Là tác phẩm được nhà thơ Lê Thị Ái Tùng ấp ủ, “chưng cất” suốt cả một chặng đường thời gian, trải rộng theo trục không gian; tập thơ Nét đẹp quê hương
thật sự là sự “lên men” của những cung bậc thi, họa, nhạc, tình; từ một tâm hồn thơ nhạy cảm, từ một người thơ trải đủ thăng trầm để thể nghiệm cả những tầng bậc triết lí, trong mỗi cảnh sắc, mảnh đất con người ấy đã đi qua.
Thi trung hữu họa
Nét đẹp quê hương, ngay tựa sách đã như gói gọn tính “họa” qua mỗi câu chữ, trong từng bài thơ mà tác giả Lê Thị Ái Tùng viết lên. Ở đấy, tác giả đã dùng ngôn ngữ thi ca thay cho màu vẽ để khắc họa đường nét, dáng, cảnh, thậm chí là cả phần “linh hồn” các địa danh. Bức tranh thiên nhiên trong Nét đẹp quê hương rất chân thực. Là không gian hai mảng, vừa gân guốc, vừa hùng vĩ lại vừa duyên dáng thơ mộng, trữ tình được mở rộng cả chiều cao vời vợi, chiều sâu thăm thẳm và chiều rộng mênh mang: “Dốc động Hương Sơn thật cao dày/ Thiên nhiên vẽ lối giữa Trần ai/ Đường lên Động Chính cao cao vút/ Lối tựa Tiên Sơn dốc dốc hoài” (Hành hương về đất Phật); “Đường lên Thượng Giới cao xa đó/ Nẻo xuống Âm Ty sâu thẳm đây” (Chiều Hương Tích); “Trên cao núi đá tai mèo/ Đàn dê ẩn hiện leo trèo nghiêng nghiêng/ Bên cây bầy sáo đứng riêng/ Thả mình bay lượn ngó nghiêng đoàn người” (Tam Cốc). Cảnh thiên nhiên trong thơ Lê Thị Ái Tùng hiện lên ở nhiều thời điểm khác nhau với vẻ đẹp đa dạng, phong phú. Đó là thiên nhiên gần gũi, ấm áp được vẽ lên từ mảng kí ức tươi đẹp nhất của chủ thể trữ tình nơi “Rừng thông - Ký ức tuổi thơ”: “Vẳng nghe tiếng gió gần xa/ Rừng thông vang những khúc ca gọi mình […] Thông reo vi vút vờn quanh/ Hòa chung tiếng hót trên cành họa mi.” Hay dáng hình “Hoa quỳnh đêm trăng”: “Trăng khuya rọi sáng êm đềm/ Lung linh hé nở trước thềm quỳnh hoa […] Xa xa thác rủ tóc mây/ Ngọc hồ quyện bóng trăng, cây, sao trời.” Đó là một thiên nhiên đẹp và đầy thi vị trong “Vãng cảnh Vịnh Hạ Long”: “Hạ Long tươi đẹp rạng ngời/ Khi vầng dương rọi biển trời bao la/ Sóng như dát bạc lan xa/ Gió lay cây cỏ, chim ca rộn ràng/ Thuyền buồm nâu, trắng, đỏ, vàng/ Lướt trên mặt nước màu xanh ngọc ngà”. Và đó là cũng là bức họa mang màu sắc u ám, được tô vẽ bằng “đường nét” của những động từ mạnh, những từ tượng thanh, tượng hình mang đầy sức gợi như ký ức “Trận đại hồng thủy xa xưa”: “Mẹ tôi ngồi kể một ngày/ Tám mươi năm trước nơi đây hãi hùng […] Mênh mông biển nước trập trùng/ Nhà trôi, cây gãy giữa dòng tràng giang […]/ Cho con vào vại vào chum/ Thả trôi mong được cứu giùm bởi dân”. Bên cạnh đó vẻ đẹp hình ảnh thiên nhiên còn được thể hiện qua chùm bài thơ Vãng cảnh vịnh Hạ Long, chùm bài thơ Vãng cảnh núi Bà Đen, Cảnh đẹp Tây Bắc, Núi rừng Yên Bái, Cảnh đẹp ruộng bậc thang, Danh thắng đèo Hải Vân, Về làng… Những câu thơ lục bát miêu tả vẻ đẹp thiên nhiên của các địa danh, thắng cảnh, di tích lịch sử đều là những câu từ rất đẹp, bay bổng, mềm mại. Đó là những cảnh sắc hữu tình do mẹ thiên nhiên ban tặng, và được nữ thi sĩ đưa vào trong thơ ca một cách tự nhiên, gần gũi, giúp người đọc hiểu và thêm yêu quê hương, đất nước mình. “Họa” trong thơ Lê Thị Ái Tùng nói chung, ở tập sách Nét đẹp quê hương nói riêng, bởi thế không chỉ là vẽ lên phức cảm chữ “mĩ” mà còn từ những khổ đau, khắc họa hình ảnh con người mạnh mẽ, quật cường. Cái hùng vĩ, cái lớn lao là “nét đẹp”. Cái đơn sơ, mộc mạc, giản dị, nhỏ bé là “nét đẹp”. Và cả cái đau thương, bi kịch cũng là “nét đẹp”. Tác giả Lê Thị Ái Tùng dùng cảm quan, ngòi bút để phát hiện, vẽ lên cuộc sống đa màu, đa diện như vậy.
