• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Ngay cả Buffett cũng không hoàn hảo
  3. Trang 11

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 10
  • 11
  • 12
  • More pages
  • 17
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 10
  • 11
  • 12
  • More pages
  • 17
  • Sau

7.SỰ CAI QUẢN VÀ NGƯỜI KẾ NGHIỆP BUFFETT

Các giám đốc ít độc lập nhất dường như là những người có thu nhập chủ yếu từ phí quản lý do ngồi ghế hội đồng quản trị (và cũng là những người mong được đề cử vào các hội đồng quản trị của các công ty khác, qua đó mà thu nhập của họ tăng thêm). Tuy nhiên, đây chính là những thành viên hội đồng quản trị được xem là "độc lập" nhất.

- Warren Buffett, 2004

Các nhà đầu tư thường tin rằng Warren Buffett là người luôn bảo vệ quyền lợi của cổ đông. Ông thường xuyên chỉ trích gay gắt những giám đốc điều hành và các nhà quản lý chỉ quan tâm đến việc làm giàu cho bản thân họ, thay vì làm những điều tốt nhất cho cổ đông. Tuy không ai có thể cáo buộc một cách hợp lý Buffett cũng làm như thế, nhưng các nhà phê bình cho rằng quyền cai quản và kế hoạch tìm người người kế nhiệm của Buffett còn rất nhiều điều đáng bàn.

Việc cai quản và lựa chọn người kế nhiệm luôn là hai trong số những vấn đề sống còn của các doanh nghiệp và chúng trở thành ưu tiên số một sau khi một số vụ bê bối doanh nghiệp được đưa lên trang nhất của các báo trong thời gian gần đây. Tyco International từng được điều hành bởi một giám đốc điều hành luôn nghĩ đến việc "cướp tài sản" của công ty trong khi các thành viên hội đồng quản trị khác hoặc không biết điều gì đang diễn ra, hoặc làm ngơ. Enron, Worldcom, Adelphia và một số công ty khác bị tan vỡ một phần vì những thông lệ quản trị kém cỏi, họ cho phép giám đốc điều hành quá nhiều quyền hạn nhưng quá ít sự giám sát. Nhà đầu tư hiện đang kêu gào đòi hỏi hội đồng quản trị phải độc lập hơn và có trách nhiệm hơn. Các nhà làm luật nhanh chóng trả lời bằng những quy định mới hơn.

Cai quản không phải là vấn đề lớn đối với một doanh nghiệp nhỏ, được sở hữu và điều hành bởi một người chủ duy nhất. Xét cho cùng, nếu một người chủ sở hữu duy nhất làm giám đốc điều hành thì ông ấy chỉ làm hại mình nếu ông lấy tiền từ ngăn kéo của mình, hoặc ra những quyết định không khôn ngoan. Nhưng sự việc thay đổi hoàn toàn khi một công ty trở nên thuộc quyền sở hữu của công chúng. Thực tế, vấn đề cai quản doanh nghiệp phát sinh từ việc phân chia quyền sở hữu và quyền kiểm soát trong các công ty đại chúng. Nếu vị giám đốc điều hành sở hữu một nửa số cổ phiếu và biển thủ 1.000.000 USD thì hành vi ăn cắp này làm ông ta mất đi 500.000 USD. Nhưng nếu ông ta chỉ sở hữu 1% số cổ phiếu, thì việc ăn cắp 1.000.000 USD chỉ làm ông ta mất 10.000 USD mà thôi. Phần còn lại được lấy từ túi của những cổ đông khác.

Các công ty đại chúng thường được điều hành bởi những nhà quản lý chuyên nghiệp, là người được hội đồng quản trị tuyển dụng – bản thân hội đồng quản trị chính là những cổ đông được bầu. Hội đồng quản trị và bộ máy điều hành được ủy quyền làm những điều

tốt nhất cho cổ đông. Họ có nghĩa vụ phải đặt quyền lợi của cổ đông lên trước quyền lợi của bản thân. Điều này thường đồng nghĩa với việc ra những quyết định giúp tối đa hóa tài sản của cổ đông. Điều này nghe khá đơn giản, nhưng sự việc không phải lúc nào cũng diễn ra thuận lợi. Ngay cả khi họ là những người trung thực và thẳng thắn, hội đồng quản trị đôi khi cảm thấy một mức độ trách nhiệm nào đó với giám đốc điều hành. Giám đốc điều hành thậm chí có thể là người chịu trách nhiệm đưa họ vào hội đồng quản trị trước đó. Vấn đề nảy sinh khi hội đồng quản trị thường nghe theo giám đốc điều hành hơn là ý muốn của cổ đông. Khi điều này xảy ra, hội đồng quản trị có thể sẽ né tránh trách nhiệm của mình.

