những người luôn ăn vội vàng, nhai không kỹ thường suy nghĩ không sâu. Trẻ bị tật bẩm sinh không có phản xạ nhai mà chỉ nuốt thức ăn, thì trí não rất kém phát triển.
• Trái lại, khi ngồi nhai yên tĩnh, thư thái... chính là lúc được nghỉ ngơi, thanh thản, cũng là dịp luyện tập tính kiên trì, điềm đạm, buông xả... Tác dụng giống như thiền!
Điều này có thể hiểu như sau: Trong thiền định, hành giả chú tâm để trở về “không”, điều này rất khó, nhưng nếu vừa nhai kỹ, vừa chú tâm đến việc nhai hoặc đếm số lần nhai, sẽ quên tất cả những chuyện vô bổ, tâm thoát khỏi mọi đam mê trần thế! Bản thân tôi vì rất ít thời gian để giải quyết mọi việc, nên lâu nay thường xuyên ăn trong trạng thái thiền, để cùng một lúc thực hành được hai việc quan trọng là ăn và thiền. Tôi cảm nhận kết quả vô cùng tốt!
Ăn uống theo đúng luật Âm - Dương chính là thực hành nguyên lý vô song của vũ trụ thì chẳng những thể chất khỏe mạnh (luôn ăn ngon, ngủ sâu, không mệt mỏi...), trẻ trung (luôn khoan khoái, vui tươi...) và trường thọ. Đó chính là sự quân bình! Đạt được trạng thái quân bình, con người có thể chấp nhận tất cả những gì xảy đến bằng nụ cười bao dung, thanh thản. Đồng thời, theo giáo sư Ohsawa, nó còn mở ra cánh cửa của:
• Tự do vô biên
• Hạnh phúc vĩnh hằng
• Công bằng tuyệt đối
Khi sức khỏe thể chất và tinh thần đạt mức hoàn hảo thì khả năng linh cảm hay trí phán đoán sẽ nở hoa(*)!
(*) Người thường, trí phán đoán bị che mờ, đó là cội nguồn của mọi xấu xa, bệnh hoạn, tội ác, khốn cùng và chiến tranh!
Trình bày trên đây cho thấy nhai kỹ có vai trò quan trọng đến mức độ nào! Nhai kỹ có lợi chẳng những cho thể xác: Hết bệnh tật, khỏe mạnh, sống lâu; mà còn làm cho tinh thần sảng khoái, minh mẫn, trí tuệ thông minh, sáng suốt, thậm chí sự giác ngộ tâm linh tăng trưởng nhanh!
Vì thế, khi ăn càng nhai kỹ chừng nào, càng tốt chừng ấy. Phẩm chất của sức khỏe và tinh thần tăng tiến nhanh hay không, một phần là do khi ăn có nhai kỹ trong chánh niệm hay không! Đó lại chính là thành quả của thiền định!
4. PHƯƠNG PHÁP ĐƠN GIẢN NHẤT ĐỂ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG THỨC ĂN
Phương pháp “thực dưỡng theo Âm - Dương”, tốt nhất là thực phẩm phải đảm bảo tỷ lệ Âm/Dương bằng 5/1. Nhưng trong quá trình nấu nướng, chế biến, các yếu tố vật lý (nhiệt độ, áp suất), hóa học (muối, nước) đã làm thay đổi tỷ lệ ấy do sự đun nấu, pha loãng, làm khô, hòa hợp giữa các thành phần trong thực phẩm với nhau... Vì vậy tỷ lệ ban đầu đã thay đổi rất nhiều, nên việc đánh giá rất phức tạp.
Giáo sư Ohsawa đã nêu một phương pháp rất đơn giản, dễ dàng và thực dụng đối với mọi người để đánh giá chất lượng thức ăn bằng cách hằng ngày quan sát phân và nước tiểu của mình như sau:
a. Phân
Phải có màu vàng sẫm hay hơi nâu, độ cứng vừa phải, tạo thành khuôn, có búp, nổi trên nước, mùi không khó chịu... là thức ăn hôm trước có tỷ lệ Âm - Dương thích hợp.
Người khỏe mạnh, ăn theo phương pháp Ohsawa lâu ngày, sau khi đại tiện có thể không cần dùng giấy vệ sinh hay rửa nước (như những động vật), là đã đạt kết quả tuyệt vời.
Ngược lại, nếu phân có màu nhạt là do thức ăn hôm trước Âm tính. Màu ngà hay xanh lục là do thức ăn nhiều Âm tính. Phân nát, chìm, gần với màu đen là Âm thái quá. Nếu phân có mùi khó chịu, chứng tỏ sự vận chuyển của đường tiêu hóa không tốt...
Mỗi ngày đại tiện một lần là bình thường, nếu táo bón hoặc đại tiện hơn hai lần trong một ngày là đường tiêu hóa có sự rối loạn khá trầm trọng.
b. Nước tiểu
Nước tiểu tốt sẽ có màu vàng sẫm nhưng trong, không đục.
Nếu nước tiểu màu vàng nhưng sau 10 đến 15 phút có lắng cặn là bệnh khá nặng, có thể là bệnh thận, hoặc do thừa calo hay thức ăn hôm trước thiếu yếu tố Dương. Nếu nước tiểu quá loãng, trong và số lượng nhiều thì rất có thể đã bị bệnh tiểu đường!
