Trong giai đoạn khủng hoảng tiếp sau chiến thắng quân sự năm 1975, Phạm Xuân Ẩn ít có thời gian để thắc mắc. Vợ và bốn con còn đang ở Mỹ mà ông không thể hay không muốn sang đoàn tụ? Mấy năm trước, một trong những người bạn của ông ở miền Nam Việt Nam, tướng Nguyễn Chánh Thi, sống lưu vong ở Hoa Kỳ từ 1966 sau một cuộc đảo chính quân sự không thành, đã viết thư cho ông. Thi cho biết các con ông đang nhiễm thói hư tật xấu tiêm nhiễm từ xã hội Mỹ. Ẩn quyết định để vợ con lựa chọn hoặc ở lại Mỹ hoặc trở về Việt Nam. Năm sau, vợ ông và các con trở về. Trong thời gian đó, Ẩn và bà mẹ đã rời khách sạn Continental để về ở ngôi nhà do chính quyền cấp cho ông. Mẹ ông đã qua đời tại đây và ông cũng ở luôn đó cho đến nay.
“Vụ việc bác sĩ Trần Kim Tuyến” mà ông Ẩn đã kịp thời đưa lên chuyến trực thăng cuối cùng của CIA xem ra đã được chôn vùi. Về vấn đề này ông khẳng định không bị ai chê trách gì. Ông tỏ ra dứt khoát trong chuyện này. Ông đã không kịp hỏi cấp trên của ông để được phép giúp Tuyến ra đi. Ông nói: “Tôi nghĩ rằng việc này chẳng quan trọng mấy. Sau giải phóng, cơ quan an ninh đã truy lùng Trần Kim Tuyến. Có người đã nói Phạm Xuân Ẩn đã giúp ông ta đi thoát. Người Việt Nam độ lượng và nhân đạo. Khi chúng tôi bị xâm lược, chúng tôi sẵn sàng chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Nhưng chiến tranh kết thúc rồi, chúng tôi không bao giờ nghĩ đến chuyện trả thù, không ai đề cập vấn đề đó”. Ông Ẩn cảm thấy lương tâm thanh thản. Ông nói ông không thể bỏ mặc một người đã giúp đỡ, che chở ông mặc dù người đó nguyên là trùm mật vụ của chế độ Sài Gòn. Vậy chuyện kể trên đã được chứng thực.
Trong khi chờ đợi gia đình trở về, ông cảm thấy trơ trọi. Ông kể lại: “Cùng với một phóng viên quay phim, tôi đi Hóc Môn, nơi các tướng lĩnh quân đội Sài Gòn đang bị giam giữ. Sau đó họ được đưa ra Bắc. Phần lớn các bạn của tôi đều đã di tản. Những người khác đang ở trại cải tạo”. Ngược lại, ông gặp lại những người đồng chí trong cơ quan tình báo cộng sản đã cùng làm việc với ông mười lăm năm qua mà phần lớn thời gian trước, ông không thể giao tiếp trực tiếp với họ.
Tôi hỏi: “Trước đây anh có nghĩ rằng những ngày sau chiến thắng lại khó khăn nhường ấy không?”.
Ông đáp: “Tôi cũng đã chuẩn bị. Vì tôi biết những gì những người cộng sản đã làm từ 1945 đến 1975. Tôi biết rằng sẽ vất vả lắm nhưng tôi nghĩ có thể sống được. Tuy nhiên, vì quá biết những điều gì đã xảy ra ở miền Bắc khi cải cách ruộng đất trong những năm 1955 - 1956, tôi không mong sẽ tái diễn những sai lầm đó về mặt kinh tế”.
Năm 1978, ông được triệu tập ra Hà Nội để học tập chỉnh huấn tại Học viện Chính trị của quân đội. Ông nói dí dỏm: “Ở đó tôi đã học những thuật ngữ cộng sản bằng tiếng Việt”. Ẩn đã sang tuổi năm mươi và đó là lần đầu tiên ông theo học một lớp chính trị của Đảng. Ông kể chuyện vui vẻ: “Một trong số các bạn của tôi nói tôi phải giữ ý tứ. Vì xấu hổ, tôi không quen với việc giặt giũ quần áo cùng với các đồng chí của mình”. Cách ứng xử đó đã được cho là “tiểu tư sản”. Người “Mỹ con” hay “con trai Mỹ” đã được khuyên rũ bỏ những ảnh hưởng tiêu cực vì phải tiếp xúc với người nước ngoài trong bấy nhiêu năm. Hoàn cảnh xung quanh lúc ấy là như thế. Trước đó, ông chỉ đi Hà Nội có một lần. Thời gian ở lại thủ đô ngắn ngủi để tham dự Đại hội IV của Đảng vào năm 1976 trong đó Đảng lấy lại tên Đảng Cộng sản. Lần này, ông ở lại Hà Nội chín tháng để học chính trị. Khi quân đội Việt Nam vào Campuchia, người ta đề nghị ông quay về miền Nam. Ông thận trọng trả lời: Ông thích ở lại Hà Nội để dự xong lớp chỉnh huấn. “Một cuộc chỉnh huấn nhẹ nhàng”, ông nói.