Do quyền sở hữu của những công ty đại chúng bị phân tán rộng nhưng mỏng nên có rất ít – nếu không muốn nói là không – cổ đông nào có đủ sức mạnh để giám sát hội đồng quản trị và bộ máy quản lý một cách phù hợp. Nếu khoản đầu tư của bạn vào một công ty chỉ có giá trị vài ngàn đô-la và chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng tài sản ròng của bạn, thì bạn sẽ chẳng dành nhiều thời gian, công sức và tiền bạc để đảm bảo rằng nhà quản lý sẽ phải làm những điều tốt nhất cho bạn và tất cả những chủ sở hữu khác. Ngoài ra, công việc này chính là trách nhiệm của hội đồng quản trị đối với bạn. Bạn và tất cả những cổ đông khác dựa vào hội đồng quản trị để thực hiện công việc giám sát giúp bạn. Trách nhiệm của hội đồng quản trị là kiểm soát và đảm bảo rằng mọi hoạt động quản lý đều vì lợi ích của cổ đông. Ngoài ra, ở quy mô lớn, bạn có thể giảm rủi ro do gặp phải những nhà quản lý tồi tệ bằng cách đa dạng hóa danh mục đầu tư của bạn.

TÍNH ĐỘC LẬP CỦA HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ

Để ngăn ngừa những vấn đề này, những người ủng hộ hoạt động quản trị doanh nghiệp tốt lý luận rằng các công ty phải có một loạt các thành viên hội đồng quản trị độc lập và giữ vai trò thực sự quan yếu. Tính độc lập của hội đồng quản trị thậm chí đã trở thành một vấn đề lớn ở Ủy ban Chứng khoán Mỹ. Dưới thời Chủ tịch William Donaldson, Ủy ban Chứng khoán đã cố gắng thông qua một nguyên tắc đòi hỏi ít nhất 75% thành viên hội đồng quản trị của một quỹ tương hỗ - bao gồm cả vị trí chủ tịch – phải là thành viên độc lập. Cho đến nay đề xuất này vẫn chưa được thông qua. Tuy việc đặt ra một con số cụ thể nghe có vẻ khôi hài, nhưng nhiều chuyên gia về quản trị doanh nghiệp tin rằng khi xem xét các tập đoàn đại chúng, số lượng thành viên hội đồng quản trị càng lớn và mức độ độc lập của họ càng cao thì hiệu quả quản lý doanh nghiệp càng tốt.

Các chuyên gia này lập luận: các thành viên hội đồng quản trị độc lập thường có khuynh hướng hành động vì lợi ích của cổ đông hơn các thành viên không độc lập. Ví dụ, họ tin những thành viên độc lập có thể áp dụng việc giám sát phù hợp, như ngăn công ty trong việc trả lương quá cao cho giám đốc điều hành, hoặc chi tiêu phung phí vào những chương trình bổng lộc chẳng mang lại ích lợi gì cho cổ đông. Ngoài ra, các thành viên độc lập có thể xem xét kỹ lưỡng những sự phối hợp kinh doanh được đề xuất như các vụ sáp nhập hoặc thu mua. Họ thường xem xét phương án đề xuất một cách khách quan hơn. Và có lẽ quan trọng nhất là họ có thể đặt vấn đề đối với những thông lệ kế toán quá mập mờ.