Mỗi ngày (24 giờ) đàn ông đi tiểu ba lần, đàn bà đi tiểu hai lần là vừa. Nếu đi tiểu hơn bốn lần/ngày là đã bị bệnh hoặc do uống nước quá nhiều, và như vậy là tim, thận phải làm việc quá mức (xem lại phần “nước” Chương 2, mục II - 3).
5. GIÁ TRỊ DINH DƯỠNG VÀ TÁC DỤNG CHỮA BỆNH THEO PHÉP THỰC DƯỠNG CỦA OHSAWA
Nhiều người bị “nhồi sọ” rằng phải ăn thịt, cá, trứng đường, sữa... mới đủ chất, thường nghĩ: Các thức ăn thông thường như gạo lứt, vừng, đậu đỏ, bí đỏ, cà rốt, rau cải, muối... thì có gì là lạ, và làm sao có thể có đủ chất dinh dưỡng mà nuôi cơ thể chứ đừng nói đến khả năng chữa khỏi bệnh tật.
Trả lời vấn đề này, chúng ta hãy xem xét vài khía cạnh chính dưới đây:
a. Trước hết là giá trị dinh dưỡng của thức ăn theo phương pháp này
Loại trừ mục đích “sống để ăn”, ăn cho khoái khẩu thì “Phép thực dưỡng Âm - Dương” không đáp ứng được. Còn với yêu cầu chân chính “Ăn để sống”, tức là ăn đủ chất dinh dưỡng để nuôi cơ thể thì:
• Gạo lứt có đầy đủ các thành phần dinh dưỡng với tỷ lệ tuyệt hảo, cung cấp cho mọi nhu cầu chính đáng của cơ thể con người. Ngoài ra gạo lứt còn có những tính dược vô cùng quý giá như: phòng chống ung thư, chống nhiễm xạ, đào thải độc tố(*)... nên cây lúa và hạt gạo lứt xứng đáng được người cổ Đông phương tôn vinh là “hạt ngọc”, là “Thượng đế” (xem Phụ lục 1).
(*) Một số người bị bệnh nặng, uống quá nhiều thuốc tân dược, khi ăn cơm gạo lứt muối vừng thì nước tiểu rất hôi, sặc mùi thuốc tây, chứng tỏ sự đào thải rất mạnh. Sau đó phục hồi rất nhanh.
• Vừng, đậu đỏ, bí đỏ, cà rốt, muối... có thành phần rất bổ dưỡng và Dương tính cao. Vì thế, ăn thực dưỡng theo quân bình Âm - Dương chẳng những không tốn kém, lại có tác dụng nâng cao, bảo vệ sức khỏe, chống được nhiều bệnh tật mà việc nấu nướng lại đơn giản, đỡ tốn thời gian hơn rất nhiều.
Nếu ăn nới rộng ra với đậu nành hoặc các loại đậu khác thì, như đã trình bày trên đây (xem mục VI-2-a), tỷ lệ protein hoàn hảo luôn cao hơn thịt nhiều... Vậy thì còn đòi hỏi gì hơn thế nữa?
b. Về giá trị chữa bệnh
Thói thường vẫn nghĩ: Chữa bệnh thì phải dùng thuốc, mà thuốc quý là những thứ rất khó kiếm, từ một đất nước xa xôi nào đó, hoặc phải là một hóa dược có công thức phức tạp do các nhà bác học lỗi lạc vùi đầu nghiên cứu trong viện bào chế nhiều năm, hay ít nhất cũng phải là phương thức “bí truyền”... Thậm chí người ta còn khờ dại tin rằng: Thuốc càng đắt tiền càng tốt! Và thế là họ trở thành con mồi ngon cho những người kinh doanh bất chính.
Tệ hại hơn, có người còn nghĩ: Nếu dùng thuốc thật đắt, thật quý hiếm... mà có bị chết thì người bệnh sẽ được “ngậm cười” nơi chín suối! Thân nhân cũng được “toại nguyện”, “yên lòng”! Thật là một sai lầm đáng thương!
Nếu hiểu thế nào là thuốc hạ phẩm, trung phẩm, thượng phẩm... theo quan điểm chân chính của Đông y học cổ truyền(*), sẽ thấy nghĩ như trên là mê lầm, tai hại biết chừng nào! Và “phương pháp thực dưỡng Âm - Dương” theo Ohsawa thâm thúy, cao siêu đến đâu!
(*) Xem tiếp Chương 6 - Triển vọng của Thực dưỡng
c. Tuy thức ăn thông thường
Nhưng được sử dụng theo đúng nguyên lý Âm - Dương của vũ trụ, nên thực hiện được sự mầu nhiệm ngoài tưởng tượng. Giống như chỉ có bảy nốt nhạc đơn thuần, nhưng khéo phối hợp với nhau đã sản sinh ra những bản nhạc tuyệt tác! Từ hai mươi bốn chữ cái ghép lại có thể sáng tạo lên những áng văn chương bất hủ muôn đời!... Giá trị của một bức tranh không phải do giấy, do khung mà là do nơi nghệ thuật thể hiện... Giá trị của phép thực dưỡng theo Ohsawa cũng tương tự như thế!
