• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Mù lòa
  3. Trang 14

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 13
  • 14
  • 15
  • More pages
  • 21
  • Sau

X

Ô

ng già đeo miếng vải đen che mắt hiểu rằng cái radio xách tay, vỏ ngoài mong manh như tuổi thọ hữu ích của nó, phải được loại khỏi danh sách các món quý giá họ phải giao nộp để mua thực phẩm, vì lợi ích của cái máy tùy thuộc trước tiên vào việc có pin bên trong hay không, và thứ nữa, vào việc pin sẽ dùng được bao lâu. Xét theo giọng hơi khàn vẫn phát ra từ cái hộp nhỏ, rõ ràng nó chỉ còn dùng được một thời gian ngắn nữa. Vì thế ông già đeo miếng vải đen che mắt quyết định không cho phát thanh nghe chung nữa, ngoài ra vì bọn mù trong phòng thứ ba bên trái có thể kéo tới rồi nghĩ khác, không vì giá trị vật chất của cái máy hầu như sắp sửa vô dụng như chúng ta đã thấy, mà vì lợi ích trước mắt của nó, hẳn nhiên rất lớn, chưa kể tới giả thuyết khả thi là đã giấu cái này thì cũng có thể giấu cái khác. Vì thế ông già đeo miếng vải đen che mắt nói từ nay ông sẽ trùm chăn nghe tin tức, chui hẳn đầu vào, và nếu có mẩu tin đáng lưu ý nào, ông sẽ báo ngay cho mọi người. Cô gái đeo kính đen xin ông cho cô thỉnh thoảng nghe nhạc, Để khỏi quên, cô biện luận, nhưng ông không lay chuyển, nhấn mạnh điều quan trọng là biết bên ngoài ra sao, ai muốn nhạc thì cứ nghe trong đầu họ, xét cho cùng trí nhớ của chúng ta nên được dùng cho một mục đích hữu ích nào đó. Ông già đeo miếng vải đen che mắt nói đúng, nhạc trên radio đã chói tai như một ký ức đau buồn, thế là vì lý do này ông vặn hết sức nhỏ, đợi tin tức. Khi ấy ông vặn tiếng hơi lớn hơn và chăm chú lắng nghe để khỏi mất chữ nào. Rồi ông tóm tắt bản tin bằng lời của mình, và truyền nó qua các láng giềng gần nhất. Và như thế từ giường này sang giường kia, tin tức lan dần khắp phòng, càng lúc càng sai lạc sau khi truyền từ người này sang người khác, giảm bớt hay phóng đại các chi tiết, tùy theo tính lạc quan hay bi quan của kẻ đang truyền tin tức. Cho tới lúc lời đã cạn và ông già đeo miếng vải đen che mắt thấy mình chả còn gì để nói thêm. Và điều đó không phải vì cái radio đã hỏng hay hết pin, kinh nghiệm của cuộc đời và cuộc sống cho thấy rõ không ai có thể quản lý thời gian, cái máy nhỏ này có vẻ không tồn tại lâu, nhưng cuối cùng người ta im tiếng trước khi nó im tiếng. Suốt ngày đầu tiên sống dưới sự kìm kẹp của bọn mù ác ôn, ông già đeo miếng vải đen che mắt đã lắng nghe radio và truyền đi tin tức, gạt bỏ sự giả dối khéo léo của những lời tiên tri lạc quan được chính thức loan đi, và giờ đây trong đêm khuya, rốt cuộc ông thò đầu ra khỏi chăn, chăm chú nghe tiếng khò khè của cái radio sắp hết điện truyền giọng của phát thanh viên, thình lình ông nghe hắn hét, Tôi mù, rồi tiếng vật gì đập vào micro, một loạt âm thanh hỗn loạn vội vã, tiếng kêu than, rồi bỗng lặng yên. Đài phát thanh duy nhất ông có thể bắt được trên máy đã im tiếng. Ông già đeo miếng vải đen che mắt vẫn dán tai một lúc vào cái hộp bây giờ đã trơ trơ, như đợi giọng phát thanh viên trở lại và tin tức tiếp tục. Tuy nhiên, ông cảm thấy, hay đúng hơn đã biết, nó sẽ không trở lại nữa. Chứng bệnh trắng không chỉ làm phát thanh viên mù. Như một vệt thuốc súng, nó đã lan nhanh và lần lượt tới mọi người tình cờ có mặt trong phòng thu. Khi ấy ông già đeo miếng vải đen che mắt buông radio xuống sàn. Bọn ác ôn mù nếu đến để đánh hơi của cải quý giá còn giấu sẽ thấy lý do, nếu ý đó thoáng qua đầu chúng, để loại cái radio xách tay ra khỏi danh sách các món có giá trị. Ông già đeo miếng vải đen che mắt kéo chăn trùm lên đầu để có thể tự do khóc.