Tất nhiên, có vô số ví dụ về các tập đoàn được điều hành rất tốt mà không cần đến một hội đồng quản trị độc lập. Cũng có vô số những ví dụ về các hội đồng quản trị độc lập nhưng không ngăn chặn được tình trạng công ty lâm vào rắc rối. Hơn nữa, nghiên cứu trong lĩnh vực này lại đặc biệt không có tính chất kết luận. Khi xem xét vấn đề, hai nhà kinh tế Sanjai Bhagat và Bernard Black kết luận: "Không có bằng chứng thuyết phục nào cho thấy tính độc lập cao hơn của hội đồng quản trị sẽ tạo ra lợi nhuận lớn hơn hoặc tăng trưởng nhanh hơn cả. Cụ thể, không có bằng chứng thực nghiệm nào ủng hộ những đề xuất cho rằng các công ty nên có hội đồng quản trị với thành viên độc lập chiếm đa số, còn những thành viên khác có thể là người bên trong công ty. Trái lại, có một số bằng chứng cho thấy các công ty có thành viên hội đồng quản trị độc lập chiếm đa số lại tạo ra ít lợi nhuận hơn những công ty khác". Nghiên cứu cũng cho thấy mối tương quan giữa hiệu quả hoạt động của cổ phiếu và sự độc lập của hội đồng quản trị tốt nhất chỉ nên ở mức độ vừa phải. Tuy nhiên, các nhà quan sát hoạt động quản trị doanh nghiệp khẳng định những vấn đề nghiêm trọng như sự gian lận kế toán thường ít xảy ra trong các công ty có hội đồng quản trị thực sự độc lập.

Các chuyên gia về quản trị doanh nghiệp cũng lý luận rằng vị trí giám đốc điều hành và chủ tịch hội đồng quản trị nên được tách rời và phân biệt rõ ràng. Họ nói: việc để một người nắm giữ cả hai vị trí là một sai lầm. Xét cho cùng, giám đốc điều hành phải báo cáo cho hội đồng quản trị, và nếu ông ấy cũng là người lãnh đạo nhóm mà ông phải báo cáo thì đây quả không phải là một ý kiến hay. Ngoài ra, các chuyên gia nói điều quan trọng là các thành viên hội đồng quản trị cần phải tổ chức một số cuộc họp định kỳ mà không có sự tham gia của giám đốc điều hành. Họ cho rằng các cuộc thảo luận thường cởi mở và trung thực hơn khi không có giám đốc điều hành.

Điều này đặc biệt quan trọng khi mục đích của cuộc họp là đánh giá hiệu quả của giám đốc điều hành, hoặc quyết định mức lương thưởng của ông ấy.

Những người ủng hộ quan điểm hoạt động quản trị doanh nghiệp hiệu quả (good corporate governance) rất ngần ngại trong việc đóng dấu "bảo chứng" của họ cho trường hợp của Berkshire Hathaway, một công ty mà Buffett vừa là giám đốc điều hành vừa là chủ tịch hội đồng quản trị trong nhiều thập niên qua. Hơn nữa, trong gần như toàn bộ lịch sử của mình, hội đồng quản trị của Berkshire chưa bao giờ có tính độc lập. Tuy một vài người cho rằng ngày nay hội đồng quản trị của Berkshire đã độc lập hơn trước, nhưng như thế vẫn chưa đủ.

Một hội đồng quản trị độc lập phải có các thành viên độc lập chiếm đa số. Theo định nghĩa của Hội đồng các nhà đầu tư là tổ chức (CII – Council of Institutional Investors), "một thành viên độc lập là người không có quan hệ đặc biệt về nghề nghiệp, gia đình hoặc tài chính với công ty, với chủ tịch hội đồng quản trị, giám đốc điều hành hoặc những giám đốc khác trong phạm vi lãnh đạo của mình". Quan trọng nhất, theo CII, là một thành viên không thể được xem là độc lập nếu trong vòng 5 năm trước đó, người thân của họ từng được công ty tuyển dụng hoặc làm ăn với công ty.

Tính độc lập "thực sự" là một điều lý tưởng không thể nào đạt được. Xét cho cùng, các công ty đều muốn và cần có các nhà quản lý có năng lực. Điều này đồng nghĩa với việc họ sẽ tuyển hoặc hợp tác với những nhà quản lý cấp cao có kinh nghiệm. Nhiều khả năng là những cá nhân như thế có quen biết lẫn nhau. Thậm chí họ có thể từng làm ăn với nhau trong quá khứ. Tuy nhiên, dù cho việc tạo ra một hội đồng quản trị thực sự độc lập gần như bất khả thi, các chuyên gia về quản trị doanh nghiệp vẫn yêu cầu các tập đoàn ít nhất cũng nên cố gắng duy trì sự độc lập tối thiểu.