Thi trung hữu nhạc
Nếu như tính họa trong tập thơ Nét đẹp quê hương của nữ thi sĩ Lê Thị Ái Tùng thể hiện qua đường nét từ phần lớn cách sử dụng ngôn ngữ giàu tính gợi hình, gợi tả thì tính nhạc ở tập sách này lại phần lớn tập trung vào cách nhà thơ sử dụng vần điệu một cách linh hoạt, nhuần nhị để tạo lên những câu thơ giàu nhịp, phách; hay chính là chất nhạc trong thơ vậy. Như trong bài thơ Hành hương về đất Phật, thanh trắc làm chủ đạo, tác giả đã tái hiện lên không gian vừa là một non cao hùng vĩ, dốc núi khúc khuỷu và ở đấy vừa như nghe thấy cả từng nhịp thở của chủ thể trữ tình trên quãng đường “hành hương.” Một chặng đường tựa như chính sự thể nghiệm của lối tu hành khổ hạnh để đi tới được tận cùng “chân lí”, “chánh quả”, hay đơn thuần, là sự tỏ bày cái tâm con người đang một lòng hướng Phật. “Dốc động Hương Sơn thật cao dày/ Thiên nhiên vẽ lối giữa Trần ai/ Đường lên Động Chính cao cao vút/ Lối tựa Tiên Sơn dốc dốc hoài/ Lớp lớp người đi lòng mộ Phật/ Tầng tầng hương tỏa khói ngang trời” (Hành hương về đất Phật). Còn khi tái hiện sự đối lập trong cảnh sắc giữa một bên là “đường lên Trời” với một bên là “lối xuống Âm Phủ” nơi động Hương Tích, nhưng thanh điệu trong bài thơ Chiều Hương Tích đã chuyển thành thanh bằng, như mang sự trung hòa của bản thể con người, ở giữa trần ai mà trải nghiệm “Trời” và “Âm Phủ”: “Đường lên Thượng Giới cao xa đó/ Nẻo xuống Âm Ty sâu thẳm đây/ Nhũ đá long lanh bao dáng vẻ/ Kìa trông ẩn hiện lối trong mây!” Và trọn vẹn tập thơ, như ngân vọng những khúc nhạc “thiền” được tác giả viết bằng thi ca, dẫn dắt, thanh lọc, đưa tâm hồn người đọc đạt tới độ yên bình, tĩnh tại trong chốn Tây Thiên. “Gió đưa khúc nhạc du dương/ Dẫn ta tới chốn Phật đường nơi xa/ Khó hay dễ ở lòng ta / Một dòng Thác Bạc, sương sa suối ngàn” Đọc thơ Lê Thị Ái Tùng, người đọc như “ngậm âm nhạc trong miệng”. Tính nhạc trong thơ của bà thể hiện ở việc phối hợp nhịp nhàng giữa các thanh bằng trắc, sự hiệp vần “trâu - sâu”, “xình - mình”, “dương - đường”, “ta - sa” và biện pháp điệp cấu trúc câu qua những câu thơ: “Xa gần vẳng tiếng mõ trâu/ Âm thanh vang vọng lắng sâu lòng người” (Thăm động Tiên Cô); “Vẳng nghe chiêng trống xập xình/ Thuyền đi du khách vươn mình dõi theo” (Tam Cốc); “Gió đưa khúc nhạc du dương/ Dẫn ta tới chốn Phật đường nơi xa/ Khó hay dễ ở lòng ta/ Một dòng Thác Bạc, sương sa suối ngàn” (Tây Thiên).