Dần dần, dưới ánh vàng vọt u ám của ngọn đèn mờ, căn phòng chìm vào giấc ngủ say, cơ thể được an ủi nhờ ba bữa ăn hôm đó, một điều trước kia ít khi xảy ra. Nếu sự việc tiếp tục như thế, rốt cuộc chúng ta sẽ một lần nữa đi tới kết luận rằng ngay cả trong nỗi bất hạnh tệ nhất cũng có thể tìm thấy điều tốt đủ để chịu đựng nỗi bất hạnh nói trên với lòng kiên nhẫn, mà trong hoàn cảnh này, trái với lời tiên đoán đáng ngại ban đầu, xét cho cùng, tập trung nguồn thực phẩm vào một mối độc nhất để chia và phân phát cũng có khía cạnh tích cực của nó, dù những người lý tưởng rất có thể phản đối là họ thích tiếp tục đấu tranh cho cuộc sống bằng chính sức mình, ngay cả nếu sự ngoan cường của họ sẽ dẫn tới đói. Vô tư lự tới ngày mai, quên rằng kẻ nào trả tiền trước sẽ bị phục vụ kém, đa số người mù trong các phòng đều ngủ say. Những kẻ mệt mỏi tìm kiếm vô vọng một lối thoát danh dự cho những bực dọc đang phải chịu, cũng đã ngủ hết, mơ tới những ngày tốt đẹp hơn, những ngày tự do hơn nếu không nói là thừa thãi. Trong phòng đầu tiên bên phải, chỉ có vợ bác sĩ còn thức. Nằm trên giường, bà nghĩ về điều chồng bà đã kể cho bà, khi ông thoáng ngờ trong số bọn cướp mù có đứa có thể thấy, một kẻ chúng có thể dùng làm mật thám. Lạ lùng là họ không nhắc tới việc đó nữa, như thể nó đã không xảy ra cho bác sĩ, ông đã quen với việc vợ ông còn thấy. Thoáng qua đầu bà, nhưng bà không nói, bà không muốn thốt lên những lời hiển nhiên, Điều hắn không làm được nhưng em làm được. Điều gì vậy, bác sĩ sẽ hỏi, giả vờ không hiểu. Lúc này mắt bà dán lên cây kéo treo trên tường, vợ bác sĩ tự hỏi, Mắt nhìn của mình để làm gì, nó đã vạch trần cho bà xem nỗi kinh hoàng lớn hơn bà có thể tưởng tượng, nó đã thuyết phục bà rằng thà mù còn hơn, thế thôi. Cử động dè dặt, bà ngồi dậy trên giường. Đối diện bà, cô gái đeo kính đen và đứa bé mắt lác đang ngủ. Bà nhận thấy hai cái giường rất gần nhau, cô gái đã đẩy giường cô qua, chắc hẳn để gần đứa bé hơn nếu nó cần dỗ dành hay cần người lau nước mắt khi mẹ nó vắng mặt. Tại sao trước kia mình không nghĩ tới, mình có thể đẩy giường lại gần và ngủ chung, để khỏi lo lắng thường xuyên là anh ấy có thể ngã khỏi giường. Bà nhìn chồng đang ngủ say, trong giấc ngủ sâu vì mệt mỏi. Bà chưa tìm được dịp để kể cho ông là bà có mang theo kéo, một ngày nào đó bà sẽ phải tỉa râu cho ông, một việc mà ngay cả người mù cũng có thể làm miễn là đừng đưa lưỡi kéo sát da quá. Bà tìm được một cớ để khỏi kể về cây kéo, Sau đó tất cả các ông ở đây sẽ quấy rầy em và em sẽ không làm được gì khác ngoài việc tỉa râu. Bà xoay người ra, đặt chân lên sàn tìm giày. Khi sắp sửa xỏ giày, bà ngừng lại, nhìn nó đăm đăm, lắc đầu, rồi cất nó lại không gây một tiếng động. Bà đi dọc theo lối đi giữa các giường và từ từ tiến