Chính vì vậy, trong lĩnh vực chữa bệnh bằng thức ăn đã lưu truyền những câu nói bất hủ của các đại danh y Đông Tây: “Thức ăn thay thuốc có phần lợi hơn” (Hải Thượng Lãn Ông), “Thầy thuốc tốt nhất là bản thân thiên nhiên” và “Thức ăn phải là thuốc, thuốc phải là thức ăn của bạn” (Hypocrates).
d. Một số băn khoăn thắc mắc trong việc thực hiện ăn chay và ăn uống theo nguyên lý Âm - Dương
Khi giảng bài, thuyết trình, trao đổi và khuyên người bệnh thực hiện chế độ ăn uống, tôi thường gặp những ý nghĩ băn khoăn, thắc mắc trước việc chuyển sang chế độ ăn chay và ăn theo nguyên lý Âm - Dương như sau:
* Không đầy đủ chất bổ dưỡng nuôi cơ thể?
Trả lời: Vấn đề này đã được giải đáp đầy đủ và cặn kẽ ở các phần trên, chủ yếu ở Chương 1 và Chương 2, và Phụ lục 1. Những ai còn thắc mắc, xin đọc kỹ lại những phần đó.
Sau khi nghe lời khuyên ăn uống tiết thực rất nhiều người liền hỏi: “Vậy thì tôi ăn gì đây”? Câu hỏi này đã tiết lộ nguồn gốc bệnh tật và nỗi bất hạnh của người hỏi. Theo Ohsawa, nó chứng tỏ một đầu óc kém cỏi, ích kỷ, tự cao tự đại và đã phạm hết tội lỗi này đến tội lỗi khác trong cuộc sống hàng ngày mà vẫn không ý thức được lỗi lầm của mình! Họ không hiểu rằng từ các nguyên liệu đơn giản, rẻ tiền, dễ kiếm... nhờ nghệ thuật nấu nướng có thể chế biến ra những món ăn ngon, hấp dẫn, bổ dưỡng...
Các nhà dinh dưỡng học đã chỉ ra: Loài người luôn luôn ăn nhiều hơn so với nhu cầu của cơ thể từ ba đến mười lần (những người béo phì còn ăn nhiều hơn thế), nhưng lại luôn lo “thiếu chất”. Đó chỉ là đặc điểm nổi bật của tính tham ăn!
Qua trải nghiệm bản thân và theo dõi ở nhiều người, tôi có thể đi đến kết luận rằng: Ai sợ ăn gạo lứt muối vừng, rau củ thông thường sẽ bị thiếu chất, chắc chắn sẽ thuộc về 1 trong 3 loại người sau: 1) Không hiểu biết, 2) Tham ăn, 3) Vừa tham ăn vừa không hiểu biết! Tôi không tìm được loại người nào khác nữa, xin bạn đọc tìm giúp hộ!
Có thể khẳng định chắc chắn rằng ăn chay đúng cách hoàn toàn đủ chất, thậm chí tốt hơn hẳn ăn thức ăn huyết nhục!
* Chúa đã ban tặng cho loài ngưòi tất cả mọi thứ và muôn loài trên hành tinh này tại sao chúng ta không hưởng (ăn thịt chúng)?
Trả lời: Nếu hiểu sâu sắc thì nên nghĩ rằng, loài người phải có trách nhiệm giữ gìn, bảo vệ, chăm sóc... cho thiên nhiên, muôn loài, để quà tặng của Chúa ngày càng tốt đẹp hơn lên chứ? Chúa đã cho chúng ta muôn loài, thì con người phải thương yêu, dìu dắt chúng tiến hóa nhanh hơn, như thế có phải là tốt đẹp và cao thượng không? Sao lại chỉ nghĩ đến việc ăn thịt chúng?
Mặt khác, cần hiểu rằng, thiên nhiên hiến tặng cho loài người rất nhiều thứ, nhưng chúng ta phải biết chọn cho mình những thứ phù hợp và có lợi nhất để ăn chứ, sao lại ăn cào ăn cấu, ăn nghiến ăn ngấu tất cả mọi thứ? Chúa cho loài người tất cả, tức là cho cả đất đá, núi rừng, biển cả, sa mạc, ruộng đồng... Vậy chúng ta có ăn những thứ đó không?
* Nhưng, những con vật mà ta nuôi, sao ta không có quyền ăn thịt chúng?
Trả lời: Quyền là một việc, có sử dụng hoặc lạm dụng quyền đó hay không lại là chuyện khác! Sử dụng quyền để rồi gây hại cho thiên nhiên, xã hội và chính bản thân mình thì bạn có sử dụng quyền đó không? Nuôi cá, chim cảnh thì bạn có ăn thịt những con vật đó không? Hơn thế nữa, bạn cũng nuôi nấng các con của bạn đấy chứ? Thế bạn có ăn thịt các con của bạn không?
* Loài người không ăn thịt thì các loài vật sẽ sinh sôi nảy nở quá nhiều, lan tràn khắp hành tinh, làm mất cân bằng môi trường, sinh thái?
Trả lời: Vậy trước khi loài người xuất hiện trên hành tinh này thì có sự mất cân bằng đó không? Xin thưa hoàn toàn không! Thậm chí chỉ từ khi có mặt trên hành tinh này, do thiếu ý thức, loài người đã phá hủy sự cân bằng sinh thái, thiên nhiên quá nhiều!