Bước ngoặt thật sự sau năm 1975 chỉ diễn ra mười năm sau đó. Vì lý do chiến tranh đang diễn ra ở Campuchia và trên biên giới phía Bắc, nền kinh tế đất nước đang ở trên bờ phá sản. Sản xuất tụt, lạm phát 480%. Chỗ dựa duy nhất là Liên bang Xô Viết đang hết hơi. Năm 1985, Gorbachev lên cầm quyền ở Moscow và muốn cải tổ để cứu vãn tình hình. Mùa hè năm 1986, tức là trước Đại hội VI, Đảng Cộng sản cử một đoàn đại biểu cấp cao đến Moscow, do Trường Chinh dẫn đầu vì Tổng bí thư Lê Duẩn vừa qua đời. Điều phái đoàn mong đợi ở Kremlin chỉ là một cú “sốc” không kém việc Trung Quốc tấn công năm 1979.
Phạm Xuân Ẩn tóm tắt tình hình lúc đó: “Chúng tôi đã mồ côi mẹ nay lại mồ côi luôn cả bố”. Gorbachev nói với phái đoàn: Moscow không còn tài chính để chi viện cho cuộc can thiệp quân sự của Việt Nam ở Campuchia. Liên Xô cũng đang giảm viện trợ kinh tế. Việt Nam phải nhanh chóng tự xoay xở một mình. Cách duy nhất để đạt tới là: Hòa giải với Trung Quốc, rút quân khỏi Campuchia, tiến hành cải cách kinh tế đồng thời mở cửa Việt Nam thu hút đầu tư của phương Tây.
Đảng Cộng sản Việt Nam bị tréo giò. Sự thức tỉnh là tàn nhẫn. Nhưng Trường Chinh phản ứng một cách điềm tĩnh. Con người đã bị mất chức Tổng bí thư vì bị cho là chịu trách nhiệm về những biểu hiện sai lầm quá đáng trong cải cách ruộng đất những năm 1955 - 1956 và nay được phục hồi Tổng bí thư, dù chỉ ở chức vụ tạm quyền nhưng nó chứng tỏ ông vừa dũng cảm vừa sáng suốt. Trong một bài tự phê bình được phát trên đài vào giữa tháng Chín, Trường Chinh nói: “Đảng Cộng sản phải thay đổi và đổi mới phải là nhiệm vụ cấp thiết để đưa vào nghị quyết của Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng được dự kiến tổ chức vào tháng Mười Hai”. Ông nói kinh tế thời chiến phải được thay bằng kinh tế thời bình.
Đổi mới là khẩu hiệu lúc này. Công cuộc chuẩn bị Đại hội bị đảo lộn. Không thể có vấn đề lên án quyền lực tuyệt đối của Đảng, phải tìm ra những biện pháp để Đảng tồn tại được. Việc thực hành chủ trương đổi mới châm ngòi cho cuộc đấu tranh mạnh mẽ giữa các phe phái trong nội bộ Đảng và đã đi đến một sự thỏa hiệp không thể tránh khỏi. Khẩu hiệu Đổi mới ít nhất có lợi là trở lại khái niệm kinh tế thị trường và mở cửa Việt Nam ra thế giới bên ngoài, 12 năm sau chiến thắng của Cộng sản. Đất nước bắt đầu tái hòa nhập vào cộng đồng quốc tế. Lần đầu tiên đã nhìn thấy ánh sáng cuối đường hầm.
