Khi còn tuổi học trò, ta nghe thầy, cô giáo giảng bài thì luôn cảm thấy “lời nói gió bay”, không đọng lại được chút gì trong đầu; nghe người lớn dạy bảo thì luôn cảm thấy họ càm ràm không ngớt. Đây là ví dụ điển hình của việc không biết lắng nghe. Thậm chí, về mặt tín ngưỡng tôn giáo, khi ta nghe giảng giáo lý cũng “coi điều không hiểu là điều tốt”, hoặc khi nghe người đi trước dạy nào là từ bi, nào là phải hướng thiện, phục vụ xã hội, v.v. thì luôn cảm thấy những điều ấy chẳng liên quan đến mình. Nghe nhưng không chịu để tâm cũng được coi là không biết lắng nghe.
Cho đến khi bước vào xã hội, nghe những lời bàn luận của các bậc chức sắc, ta luôn nghĩ: ngài nói phần ngài, tôi làm phần tôi. Dường như ta nghe nhưng không lọt lỗ tai những lời nói của họ. Thậm chí, với những lời khai thị trí tuệ của các bậc đại trí đi trước, ta cũng cảm thấy chẳng có gì là quan trọng cả.
Sống mà chẳng đọng được chút lời hay, ý đẹp nào trong lòng thì làm sao có thể khơi mở được đóa hoa trí tuệ? Với những người như thế, ta biết làm gì hơn? Có câu nói rằng: “Với thế gian này, cần phải sử dụng âm thanh mới có thể thực hiện được các Phật sự”.
Ngoài không biết lắng nghe, không chịu lắng nghe, không hiểu lắng nghe là gì ra, cũng có một số người nghe một cách dối trá, nhầm lẫn, sai lạc, xu nịnh, từ đó mà gây ra rất nhiều thị phi, lời đồn nhảm nhí, v.v.
Lúc Tưởng Kinh Quốc còn sống, ông có kể: “Trong thời kháng chiến, máy bay của phe địch oanh tạc quân ta, có người hỏi có mấy chiếc máy bay? Người lính đáp: ‘Một chiếc máy bay’. ‘Mười một chiếc máy bay?’ Người kia ngạc nhiên hỏi lại. Người lính thấy người kia nghe nhầm liền nhấn mạnh: ‘Chỉ có đúng một chiếc máy bay’. Nhưng kết quả, người kia lại nghe thành ‘chín mươi mốt chiếc máy bay’”. Chẳng trách có người nói: “Mang đồ cho người nên cho ít, mang lời cho người nên cho nhiều”.
Nếu muốn lắng nghe, ta phải như bình nước mở, nghĩa là, nếu một người có tính ngạo mạn, ta khó lòng mà rót vào tâm của họ những lời nói trí tuệ được. Nếu trong lòng bạn có cái nhìn phiến diện, sai lệch như: “cứ nghe trước đã hẵng hay”, thì chẳng khác gì cái bình bẩn, dù có rót nước sạch vào, nước cũng sẽ bị vấy bẩn; còn nếu tâm bạn như chiếc bình thủng, dù trên trời có trút cam lồ xuống, nước cũng sẽ chảy ra ngoài hết.
Lắng nghe giống như gieo hạt giống vào đất! Nếu đất quá cứng, hạt giống không thể đâm chồi; nếu trên đất mọc cỏ dại mọc um tùm thì dù hạt giống có đâm chồi, nó cũng khó lòng phát triển; nếu như hạt giống chỉ nằm trên mặt đất mà không được vun trồng, nó cũng rất dễ bị chim ăn mất mà không có cơ hội ra hoa kết trái. Cho nên, nghệ thuật lắng nghe có bốn đặc điểm, lần lượt là:
Thứ nhất, khéo lắng nghe: Nghĩa là biết lắng nghe, thậm chí nghe xong còn phải suy nghĩ về điều hay, lẽ phải ẩn chứa trong đó.
Thứ hai, nghe từ nhiều phía: Nghe một phía thì mờ mịt, nghe từ nhiều phía mới rõ ràng. Ta nên nghe từ nhiều phía thì mới không mất đi tính khách quan, công bằng.
Thứ ba, chăm chú lắng nghe: Nghĩa là chú tâm lắng nghe, nghe xong còn phải suy ngẫm và ghi nhớ.
Thứ tư, nghe trọn vẹn: Lắng nghe không chỉ là nghe một phần, càng không thể chỉ nghe một mặt của vấn đề. Ta chỉ lắng nghe lời hay, không nghe những điều xấu xa, phải nghe toàn bộ câu chuyện thì mới đầy đủ và không nhầm lẫn.
Trong thời đức Phật còn tại thế, có một đệ tử đã nghe nhầm “pháp sinh diệt” thành “thủy lạo hạc”1. Đây không chỉ là sai lầm nực cười mà thậm chí, nó còn gây nguy hại đến chân lý mà ta đang theo đuổi. Lắng nghe quan trọng là vậy, sao ta có thể không thận trọng chứ?
1 Thủy lạo hạc: Một loài chim nước giống như con cò trắng.