Vì thiên nhiên có khả năng tự điều chỉnh tuyệt vời: Nếu cây cỏ phát triển nhiều thì động vật ăn thực vật sẽ phát triển theo. Nhưng khi số lượng động vật quá nhiều thì cây cối suy kiệt, thức ăn giảm, kéo theo sự suy giảm của động vật ăn thực vật.
Mặt khác, khi động vật ăn thực vật phát triển mạnh thì động vật ăn thịt sẽ nhờ đó mà phát triển theo. Nhưng đến mức độ nhất định thì thức ăn khan hiếm do động vật ăn thực vật ít đi, sẽ kéo theo sự suy giảm số lượng động vật ăn thịt...
Vì thế, hãy để cho thiên nhiên tự giải quyết những vấn đề của chính nó sẽ tốt hơn nhiều có sự can thiệp của loài người vô minh! Lo lắng về vấn đề này thực sự là thừa!
* Nếu toàn thể loài người không ăn thịt thì ngành chăn nuôi sẽ chết sao?
Trả lời: Khi không ai ăn thịt nữa thì ngành chăn nuôi như hiện nay tồn tại làm gì? Lúc đó loài người sẽ có thời gian chăm sóc, che chở... cho các loài vật. Thử tưởng tượng, mỗi lần ta bước ra ngoài trời, muông thú vui mừng, tíu tít vây quanh, bày tỏ lòng quý mến, tin tưởng... thì còn hạnh phúc nào bằng? Như vậy, chẳng những mối quan hệ giữa con người và các loài sẽ tốt đẹp hơn nhiều, mà còn tránh gây ra bệnh tật cho các loài vật do điều kiện chăn nuôi tập trung, chật hẹp, phi tự nhiên và tránh được bệnh tật từ vật nuôi lây sang người!
Lúc đó, loài người lại có điều kiện (thời gian, tịnh tâm...) dành cho việc tu luyện tâm linh, nâng cao chính mình, làm đẹp hành tinh, thiên nhiên, xã hội... Lợi ích to lớn biết chừng nào? Hơn thế nữa, việc không ăn thịt còn cứu được hành tinh này thoát khỏi bị hủy hoại (mục V - 1 - a, Chương 2).
Do vậy chúng ta không cần phải lo đến vấn đề mà câu hỏi này đặt ra!
* Không ăn thịt thì nhiều nhu cầu sẽ giảm theo, như vậy là không thúc đẩy xã hội phát triển?
Trả lời: Cứ làm như mỗi lần chúng ta đưa miếng thịt vào mồm thì xã hội sẽ tiến thêm một bước không bằng!
Trái lại, ăn thịt là cách ăn không kinh tế nhất! Ngươi ăn thịt chẳng những ăn tranh mất phần của đồng loại, mà còn gây ra nhiều bệnh tật, đe dọa tính mạng chính mình (xem lại Chương 2, mục V).
Thế thì, chính việc ăn thịt mới kìm hãm xã hội phát triển chứ? Trái lại ai cũng ăn chay theo nguyên lý Âm - Dương mới thực sự thúc đẩy xã hội phát triển về mọi mặt, nhất là lĩnh vực sức khỏe, tâm linh, nhân văn!
* Nhưng vì sao một số người ăn chay trường kể cả người tu hành vẫn bị bệnh, thậm chí bệnh nan y?
Trả lời: Những phần trước và đầu chương này, chúng ta đã thấy dù ăn “chay” hay “mặn” nhưng không tuân theo luật Âm - Dương của trời đất thì kết quả sẽ không tốt đẹp, có thể mắc nhiều bệnh, kể cả bệnh nan y.
Nhiều người ăn chay trường, nhiều cơ sở tu hành, nhất là các cửa hàng nấu đồ chay, mà tôi đã trực tiếp tìm hiểu, thường sử dụng quá nhiều mì chính (bột ngọt) cho ngon miệng, vì nghĩ rằng đó là loại thực phẩm “chay” mà không hiểu rằng mì chính là hóa chất rất độc hại (xem Phụ lục 6).
Thêm vào đó nhiều người tuy ăn chay trường, nhưng lại không theo đúng nguyên lý Âm - Dương, thường ăn quá nhiều thức ăn Âm như nấm, măng, giá, hoa quả, ăn nhiều dầu, uống quá nhiều nước, nhất là nước ngọt, nước đá, nước để trong tủ lạnh...
Bên cạnh đó, nhiều người do chưa nhận thức đúng mức và chưa thực hành tốt việc rèn luyện làm chủ tâm thức... nên không tin tưởng vào phương pháp thực dưỡng theo nguyên lý Âm - Dương, hoặc quá tham sân si nên đã trợ duyên cho bệnh tật phát sinh, hoành hành...
Vì vậy, ăn uống đúng phép là điều kiện quan trọng, nhưng phải đi kèm với cách sống, cách ứng xử phù hợp với xã hội, tự nhiên và vũ trụ! Ai thực hiện đúng việc ăn chay theo nguyên lý Âm - Dương và luôn ban trải tình thương, hơn nữa luôn biết ơn sâu sắc mọi người, thiên nhiên, vũ trụ... nhất định người đó sẽ có cuộc sống vui tươi, an lành, khỏe mạnh, sống lâu có ích.