Ẩn hãy còn hoài nghi. Năm 1979, ông gặp lại gia đình từ Mỹ trở về tại thành phố Hồ Chí Minh. Ông sống đạm bạc, ngay cả khi đã được phong Thiếu tướng. Ông khước từ mọi quyền lợi mà ông có quyền được hưởng. Không có xe ôtô, không có tài xế. Ông đi lại trong thành phố bằng chiếc Honda mini chắp vá. Thành phố với tên cũ là Sài Gòn nay đầy ứ xe hai bánh có hay không có động cơ chiếm lĩnh các vỉa hè. Nhìn ra xung quanh, ông Ẩn đã nhận thấy nhiều thay đổi đang xuất hiện. Ngay cả quân nhân và cảnh sát cũng lao vào kinh doanh. Ông Ẩn thấy đất nước đang thay da đổi thịt, vừa ra khỏi trạng thái trì trệ bảo thủ nay lại rơi vào cảnh hỗn độn. Sài Gòn phát triển bất kể tiến như thế nào. Nghiện ma túy ở thanh niên trở thành vấn nạn. Giáo dục công cộng tan rã dần. Nhà của ông còn bị giám sát một thời gian nữa và hiếm có người nước ngoài nào được phép đến gặp ông. Mọi thứ chỉ bớt căng thẳng sau bước ngoặt của những năm 1990.
Tôi đã phải chờ đợi lâu mới được đến thăm ông, không phải tại nhà riêng mà nhà một người bạn chung của hai chúng tôi là ông Ngô Công Đức, cựu thủ lĩnh dũng cảm của phe đối lập trong Nghị viện chống lại Nguyễn Văn Thiệu. Quê gốc ở Trà Vinh, thuộc miền đồng bằng sông Cửu Long, Đức bị Tổng thống Thiệu căm ghét. Thấy sinh mạng bị đe dọa, ông buộc phải trốn ra nước ngoài sống lưu vong từ năm 1971. Ông Ẩn giải thích: “Nếu không đi ngay, ông ta có thể bị sát hại”. Ngô Công Đức đã trốn được sang Campuchia rồi từ đó sang Thái Lan. Tôi nhớ một hôm vào một buổi sáng trời đẹp, Đức bấm chuông nhà tôi ở Bangkok. Ngay sau đó, ông bị chính quyền Sài Gòn kết án vắng mặt ba năm khổ sai. Tại Sài Gòn, ông là chủ tờ báo Tin Sáng thuộc phe đối lập chống Thiệu. Sau chiến thắng của Cộng sản, ông trở về Sài Gòn.
Năm 1989, trong một chuyến ghé qua Sài Gòn, người hướng dẫn chính thức của tôi tỏ ý ngạc nhiên thấy tôi không nhân cơ hội này đến thăm ông Ẩn và cho biết ông có nhiều nỗi trăn trở trong lòng. Tôi hiểu đó là cách của người hướng dẫn mách bảo cho tôi “đèn xanh đã bật”. Tôi liền gọi điện xin gặp ông nhưng không có hồi âm. Cuối cùng, tôi đã gặp được ông tại nhà Ngô Công Đức liền kề một lò gốm ở Thủ Đức. Mới thoáng nhìn, tôi đang lúng túng không biết xưng hô với ông thế nào cho tiện,“ông - tôi” hay “mày - tao” như thuở nào còn cùng làm báo với nhau ở Sài Gòn. Nhưng vấn đề đã được giải quyết nhanh chóng. Ông chủ động xưng hô “ông - tôi” trước. Nhìn bề ngoài, ông Ẩn không có gì thay đổi tuy gầy hơn, lưng đã hơi còng. Nhưng cách nói dí dỏm của “tướng Givral” thì vẫn thế. Mặc dù như ông thổ lộ, “có nhiều nỗi trăn trở đang ngổn ngang trong lòng”.
Truyền thống ở miền Nam hồi đó là mỗi khi gặp nhau thế nào cũng có mấy món nhậu đơn giản, có rượu - thường là rượu vang đỏ Bungari, để tẩy sạch dạ dày. Ông Ẩn không uống được rượu, ăn rất ít, nhưng ông vẫn vui vẻ nhận lời cùng ngồi với chúng tôi. Cho đến nay, tập quán mỗi khi tụ họp với nhau lại nhậu nhẹt vẫn thường lặp lại, ngay cả khi chúng tôi đi với gia đình ra Nha Trang - một nơi nghỉ mát có bãi biển - cùng ở bên nhau mấy ngày. Mặc dù quan hệ với nhau thân tình như trong một gia đình, đối với ông, tôi vẫn giữ cảm tưởng mình là một người học trò nhỏ đứng trước một giáo sư tầm cỡ. Trí nhớ của ông còn rất tốt, chính xác đến mức có thể nghe ông kể chuyện hàng giờ về người này, người khác trong thế xoay vần của lịch sử. Không khí chính trị lúc này đang trong tình thế hoang mang, lúng túng, mất phương hướng. Gorbachev trở thành là kẻ đào mồ chôn Liên bang Xô Viết. Các nhà văn có tài bắt đầu kể chuyện chiến tranh nhìn từ bên dưới, và những ngày “vỡ mộng” sau chiến thắng. Những người khác