Tuy nhiên, cho đến rất gần đây, Berkshire Hathaway vẫn chưa chứng minh được các thành viên hội đồng quản trị của họ là độc lập – ít nhất là không cần theo những tiêu chuẩn khắt khe do những tổ chức như CII đặt ra. Dù vậy, cổ đông của Berkshire Hathaway vẫn không phàn nàn gì về điều này. Cổ phiếu của họ mang lại kết quả tuyệt vời trong nhiều thập niên qua. Tuy nhiên, cần phải nói rằng Buffett và công ty của ông đang phớt lờ một trong những tiêu chí quan trọng nhất trong hoạt động quản trị doanh nghiệp – ít nhất là theo quan điểm của những người được gọi là chuyên gia.

Khoảng năm 2002, hội đồng quản trị của Berkshire chỉ gồm bảy cá nhân. Ba người có họ Buffett gồm Chủ tịch kiêm Giám đốc điều hành Warren, vợ ông Susan, và con trai Howard. Phó Chủ tịch Charles Munger cũng ngồi trong hội đồng quản trị. Ngoài ra còn có Ronald Olson, một đối tác trong công ty luật Munger, Tolles & Olson – một công ty chuyên tư vấn luật cho Berkshire. Chủ tịch của Level 3 Communications Walter Scott, Jr., cũng là một thành viên hội đồng quản trị của Berkshire. Ông cũng có một khoản đầu tư lớn cùng với Berkshire vào công ty MidAmerican Energy Holdings. Người cuối cùng trong hội đồng quản trị là Malcolm Chace, chủ tịch của BankRI. Ông là thành viên gia đình sở hữu nhà máy dệt mà Buffett đã mua lại năm 1962. Đây là giao dịch dẫn đến sự thành lập của Berkshire Hathaway ngày nay. Scott và Chace là những thành viên duy nhất trong hội đồng quản trị của Berkshire có thể gây ra một vài tranh cãi khi xét đến tính độc lập. Chẳng hạn, trong trường hợp của Scott, có thể bạn phải mở rộng định nghĩa độc lập thêm một chút.

Tuy nhiên, Buffett không quan tâm nhiều đến cách CII định nghĩa tính độc lập. Ông đã trình bày rất hay trong báo cáo thường niên năm 2004 của Berkshire như sau: "Các thành viên ít độc lập nhất thường là những người nhận được phần lớn thu nhập quan trọng của mình từ khoản thù lao quản lý với tư cách là thành viên hội đồng quản trị. Nhưng đây chính là những thành viên hội đồng quản trị được xem là ‘độc lập nhất’". Buffett tiếp tục giải thích rằng những thành viên độc lập như thế có thể ra những quyết định có lợi cho bản thân họ với chi phí cổ đông phải gánh chịu. Ví dụ, một thành viên độc lập nhận được phần lớn thu nhập của mình từ sự phục vụ trong hội đồng quản trị có thể phản đối việc bán công ty với giá trị cao nhất nếu giao dịch này có thể làm mất vị trí của mình cùng với những khoản phí đi kèm với nó. Nhưng Buffett chỉ thích các thành viên hội đồng quản trị có những khoản đầu tư lớn vào công ty bởi suy nghĩ của họ giống suy nghĩ của một cổ đông hơn. Nói cách khác, ông muốn có những thành viên có thực chất trong hoạt động của công ty. Ông cũng muốn các thành viên hiểu rõ công ty và có khả năng đóng góp những ý kiến quan trọng trong các cuộc họp của hội đồng quản trị, bất kể họ có đáp ứng được định nghĩa về tính độc lập mà một số chuyên gia tự đặt ra hay không.

Tuy Buffett có thể đúng trong cách nghĩ của ông, nhưng cần phải nói rằng những việc đang xảy ra ở Berkshire ngày nay rất khác so với vài năm ngắn ngủi trước đây. Đây không phải là do Buffett bất ngờ nhìn thấy ánh sáng và khám phá ra nhu cầu cần phải có hoạt động quản trị doanh nghiệp hiệu quả hơn ở Berkshire. Và dĩ nhiên không phải vì ông kết luận rằng những tiêu chuẩn của CII là chính xác hơn của ông. Thay vào đó, năm 2003 Sở Giao dịch Chứng khoán New York (NYSE – New York Stock Exchange) đặt ra những quy định cho tất cả các công ty niêm yết – bao gồm cả Berkshire. Cụ thể, Điều 303A trong Cẩm nang Công ty Niêm yết của NYSE quy định rằng đa số thành viên hội đồng quản trị phải là người độc lập. Quy định của NYSE trong việc xây dựng tính độc lập không quá chặt chẽ như CII đề xuất, nhưng cũng gần như thế. Các quy định mới này đã buộc Berkshire – và nhiều công ty niêm yết trên sàn NYSE – phải thay đổi mạnh mẽ cấu trúc hội đồng quản trị của mình.