“Yêu thương là gương mặt và hình hài của vũ trụ; là chiếc cầu nối liền vũ trụ với chất liệu tạo nên chúng ta; là trải nghiệm trọn vẹn cuộc sống và liên kết với siêu phàm vũ trụ” (Barbara Ann Brennan, nữ tiến sĩ vật lý, làm việc tại Trung tâm nghiên cứu vũ trụ Nasa của Mỹ, tác giả cuốn sách Bàn tay ánh sáng nổi tiếng).
* Ăn theo phương pháp dưỡng sinh của Ohsawa tuy có tốt thật, nhưng sau đó không thể trở lại ăn bình thường được nữa?
Trả lời: Đây là sự băn khoăn, của những người vừa muốn chữa khỏi bệnh, vừa luyến tiếc của ngon vật lạ. Qua kinh nghiệm thực tế của tôi và những người đã từng thực hành thấy rằng:
Ăn cơm gạo lứt muối vừng với các thực phẩm chay một thời gian ngắn sức khỏe sẽ tốt hẳn lên; khả năng làm việc chịu đựng, tăng tiến rõ rệt; nhiều bệnh thông thường và bệnh nan y nhanh chóng được bình phục, khỏi hoặc, trong người luôn có cảm giác nhẹ nhàng, thanh thản, thoải mải. Đó là điều cơ bản quan trọng nhất.
Khi trở lại chế độ ăn uống bình thường, sẽ có những xáo trộn nhỏ như sôi bụng, bí bích... vài ngày. Chứng tỏ đường tiêu hóa của ta đã trong sạch, cơ thể đã làm quen với chế độ ăn uống đúng, nên phản ứng với thức ăn hỗn tạp không quân bình. Phản ứng càng mạnh bao nhiêu, càng chứng tỏ tác dụng tốt của thời kỳ ăn theo đúng nguyên lý Âm - Dương bấy nhiêu; càng chứng tỏ khẩu phần ăn bình thường là không hợp lý, không đúng phép Âm - Dương.
Biết rõ điều này thì bạn có thích quay lại cách ăn tạp nham sai lầm nghiêm trọng như cũ nữa không? Điều đó hoàn toàn tùy thuộc vào bạn và chỉ vào bạn mà thôi!
Tuy nhiên, xin bạn yên tâm, tình trạng bí bích do trở lại cách ăn uống theo thói cũ chỉ vài ngày là hết, cơ thể sẽ làm quen trở lại với trạng thái lúc trước khi thực hành dưỡng sinh. Không có gì đáng lo ngại về chuyện này cả!
Nhưng nếu đã chứng nghiệm sự siêu việt của chế độ ăn uống theo nguyên lý Âm - Dương rồi, thì tốt nhất bạn không nên trở lại cách ăn uống sai như cũ nữa! Đó mới là sự lựa chọn sáng suốt!
Còn như, muốn quay trở về đường cũ thì tùy bạn. Bạn chỉ có một trong hai cách để lựa chọn: Hướng tới cuộc sống bình an, mạnh khỏe; hoặc là đi tới bệnh tật và nấm mồ! Đó là quyền và trách nhiệm của riêng bạn. Chẳng còn cách lựa chọn thứ ba nào khác đâu!
* Ăn uống theo nguyên lý Âm - Dương lâu ngày, nếu chẳng may ăn phải thức ăn lạ liền bị bí bích, tiêu chảy, sốt, ói mửa hoặc dị ứng, nổi mụn nhọt... như thế là khả năng đề kháng kém hơn so với ăn uống bình thường?
Trả lời: Đúng là có hiện tượng như thế. Nhưng đó không phải là khả năng đề kháng kém, mà trái lại, là phản ứng điều chỉnh thải độc tốt hơn bình thường! Những hiện tượng đó khác với sự suy thoái, bệnh tật.
Nếu không có khả năng đào thải tốt thì độc tố âm thầm tích lũy trong cơ thể, đến mức độ nhất định sẽ làm cho phẩm chất, chức năng của các cơ quan bị suy kiệt, từ đó các bệnh nan y như ung thư, tiểu đường, tim mạch, béo phì, gút, thần kinh tọa, suy giảm khả năng miễn dịch... xuất hiện, thì tai hại còn lớn hơn rất nhiều!
Vì vậy, chẳng may ăn phải thức ăn có độc tố thì bạn thích cơ thể mình sẽ thế nào: Không có phản ứng gì để chất độc âm thầm tích tụ, xâm nhập vào nội tạng gây bệnh hiểm nghèo, hoặc phản ứng quyết liệt, tự đào thải, như phát tín hiệu báo động cho ta biết mà sửa đổi ngay cách ăn uống?
Bản thân tôi sau thời gian dài ăn thuần chay, chủ yếu ăn cơm gạo lứt muối vừng và rau sạch tự trồng, bây giờ, chỉ ăn một gắp rau mua ngoài chợ là liền bị dị ứng, nổi ban, ngứa ngáy!... Điều này nói lên:
• Thực phẩm ngày nay bị nhiễm độc quá nhiều, rau xanh cũng không còn sạch sẽ nữa!
• Cơ thể đã khá trong sạch nên phản ứng tức thời, quyết liệt với độc tố trong thức ăn.
Điều đó có thể có cảm giác: phiền phức, khó chịu, hoặc vui vì cơ thể mình luôn mách bảo những gì độc hại cần tránh để duy trì sức khỏe và cuộc sống trong sạch!