thì gợi lại những vết thương nhức nhối của các sai lầm tai hại trong cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc trong những năm 1955 -1956. Trong những năm 1990, Hà Nội là trung tâm của công cuộc đổi mới trong văn học, nhưng phần lớn tác phẩm đều bị gạt ra rìa. Sự xuất hiện một lớp nhà văn mới thường là những cựu chiến binh đã tham gia hai cuộc chiến tranh, trong đó có cả đảng viên là một đòn chắc chắn mang tính quyết định đánh vào nền văn học chính thống được nuôi dưỡng trong chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Đầu thế kỷ XXI, một thế hệ mới được khẳng định đã nói lên những mối lo lắng, dằn vặt của lớp người trẻ tuổi. Năm 2005, hai phần ba dân số Việt Nam chưa trải qua chiến tranh, trừ cuộc xung đột ở biên giới phía Bắc. Ông Ẩn, ngậm ngùi nói: “Nỗi buồn quá khứ xuất phát từ những tâm trạng thất vọng, những cảm giác ‘vỡ mộng’”. Truyền thống được phát huy nhằm gây cho lớp trẻ một niềm tự hào dân tộc trẻ. Đồng thời Đảng Cộng sản tự biết mình đang thoát ly cơ sở, nay muốn lắng nghe quần chúng phát biểu. Từ đó mới có cuộc vận động cải tiến chất lượng cán bộ. Trong thực tế, đó là phục hồi quyền tư hữu - một giấc mơ trở thành hiện thực. Nhiều cuộc cải cách khởi động từ năm 1986 đã bắt đầu phát huy hiệu quả.
“Chính là những người lãnh đạo đã thắng cuộc chiến tranh chứ không phải nhân dân”. Đó là câu nói của nhà văn Nguyễn Quang Thiều. Nhà thơ Nguyễn Duy cũng nhiều lần trình bày cách nhìn tương tự trong thơ19. Nguyễn Quang Thiều viết tiếp: “Những năm chiến tranh là một thời đại anh hùng, không có đất cho chủ nghĩa cá nhân nảy nở. Đảng viên bao giờ cũng là người tốt. Cha tôi bảo: ‘Nếu con không muốn trở thành đảng viên, người tốt, thì con là người xấu’. Ngày nay thời thế đã thay đổi. Người ta có thể nói về thân phận cá nhân. Văn học được lưu thông”. Nước Việt Nam đang quen dần với cuộc sống trong hòa bình.
19 Nghĩ cho cùng/ Trong mọi cuộc chiến tranh/ Phe nào thắng thì nhân dân đều bại (Đá ơi – Nguyễn Duy)
- Ông nghĩ gì về những thay đổi này? - Tôi hỏi ông Ẩn.
Với giọng hài hước, ông đáp: “Có đủ loại tư bản, tư bản đỏ, tư bản xanh...”. Sài Gòn đã trở thành động lực của một cuộc chiến mới, sự tăng trưởng kinh tế.
- Người ta định làm như người Trung Quốc, nghĩa là tiếp nhận cả những nhà tư bản vào hàng ngũ Đảng. Bằng cách cho phép doanh nhân kết hợp với nhà nông và nhà trí thức, người ta biện bạch cho chủ nghĩa tư bản đỏ. - Ông nói tiếp, khi nghĩ đến những kiến nghị nối đuôi nhau trên bàn làm việc trong khuôn khổ chuẩn bị cho Đại hội X của Đảng Cộng sản đã thông báo là sẽ họp vào tháng Năm hay tháng Sáu năm 2006. Một mặt, Đảng Cộng sản đang tìm một bước đi đột phá, vì phải tính đến quan hệ với Mỹ và châu Âu, hoặc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (OCM, theo tiếng Pháp). Mặt khác, nền tảng của “chủ nghĩa tư bản đỏ” là ruộng đất - mà “người ta đã sẵn sàng cho nó, nhân danh nhân dân” và những người miền Nam có ruộng đất bị tịch thu năm 1975 để phân phối lại cho những đối tượng có công với Đảng. Tất cả những cái đó đối với ông Ẩn không có gì đúng đắn hay lành mạnh.
Nước Việt Nam đang lột xác lần nữa. Mặc dù xuất phát điểm rất lạc hậu, kinh tế Việt Nam có tốc độ tăng trưởng vào loại cao nhất ở châu Á, chỉ đứng sau Trung Quốc. Nhất là Việt Nam có tiềm năng đặc biệt về nhân lực. Dân số Việt Nam, năm 1975, mới khoảng năm mươi triệu người, ba mươi năm sau, đã lên tới tám mươi hai triệu người. Gần ba chục nghìn thanh niên trong đó có nhiều con cháu gia đình cộng sản đang học tập tại các trường đại học tốt nhất của phương Tây. Đất nước đã hội nhập thành công với cộng đồng quốc tế.