Nét đẹp quê hương với 53 bài thơ được nhà thơ vận dụng hình thức thơ lục bát bên cạnh các thể tự do, bảy chữ, tám chữ một cách nhuần nhuyễn, nhịp nhàng như những lời ru ngọt ngào, tha thiết đưa bạn đọc tới miền kỷ niệm thiết tha. Các câu thơ có hình thức đối xứng và mang sắc thái về nhịp điệu, gieo vần, cánh ngắt nhịp. Nhà thơ tiếp tục duy trì tính chất dân gian ở khía cạnh nhịp điệu, bà thường vận dụng những nhịp 2-6, 3-3-2, 6-2; 2-2-2; 4-2;3-5; 3-3; 4-4 làm cho câu thơ lục bát mềm mại có tính âm nhạc nhưng vẫn giản dị. Nhạc điệu của tập thơ được khơi nguồn từ tình yêu quê hương, đất nước, tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc đời và yêu con người. Đó vừa là nỗi nhớ tha thiết vừa là tình yêu sâu đậm của nhà thơ với dải đất hình chữ S thân yêu, với từng khoảnh khắc trong cuộc sống hằng ngày. Phải chăng đó cũng chính là nhạc điệu tâm hồn của thi nhân hay là nhạc điệu của hiện thực đời sống muôn màu. Bên cạnh đó, với giọng điệu trữ tình, đằm thắm, tự nhiên nhà thơ đã đưa người đọc chìm đắm trong một thế giới tâm tình đầy ân nghĩa. Từ khúc nhạc đời sống tới khúc nhạc nghĩa tình qua nhịp, phách, thanh, vần, điệu; tác giả Lê Thị Ái Tùng thật sự đã tấu lên khúc nhạc sơn hà qua mỗi bài thơ trong tập Nét đẹp quê hương vậy đó.
Thi trung hữu tình
Tuy nhiên tới tận cùng, dù là nhạc hay là họa, dù là quá khứ hay thực tại, dù là cảnh non cao hùng vĩ, sơn thủy hữu tình hay những vùng đất vô danh mà vẫn đủ khiến lòng người vương vấn, thì xuyên suốt từng dòng thơ trong tập sách Nét đẹp quê hương, đều xuất phát từ cái “tình” của “người thơ” Lê Thị Ái Tùng. Cái “tình” ấy không mang đặc trưng “ý tại ngôn ngoại”, cũng không phải tư tưởng “văn dĩ tải đạo”, “thi dĩ ngôn chí” như những nho sĩ thời xưa mà thơ của bà bộc lộ trực tiếp tình cảm một cách thẳng thắn không thông qua hệ thống hình tượng nghệ thuật một cách kĩ xảo, máy móc. Nhưng ẩn sau sự giản dị tới mộc mạc đấy lại vang lên nhịp đập trái tim thi sĩ trong dòng cảm xúc khi cuộn dâng, lúc lại bình lặng tựa mặt nước hồ ngày thu. Đó là cảm giác thanh tịnh, bình an, thoát tục khi về nơi cửa Phật; là cảm giác “lâng lâng lạ thường” khi nhà thơ về thăm rừng Cúc Phương; là sự “xao xuyến trong tim bồi hồi” đến “sâu đậm nghĩa tình” khi đắm chìm trong kí ức rừng thông; là cảm giác “bình an vui vầy” khi đặt chân đến núi Bà Đen; là sự xao xuyến, xúc động khi nhớ lại kỉ niệm tiễn bạn đến trường; là hạnh phúc, hân hoan khôn xiết với chén rượu nồng mừng thắng lợi mùa xuân 1975; là sự nhớ nhung, tiếc nuối khi về thăm cố hương,… Suy cho cùng những câu thơ bộc lộ trực tiếp tình cảm này mới thực là cội nguồn của thơ vì nó chân thật, bình dị không sáo ngữ, hàn lâm hay hành chính. “Tình” trong thơ Lê Thị Ái Tùng là sự hòa quyện giữa tình yêu quê hương, đất nước, tình yêu thiên nhiên, tình cảm gia đình, tình bằng hữu, tình ân nhân, niềm thành kính đức Phật và lòng trân trọng, tự hào quá khứ lịch sử. Phải là người thi sĩ đa cảm, đa tình và có vốn sống, vốn trải nghiệm phong phú thế nào mới “chưng cất” được những “ly rượu” thi ca không bóng bẩy, sáo mòn mà chân thật, bình dị và “say” đến vậy? Tác giả “say” trong tình cảm, “say” trong cảnh, nhân, sắc, hồi ức, kỉ niệm, hiện thực… để độc giả “say” giữa những vần thơ tựa họa, tựa nhạc như ngân lên tận sâu trong tâm hồn mỗi người. Từ đó, thơ của Lê Thị Ái Tùng, tập thơ Nét đẹp quê hương, qua “tình riêng” mà hướng người đọc tới “tình chung” về chân - thiện - mỹ ở cuộc đời. Là những tình cảm lớn lao về đất nước hay lịch sử; hoặc đơn thuần, chỉ là chốn “tìm về” những gì giản đơn, yên bình nhất trong mỗi tạo vật nhỏ nhặt của đời sống. Thơ Lê Thị Ái Tùng và tập thơ Nét đẹp quê hương, có lẽ còn như đúc rút, hướng về chữ “thiền” giữa đời bộn bề, là vì thế chăng?
Th.S Lê Thị Minh Thúy