Tôi không hề thấy phiền phức, khó chịu, mà còn vô cùng biết ơn cơ thể mình!
Có thể hỗ trợ cơ thể tẩy độc nhanh như sau: ăn cháo đậu xanh hoặc đắp nước gừng, cao khoai sọ, ngâm trong nước lá củ cải... tốt nhất là nhịn ăn vài ba ngày là độc tố sẽ bị đào thải hết! (xem tiếp Chương 5 - Nhịn ăn chữa bệnh)
* Ăn gạo lứt muối vừng phải nhai kỹ, nhai lâu nên rất mất thời gian?
Trả lời: Đúng! Thời giờ là vàng ngọc, nên quý nó là rất chính đáng. Nhưng:
Ăn cơm gạo lứt muối vừng và rau sạch, mỗi bữa trung bình mất 45 phút, tuy có hơi lâu hơn bữa ăn thông thường, nhưng không kéo dài bằng những bữa tiệc, lai rai...
Bù vào đó lại không tốn thời gian nấu nướng như những bữa ăn thường ngày, muối vừng rang một lần có thể ăn được cả tuần, cơm nấu một lần ăn được vài ngày do không dễ bị thiu như cơm gạo trắng. Chỉ nấu ít thức ăn chay thì rất đơn giản, nhanh chóng.
Điều quan trọng nhất là nhai kỹ sẽ đem lại rất nhiều lợi ích to lớn (phần III -3 - c chương này). Kết quả là người khỏe mạnh, không bệnh tật, nên chẳng mất thời gian tiền của... đi khám, chữa bệnh, cuộc sống lại vui tươi, năng suất làm việc cao hơn hẳn... như vậy thực sự là rất lợi về mặt thời gian chứ!
Hơn nữa, nói nhai kỹ mất thời gian là “mất” đi đâu, “mất” cho ai chứ? “Mất” cho lợi ích của chính mình, thế là “được” chứ sao lại là “mất”?
* Ăn chay trường theo nguyên lý Âm - Dương, chỉ ăn gạo lứt muối vừng, thức ăn chay, thì khả năng tính dục liệu có suy giảm không?
Trả lời: Về mặt tính dục, các động vật ăn thực vật luôn ở đẳng cấp cao, đặc biệt ở loài dê, ai cũng thấy dê chỉ ăn thảo mộc, nhưng không một ai không thừa nhận tính dục “siêu hạng” của loài này! Các động vật ăn thịt luôn luôn ở “thứ bậc” thấp hơn hẳn về khả năng tính dục đã giải thích rõ điều đó.
Những người cao tuổi vẫn còn sinh đẻ đều là dân cư của các bộ lạc không ăn thịt (xem mục I - 3, Chương 2). Thực tế đó đã trả lời thỏa đáng thắc mắc này rồi!
* Ăn gạo lứt muối vừng theo nguyên lý Âm - Dương ngoài sức khỏe tốt, còn thu được những lợi ích gì nữa?
Trả lời: Ăn gạo lứt muối vừng theo nguyên lý Âm - Dương nếu chỉ coi là lối ăn uống tiết thực đơn thuần, nhằm mục đích chữa bệnh và có sức khỏe tốt thì chưa hoàn toàn đúng!
Sống lâu trên trăm tuổi, thân hình khỏe mạnh, vạm vỡ... mà làm gì nếu chỉ để lo về các vấn đề vật chất tầm thường? Sống như thế quả là vô nghĩa, phức tạp mà thật đáng buồn! Đời sống vật chất chỉ là hư ảo! Đời sống tinh thần mới là bất diệt!
Triết lý của phương pháp ăn uống theo nguyên lý Âm - Dương chẳng những bảo đảm thể chất khỏe mạnh, có khả năng đề kháng tốt với bệnh tật và những hoàn cảnh bất lợi. Mà khi sức khỏe hoàn hảo sẽ khai mở trí phán đoán tối cao, từ đó mở ra cánh cửa của hạnh phúc vĩnh hằng, tự do vô biên, công bằng tuyệt đối. Nền triết lý ấy che chở cho người thực hành tránh được tai nạn trong cuộc đời! (xem tiếp mục VI, Chương 4).
Vì vậy hãy tạo cho mình trước tiên một cơ thể lành mạnh nhờ thức ăn đúng đắn. Trên nền tảng đó hãy tích cực, chủ động đón nhận sự thay đổi triệt để ở nhiều vấn đề, các cấp độ khác nữa. Mục đích của phương pháp thực dưỡng là đạt được sự tự chủ trong mọi mặt của đời sống, mà điều quan trọng nhất là phải có tinh thần tích cực, vững tin vào khả năng tự chữa bệnh của chính mình, phải nhận thấy trách nhiệm hỗ trợ cho cơ thể mình tự chữa bệnh... Từ đó mới có thể bước vào thế giới huyền diệu của vũ trụ, sống thực sự một cuộc sống đầy ý nghĩa!
Ai nghĩ rằng thầy thuốc sẽ làm mọi việc để chữa bệnh cho mình đều không thích hợp với phương pháp trị liệu bằng thực dưỡng!...