ra cửa phòng. Bàn chân trần của bà đụng phân nhầy nhụa trên sàn, nhưng bà biết ngoài hành lang còn tệ hơn rất nhiều. Bà liên tục nhìn dáo dác, để xem có người mù nào còn thức không, dù cho vài người hay cả phòng có thể thức canh chừng vẫn không quan trọng miễn là bà đừng gây tiếng động, và ngay cả nếu bà làm ồn, chúng ta biết nhu cầu của cơ thể chúng ta thúc bách dường nào, chúng chả cần giờ giấc, nói tóm lại, bà không muốn chồng thức giấc và cảm thấy vắng bà đúng lúc để hỏi bà, Em đi đâu đấy, có lẽ đó là câu hỏi các ông chồng thường đặt ra nhất cho vợ mình, cũng như câu Em ở đâu về đấy. Một bà mù đang ngồi trên giường, vai bà ta dựa lên cái gối thấp, cái nhìn đăm đăm trống rỗng của bà dán lên bức tường đối diện, nhưng bà không thể thấy. Vợ bác sĩ hơi ngập ngừng, như sợ đụng sợi chỉ vô hình lơ lửng trên không trung, như sợ cái chạm nhẹ nhất cũng sẽ chắc chắn làm đứt nó. Người đàn bà mù giơ cao cánh tay, chắc bà cảm thấy không khí rung động nhẹ, rồi bà buông tay xuống, chẳng còn thiết tha, mất ngủ vì tiếng ngáy của người bên cạnh là đủ rồi. Vợ bác sĩ tiếp tục bước vội hơn khi bà tới gần cửa. Trước khi tiến ra tiền sảnh, bà nhìn xuống hành lang dẫn đến các phòng bên khu này, xa hơn nữa, tới phòng vệ sinh, và cuối cùng tới bếp và nhà ăn. Có nhiều người mù nằm sát tường, lúc đến họ không tìm được giường, vì họ chậm chân trong lúc chen lấn, hay vì họ thiếu sức để giành giật và chiếm được một cái giường. Mười mét phía trước, một anh mù đang nằm trên một cô mù, người đàn ông kẹt giữa hai chân cô ta, họ cố hết sức kín đáo, họ thuộc loại kín đáo, nhưng ta không cần thính tai lắm cũng biết họ đang làm gì, nhất là khi người này rồi tới người kia không còn có thể ngăn tiếng thở dài và rên rỉ của họ, vài tiếng ú ớ, dấu hiệu mọi việc sắp chấm dứt. Vợ bác sĩ dừng lại nhìn họ, không vì ghen tị, bà có chồng và sự thỏa mãn chồng bà cho bà, mà vì một thứ cảm giác bà không tìm được tên, có lẽ một sự đồng cảm, như thể bà đang định nói với họ, Đừng để ý tới tôi, tôi cũng biết, cứ tiếp tục, có lẽ một cảm giác trắc ẩn, Ngay cả nếu khoái lạc tột đỉnh chốc lát này kéo dài suốt đời, anh chị sẽ không bao giờ hợp nhất thành một. Người đàn ông mù và người đàn bà mù lúc này đang nghỉ, tách rời, người này nằm cạnh người kia, nhưng họ vẫn nắm tay nhau, họ trẻ, có lẽ họ là đôi tình nhân tới rạp xi-nê rồi bị mù trong đó, hay có lẽ một tình cờ huyền diệu nào đó mang họ lại với nhau trong chốn này, và nếu đúng vậy, làm sao họ nhận ra nhau, trời ơi, bằng giọng nói của nhau, tất nhiên, tiếng của huyết quản không cần mắt, tình yêu như người ta nói không chỉ mù lòa, mà còn có tiếng nói của chính nó. Rất có thể họ đã bị bắt cùng lúc, nếu như thế đôi tay siết chặt ấy không phải mới đây, chúng đã siết chặt từ buổi ban đầu.