Ông Ẩn nói tiếp:
- Thời Sài Gòn trước giải phóng, chính trị phức tạp lắm: Có nhiều phe cánh, đảng phái, nhiều âm mưu, thủ đoạn, nhưng bây giờ tôi tin là tình hình còn phức tạp hơn nhiều.
Ông chỉ tin các số liệu thống kê có một nửa.
- Bao nhiêu vấn đề dồn dập xô đẩy nhau. - Ông nói tiếp, không giấu vẻ hoài nghi. - Nạn tham nhũng kìm hãm phát triển đến mức nào? Làm sao tạo ra được sức đối trọng để giảm bớt chủ nghĩa đơn nguyên chính trị đang gặm mòn chế độ. Tình hình Việt Nam đã đủ chín muồi để đổi mới chưa?
- Hai mươi năm đổi mới về kinh tế kèm theo những điều chỉnh về ngoại giao đang mở ra cuộc thảo luận về đổi mới chính trị, ông nghĩ thế nào về điều này?
Ông đáp:
- Làm sao được? Cuộc vận động mở rộng dân chủ trong nội bộ Đảng vấp phải những áp lực mạnh mẽ có lợi cho thỏa hiệp để giữ thể diện. Nếu anh đẩy cải cách chính trị lên quá nhanh, anh sẽ gây ra mất ổn định chính trị trong Đảng. Vấn đề chính là chống tham nhũng, nếu anh đẩy đi quá xa trong việc dập tắt tệ nạn tham nhũng thì sẽ có nguy cơ mất ổn định cho chế độ. Đối với những nhà cách mạng lão thành, điều quan trọng là phải giữ được ổn định cho chế độ đồng thời vẫn phải tiến lên về kinh tế.
Đó là câu trả lời của ông Ẩn. Giới hạn cho phép thật khá mỏng manh.
Phạm Xuân Ẩn đã được Nhà nước và quân đội tặng thưởng nhiều huân chương cao quý, nhưng đồng thời ông cũng phải chấp nhận những quy định ngặt nghèo của chế độ như: Phải giữ bí mật về công việc đã thực hiện, sự nghi ngờ của tổ chức, sự giám sát chặt chẽ, việc tham gia chỉnh huấn - dù ông nói là “nhẹ nhàng”, “phải sống cách ly, biệt lập, cô đơn”. Nhưng ông đã vượt qua hết thảy, tổn thương nhưng không chán nản tuyệt vọng. Tôi có cảm tưởng ông quay về với lý do đầu tiên và duy nhất của sự dấn thân của ông. Đó là chủ nghĩa dân tộc, nói khác đi là chủ nghĩa yêu nước. Ông đã thách thức cả chính quyền Hoa Kỳ, đã chấp nhận những rủi ro kỳ lạ, chấp nhận những hy sinh lớn lao. Ông tỏ rõ là chiến lược gia hàng đầu, là một trong những nhà tình báo vĩ đại một thời. Ngày nay, ông thấy như sống lại những ngày đẹp đẽ của năm 1945, năm ông đã chọn con đường phục vụ sự nghiệp dân tộc. Đinh Quang Le, một nghệ sĩ cộng đồng người Việt ở nước ngoài mới đây khi bàn về xã hội Việt Nam đã nêu lên nét nổi trội ở Đông Nam Á là một sự thôi thúc luôn luôn phải tự hoàn thiện chính mình để làm một điều gì đó cho cuộc sống. Phạm Xuân Ẩn cũng cần một tia hy vọng mang lại ý nghĩa cho tất cả những việc mình đã cống hiến cho đất nước.
Lần thứ tư và có lẽ cũng là lần cuối cùng, tháng Ba năm 2002, ông đi Hà Nội theo giấy triệu tập để ký các giấy tờ về hưu. Hai mươi bảy năm sau chiến thắng, ở tuổi bảy nhăm ông mới chính thức nghỉ việc. Chỉ có một sự thay đổi trong thực tiễn: từ nay, ông miễn không phải dự những buổi họp hàng tuần để tự kiểm điểm. Trong suy nghĩ của ông, mọi việc đến đây đã kết thúc. Nhưng khi trả lời câu hỏi của một nhà báo: “Tại sao chỉ đóng vai trò ‘người quan sát bình thường’ mà lại được thưởng huân chương?”, ông đáp: “Vì tôi xứng đáng được như vậy”.
Mong cuối đời, người ta trả lại cho ông những gì còn nợ của ông.