Nếu tinh thần đạt tới mức có thể cảm thông với mọi người, thân tâm vui tươi, lành mạnh thì cuộc sống quả là kỳ thú, chỉ cần sống vài giờ như thế cũng có giá trị hơn sống cả một đời người trong mê mờ, khổ não, bế tắc!...
Người thực hành thực dưỡng chân chính, rốt ráo thì bất kỳ lúc nào (khi thức, lúc ngủ) cũng luôn trong trạng thái tràn ngập vui tươi, hạnh phúc, ung dung, tự tại... Mà những cái đó nếu đem hàng chục tỷ đồng, một thể xác cao to vạm vỡ, một địa vị xã hội cao sang tột đỉnh... để so sánh thì cũng chẳng có nghĩa lý gì!
Vì vậy, người áp dụng phép thực dưỡng Âm Dương có kết quả cần tự thấy mình có bổn phận truyền bá phương pháp này cho nhiều người khác. Đó là cách trả ơn cho Tạo hóa, trả nợ cho sự hiểu biết về thực dưỡng Âm - Dương!
* Biểu hiện tích cực cụ thể của việc ăn cơm gạo lứt muối vừng như thế nào?
Trả lời: Do cách sống sai, môi trường không trong sạch, ăn uống trái tự nhiên... nên độc tố tích tụ trong các mô, cơ quan và từng tế bào, gây cản trở, làm rối loạn mọi hoạt động sinh lý của cơ thể, từ đó bệnh xuất hiện!
Tác dụng đầu tiên và rõ rệt nhất của ăn cơm gạo lứt muối vừng là đào thải các chất độc, cặn bã đó. Quá trình này thực chất là các thành phần tốt của cơm gạo lứt muối vừng được từng tế bào tiếp nhận để thay thế những thành phần không tốt trước đó. Thế là cơ thể được đổi mới, trong sạch, các hoạt động sinh lý trở lại bình thường, bệnh hết, sức khỏe phục hồi.
Xin nêu vài biểu hiện cụ thể như sau:
Một “ca” bệnh nặng, uống nhiều thuốc tân dược, chụp cắt lớp, MRI... sức khỏe suy sụp nghiêm trọng, cái chết cận kề, sự sống chỉ còn đếm từng giờ... Nhưng ăn cơm gạo lứt muối vừng, đến ngày thứ hai trở đi thì nước tiểu khắm khú nồng nặc, mồ hôi vô cùng hôi hám, ngày nào cũng phải tắm, gội, ngay sau đó mồ hôi lại ra, cơ thể lại tỏa mùi hôi hám, khó chịu. Phải hơn một tuần sau tình trạng ấy mới giảm dần.
Điều này cho thấy: tác dụng đào thải tuyệt vời của cơm gạo lứt muối vừng, mặt khác, thuốc tân dược cũng như các liệu pháp vật lý của y học hiện đại vô cùng độc hại!
• Một người sau khi đọc quyển sách này đã cho bố mẹ mình ăn cơm gạo lứt muối vừng, chỉ vài ngày sau cả hai cụ đều đi ngoài ra phân đen và nước, nhiều khi nước tự động rỉ ra qua hậu môn. Đó là trước đây hai cụ bị bệnh ở đường tiêu hóa. Hơn một tuần sau hiện tượng trên mới hết!
• Nhiều trường hợp ăn cơm gạo lứt muối vừng bị đi lỏng, hơi thở nặng mùi, người mệt rã rời... do độc tố đào thải quá mạnh. Nhưng chỉ ít ngày sau những biểu hiện ấy chấm dứt. Nhiều thiếu nữ, nhất là trước đó kinh nguyệt trục trặc, ăn cơm gạo lứt muối vừng một thời gian thì tắt kinh. Đó là hiện tượng tự sắp xếp, thanh lọc, điều chỉnh của cơ thể. Mấy tháng sau có kinh trở lại, thì rất đều, màu đỏ tươi, không còn bị đau bụng, khó chịu, mệt mỏi như trước nữa!
• Mọi người ăn cơm gạo lứt muối vừng đều giảm một vài cân, những người béo phì có thể giảm 5 đến 7 cân/tháng, là do bạc nhạc, nơi tích tụ độc tố cặn bã bị đào thải! Sau một thời gian, tùy người, hiện tượng giảm cân ngừng, cơ thể khỏe mạnh, rắn chắc, tinh thần khoan khoái, phấn chấn hơn lên rõ rệt, sau đó thì tăng cân nhưng chỉ đến mức cân bằng chứ không béo bệu trở lại nữa.
Những hiện tượng trên là biểu hiện của sự thanh lọc, làm sạch cơ thể, là những biểu hiện đáng mừng. Nhưng nhiều người không hiểu biết nên hoang mang, lo sợ, rồi “bỏ cuộc”. Thật đáng tiếc vô cùng!
* Ăn theo công thức số 7 của Ohsawa như thế nào cho tốt nhất?
Trả lời: Công thức số 7 của thực dưỡng Ohsawa là chỉ ăn gạo lứt với muối vừng, ngoài ra không ăn bất cứ thứ gì khác. Ưu điểm nổi bật của công thức này là: Thúc đẩy quá trình thanh lọc, đào thải độc tố trong cơ thể, các mô, từng tế bào và máu nhanh nhất, hiệu quả chữa bệnh cao nhất.