Vợ bác sĩ thở dài, bà phải đưa tay lên mắt vì bà thấy lờ mờ, nhưng bà không hốt hoảng, bà biết chỉ là nước mắt. Rồi bà tiếp tục đi. Tới tiền sảnh, bà tiến lại cánh cửa dẫn ra sân. Bà nhìn ra ngoài. Phía sau cổng có một ngọn đèn viền bóng đen của một người lính. Bên kia đường, các tòa nhà chìm trong bóng đêm. Bà ra đầu bậc thang. Không có gì nguy hiểm. Ngay cả nếu người lính nhận ra bóng của bà, hắn chỉ bắn sau khi đã cảnh cáo nếu bà đã bước xuống thang, tới gần hơn lằn mức vô hình đối với hắn là ranh giới an toàn. Giờ đây đã quen với sự ồn ào liên tục trong phòng, vợ bác sĩ thấy yên tĩnh lạ lùng, một sự yên tĩnh hình như chiếm ngự khoảng không gian phi thực, như thể nhân loại, toàn nhân loại, đã biến mất, chỉ để lại một ngọn đèn và một người lính gác. Bà ngồi xuống, dựa lưng vào khung cửa, trong cùng tư thế bà đã thấy người phụ nữ mù trong phòng, và nhìn đăm đăm phía trước như bà ta. Đêm lạnh, gió thổi dọc mặt tiền tòa nhà, dường như thế gian này không thể nào còn có gió nữa, dường như đêm phải đen, bà không nghĩ cho mình, bà đang nghĩ tới những người mù đối với họ ngày dài vô tận. Bên trên ngọn đèn, một cái bóng khác xuất hiện, có lẽ thay phiên gác, Không có gì để báo cáo, người lính sẽ nói trước khi về lều ngủ, cả hai đều không biết chuyện gì đang xảy ra phía sau khung cửa đó, có thể ngoài này không nghe tiếng súng, một khẩu súng nhỏ không làm ồn lắm. Một cây kéo còn ít ồn hơn, vợ bác sĩ nghĩ. Bà không phí thời giờ tự hỏi suy nghĩ đó ở đâu ra, bà chỉ ngạc nhiên là nó đến chậm, lời đầu tiên xuất hiện chậm làm sao, rồi những lời kế tiếp chậm chạp, và bà thấy ý nghĩ đã tới trước, tới đâu đó, chỉ còn thiếu lời nói, như cơ thể tìm kiếm trên giường một chỗ trũng đã dọn sẵn cho nó bởi ý nghĩ nằm xuống. Người lính tiến tới cổng, dù hắn đứng ngược ngọn đèn, rõ ràng hắn đang nhìn về phía này, hắn phải nhận ra cái bóng bất động, dù lúc ấy không đủ ánh sáng để thấy đó chỉ là một phụ nữ ngồi trên mặt đất, cánh tay bà ôm lấy chân và cằm bà dựa trên đầu gối, người lính rọi đèn pin vào bà, bây giờ không nghi ngờ gì nữa, đó là người đàn bà sắp đứng lên với cử động chậm như suy nghĩ trước đó của bà, nhưng người lính không biết điều này, hắn chỉ biết hắn sợ một bóng dáng phụ nữ, hình như bà ta lâu lắm mới đứng lên nổi, trong thoáng chốc hắn tự hỏi có nên báo động, hắn quyết định ngay là không, vả lại chỉ là một phụ nữ và bà ta ở khá xa, bất luận thế nào, để phòng ngừa hắn nhắm súng về phía bà, nhưng phải cất đèn pin qua một bên, và cử động đó rọi thẳng tia sáng chói lòa vào mắt hắn, như bùng cháy, một cảm giác bàng hoàng đọng nơi con ngươi hắn. Khi hắn hồi phục lại thị lực, người phụ nữ đã biến mất, bây giờ tên lính gác này sẽ không thể nói với người đến đổi gác cho hắn, Không có gì để báo cáo.