Nhưng, ăn theo công thức số 7 cũng có những mặt hạn chế, người thực hành cần nắm vững như sau:
• Chuyển từ cách ăn uống đa dạng, nhiều chất, theo khoái khẩu... sang ngay cách ăn theo công thức số 7 là sự chuyển đổi đột ngột, cơ thể buộc phải tự điều chỉnh quá nhiều do vậy thường không thích nghi kịp, từ đó có thể rối loạn hệ tiêu hóa, gây sốc hệ thần kinh...
• Đào thải độc tố một cách ồ ạt, có thể gây ra phản ứng bất thường, thậm chí gây bệnh, khiến cơ thể khó thích nghi kịp, nên thường tạo cảm giác khó chịu, mệt mỏi, thậm chí hoang mang, lo sợ, nghi ngờ... về mặt tâm lý do chưa được chuẩn bị kỹ, người thực hành rất dễ bị quyến rũ bởi những đồ ăn thức uống khoái khẩu, quen thuộc vốn đã gây bệnh cho họ trước đó!
Vì thế, khi chuyển sang ăn theo công thức số 7 phải từ từ, để không đột ngột so với thói quen ăn uống trước đó, đặc biệt phải phù hợp với điều kiện khí hậu, thời tiết, giới tính, hoàn cảnh, hoạt động... nhằm tránh gây “sốc” đối với tâm sinh lý của người thực hành, tránh những phản ứng bất lợi do sự thay đổi chế độ ăn uống đột ngột gây ra.
• Điều quan trọng hơn cả là: Kết luận “hoàn toàn đủ chất” của tiên sinh Ohsawa là đúng, chính xác, khách quan trong hoàn cảnh lúc đó. Nhưng cho đến nay đã hơn nửa thế kỷ. Hiện tượng rửa trôi hàng năm đã lấy đi trung bình 1% các chất khoáng trong đất. Nên hàm lượng khoáng trong đất đã hao hụt quá nhiều, đất canh tác ngày càng lâm vào tình trạng thiếu khoáng vi/đa lượng trầm trọng. Nông sản ngày càng rỗng về khoáng và vitamin!
Vì thế, ăn theo công thức số 7 lâu dài sẽ bị thiếu chất là điều đương nhiên, dễ hiểu. Do vậy chỉ nên áp dụng một thời gian ngắn nhằm đào thải nhanh độc tố. Sau đó ăn mở rộng ra (thêm rau, củ, đậu, rong biển, hạt sen, kê...) cho đủ chất để củng cố, phục hồi, nâng cao sức khỏe, nhưng phải luôn bảo đảm những điều kiện có lợi: Không làm tăng axít nội môi trường, chẳng tạo thêm độc tố đầu độc cơ thể... Sau đó lại tiếp tục các đợt ăn theo công thức số 7 ngắn hạn khác. Như vậy sẽ an toàn và kết quả vững chắc.
Hơn nữa, môi trường sống trong nửa thế kỷ qua đã diễn ra biết bao đổi thay: Không khí, nguồn nước, nguồn thực phẩm không còn được trong sạch như trước. Gạo lứt chẳng còn được như gạo lứt ngày xưa nữa. Cuộc sống luôn bị lôi cuốn bởi nhiều thứ, không còn như hơn nửa thế kỷ trước đây. Tâm lý con người cũng phức tạp hơn nhiều, ý chí, lòng tin chẳng còn được kiên định như trước, nên khó thực hiện sự nghiêm ngặt, hà khắc trong việc ăn theo công thức số 7.
Chính vì thế, một số người cố chấp, bản thân cương quyết chỉ ăn theo công thức số 7, buộc người bệnh tuân theo cách ăn đó lâu dài, nhiều khi đã dẫn đến kết quả không mong muốn, thậm chí có hại, khiến nhiều người nghĩ sai, đánh giá không đúng, bài xích phương pháp thực dưỡng chân chính này.
SỰ GIẢM SÚT VỀ KHOÁNG VÀ VITAMIN CỦA MỘT SỐ NÔNG SẢN Ở CHÂU ÂU TỪ NĂM 1985 ĐẾN 1996
(Tính theo mg/100 g nông sản)
Cái gì cũng vậy, nếu không tìm hiểu sâu sắc, chẳng chú ý đúng mức đến thực tế khách quan sinh động để điều chỉnh cho phù hợp, thực hành sáng tạo, mà chỉ áp dụng một cách mù quáng, cứng nhắc, thì nhiều khi dẫn đến kết quả ngược lại! Rồi hoang mang, nghi ngờ... thì thà rằng không áp dụng còn hơn!
* Xem như vậy thì việc ăn gạo lứt muối vừng rốt ráo là quá cao siêu, không dễ dàng, đơn giản chút nào cả, có đúng thế không?
Trả lời: Tất nhiên, nếu không khó thì đã chẳng thành vấn đề! Nhưng cũng không khó đến mức không thể thực hành được! Điều quan trọng là phải tin tưởng và quyết tâm thực hành nghiêm túc, triệt để.
Không nên coi phương pháp thực dưỡng là chế độ ăn uống chỉ áp dụng trong thời gian chữa bệnh, đến khi khỏi thì ngưng, thậm chí lại trở về lối ăn uống sai lầm, cẩu thả, bừa bãi! Mà phải coi đó là một triết lý cần thực hành nghiêm ngặt suốt đời!