Vợ bác sĩ đã vào cánh bên trái, trong hành lang đưa bà tới phòng thứ ba. Ở đây cũng có người mù ngủ trên sàn, họ đông hơn cánh bên phải. Bà bước yên ắng, chậm chạp, bà có thể cảm thấy chất nhầy nhụa trên sàn dính vào chân. Bà nhìn vào hai phòng đầu, và thấy điều bà đã biết, những thân người đắp chăn, có một ông mù cũng mất ngủ và tuyệt vọng than thở, bà nghe tiếng ngáy đứt quãng của hầu hết mọi người. Còn mùi bốc ra không làm bà ngạc nhiên, toàn thể tòa nhà không có mùi nào khác, mùi của chính thân thể bà, của áo quần bà đang mặc. Khi rẽ vào hành lang dẫn tới phòng thứ ba, bà khựng lại. Một người đàn ông ở cửa, một tên lính gác khác. Hắn cầm gậy trên tay, hắn đang quơ gậy chầm chậm, từ bên này sang bên kia, như cản lối bất kỳ ai định tiến tới. Ở đây không có người mù nào ngủ trên sàn và hành lang thông thoáng. Gã mù ở cửa tiếp tục động tác tới lui đều đều, hình như hắn không hề mệt, nhưng không hẳn, vài phút sau hắn đổi tay cầm gậy và bắt đầu quơ lại. Vợ bác sĩ tiến tới, nép sát vách tường bên kia, cẩn thận không cọ vào tường. Vòng gậy không quơ tới giữa hành lang rộng, ta muốn nói tên gác này đang làm phận sự với một cây súng không nạp đạn. Bây giờ vợ bác sĩ đối diện gã mù, bà có thể thấy căn phòng phía sau hắn. Nhiều giường không có người. Bao nhiêu đứa trong ấy, bà tự hỏi. Bà tiến hơi xa thêm, gần tới đầu gậy của gã, rồi bà dừng lại đó, gã mù quay đầu về phía bà đang đứng, như thể hắn đã cảm thấy điều gì bất thường, một tiếng thở dài, một tiếng rung nhẹ trong không khí. Hắn cao lớn, có bàn tay to. Thoạt tiên hắn vươn cánh tay cầm gậy ra phía trước và quét nhanh khoảng không trước mặt, rồi tiến tới một bước ngắn, trong thoáng chốc, vợ bác sĩ sợ hắn có thể thấy bà, sợ hắn đang tìm thế tốt nhất để tấn công bà, Cặp mắt đó không mù, bà hốt hoảng nghĩ. Mù, dĩ nhiên nó mù, mù như cặp mắt của mọi người sống dưới mái nhà này, giữa các bức tường này, tất cả, tất cả trừ đôi mắt của bà. Hầu như thì thào, hắn thấp giọng hỏi, Ai đó, hắn không quát như một lính gác thật, Ai đi đó, bạn hay thù, câu trả lời thích đáng sẽ là, Bạn, khi đó hắn sẽ nói, Đi, nhưng giữ khoảng cách, tuy nhiên sự việc không xảy ra như vậy, hắn chỉ lắc đầu như tự nhủ, Vớ vẩn, làm sao có ai ở đó, giờ này mọi người đều ngủ. Bàn tay không cầm gậy sờ soạng, hắn lui lại cửa, an tâm vì câu nói của chính mình, hắn buông thõng tay. Hắn cảm thấy buồn ngủ, hắn đợi một đồng chí của hắn tới thay đã lâu lắm rồi, nhưng muốn vậy gã kia phải tự thức giấc, nghe theo tiếng gọi của nhiệm vụ, vì ở đây không có đồng hồ báo thức và cũng chẳng có cách nào dùng nó. Thận trọng, vợ bác sĩ tiến tới bên kia cửa nhìn vào. Căn phòng không đầy người. Bà đếm vội, nhẩm phải có chừng mười chín hay hai mươi đứa. Ở cuối phòng bà thấy nhiều thùng thực phẩm chất đống, một số thùng khác nằm trên các giường trống. Như đã đoán, chúng không phát hết số thực phẩm đã nhận, bà nghĩ. Gã mù hình như lại lo lắng, nhưng không cố tìm hiểu. Nhiều phút trôi qua. Bên trong có tiếng người ho lớn, hiển nhiên là một kẻ nghiện thuốc nặng. Gã mù bứt rứt quay đầu, rốt cuộc hắn sẽ được ngủ. Bọn nằm trên giường không ai ngồi dậy. Khi ấy gã mù chầm chậm như sợ chúng có thể bắt quả tang hắn đang bỏ vị trí hay vi phạm luật chung mà bọn gác phải tuân theo, hắn ngồi xuống mép giường đặt chắn lối vào. Vài giây sau, hắn gà gật, rồi không cưỡng nổi cơn buồn ngủ, và chắc chắn trong giấc ngủ hắn đã nghĩ, Chả sao, chẳng ai thấy được mình. Một lần nữa vợ bác sĩ đếm bọn đang ngủ bên trong, Kể cả hắn có hai mươi đứa, ít nhất bà đã thu được một số tin tức đúng, chuyến đi đêm của bà không vô ích, Nhưng phải chăng đây là lý do duy nhất để mình tới đây, bà tự hỏi, và bà thà không tìm kiếm câu trả lời. Gã mù đang ngủ, đầu hắn dựa lên khung cửa, cây gậy của hắn đã lặng lẽ trượt xuống sàn, một gã mù vô phương tự vệ và không có hàng cột nào để xô đổ xuống chung quanh hắn. Vợ bác sĩ muốn tỉnh táo nghĩ rằng người đàn ông này đã cướp thức ăn, đã cướp những thứ đúng ra phải thuộc về người khác, hắn đã cướp thức ăn trong miệng trẻ con, nhưng dù nghĩ như thế, bà không cảm thấy khinh bỉ, thậm chí không một chút bực tức nào, không gì khác hơn nỗi trắc ẩn lạ lùng đối với thân hình rũ xuống trước mặt bà, đầu ngửa ra sau, cổ dài đầy gân căng phình. Lần đầu tiên từ khi rời phòng bà cảm thấy lạnh run khắp người, như thể đá lát sàn đã biến chân bà thành băng, như thể nó bị cháy sém. Hy vọng không phải là sốt, bà nghĩ. Không thể, có vẻ là sự mệt mỏi vô hạn, niềm khát khao cuộn tròn trong chính mình, mắt bà, nhất là đôi mắt, quay vào trong, vào sâu, vào sâu, vào sâu, cho tới khi chúng có thể đến quan sát bên trong óc bà, nơi đó sự khác biệt giữa thấy và không thấy trở thành vô hình đối với mắt trần. Chầm chậm, thậm chí chậm hơn, kéo lê thân mình, bà lần bước theo lối cũ về chỗ của bà, bà đi qua những người mù, dường như họ giống kẻ mộng du, chắc giống như họ nghĩ về bà, thậm chí bà không phải giả vờ là bà mù. Cặp tình nhân mù không còn nắm tay, họ đã ngủ và nằm rúc bên nhau, cô ta cuộn trong thân thể của anh ta để giữ ấm, và nhìn kỹ hơn, họ đang nắm tay, rốt cuộc, cánh tay anh ta gác trên thân cô, ngón tay họ đan lại. Bên trong phòng, người đàn bà mù mất ngủ vẫn ngồi trên giường, đợi đến khi cơ thể mệt mỏi của bà ta chiến thắng sự kháng cự ngoan cố của tâm hồn. Mọi người khác có vẻ đang ngủ, vài người trùm đầu, như thể họ vẫn đang tìm một bóng tối bất khả nào đó. Trên bàn ngủ của cô gái đeo kính đen có chai thuốc nhỏ mắt. Mắt cô đã đỡ hơn, nhưng cô không biết.

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 13
  • 14
  • 15
  • More pages
  • 21
  • Sau