Trước quy định mới, Berkshire gia tăng số lượng thành viên hội đồng quản trị của mình lên thành 11. Đáng buồn là Susan Buffett, một thành viên hội đồng quản trị, đã qua đời vào tháng 7 năm 2004; Malcolm Chace cũng quyết định rút lui khỏi hội đồng quản trị Berkshire vào năm 2007. Năm thành viên còn lại của hội đồng quản trị 2002 vẫn tiếp tục tại vị. Người giàu nhất nước Mỹ, Bill Gates của tập đoàn danh tiếng Microsoft là thành viên thứ sáu đầy thú vị. Tất nhiên, Gates và Buffett trước đó đã xác lập một tình bạn nổi tiếng. Thậm chí bạn có thể nói họ là những thành viên của hiệp hội những người ngưỡng mộ lẫn nhau bởi họ thường nói rất tốt về nhau. Cả hai đều là những người thích chơi bài bridge và thường xuyên gặp nhau. Nhưng không có gì thể hiện rõ ràng hơn sự ngưỡng mộ mà Buffett dành cho Gates bằng quyết định hiến 31 tỷ USD tài sản của mình cho quỹ Bill & Melinda Gates, một cử chỉ cao thượng và bác ái vượt trên tất cả mọi tiêu chuẩn đạo đức. Nhưng nó cũng đưa ra ánh sáng bản chất của mối quan hệ khiến những người kêu gọi nâng cao tính độc lập của hội đồng quản trị cảm thấy hết sức khó chịu. Dù họ có lo ngại đi nữa thì có thể vẫn công bằng khi nói Bill Gates hoàn toàn phù hợp với các quy định của NYSE về tính độc lập của một thành viên hội đồng quản trị, như Berkshire thường lý luận trong các báo cáo thường niên của họ.

Susan Decker, chủ tịch của Yahoo!, là thành viên mới nhất và trẻ nhất trong hội đồng quản trị Berkshire. Thú vị thay, ngay sau khi Decker được công bố sẽ trở thành thành viên của Berkshire, tin đồn lan truyền rằng Microsoft quan tâm đến việc mua lại Yahoo!. Decker được chọn để thay cho Malcolm Chace. Chace, lúc đó 72 tuổi, đề nghị Berkshire thay thế mình bằng một người trẻ hơn. Nhưng đến hôm nay, hội đồng quản trị của Berkshire vẫn có sáu người lớn tuổi hơn Chace, tất nhiên trong đó có cả Warren Buffett.

Berkshire tuyên bố trong hồ sơ nộp Ủy ban Chứng khoán rằng 7 trong số 11 thành viên hội đồng quản trị là độc lập, Scott nằm trong nhóm này, mặc dù ông vẫn là thành viên của MidAmerican Energy Holdings. Tuy nhiên, những người chủ trương hoạt động quản trị doanh nghiệp hiệu quả thừa nhận cấu trúc hiện nay của Berkshire là một sự cải thiện rất lớn so với sự thiếu độc lập chỉ vài năm trước đó. Dù họ có định nghĩa độc lập là thế nào đi nữa, họ cũng phải công nhận hội đồng quản trị của Berkshire ngày nay độc lập hơn bao giờ hết.

Đây là một điểm quan trọng khác cần suy ngẫm: tất cả các thành viên hội đồng quản trị đòi hỏi phải có một lượng vốn đáng kể đầu tư vào Berkshire. Mặc dù từ "đáng kể" không được xác định rõ ràng, nhưng hẳn Buffett đang nghĩ đến giá trị tuyệt đối – chứ không phải tỷ lệ tương đối. Ví dụ, khoản đầu tư của Bill Gates vào Berkshire gần đây được ước tính trị giá khoảng 500 triệu USD. Mức này thực sự đạt tiêu chuẩn của bất cứ quy định nào, mặc dù chỉ tượng trưng cho không đến 1% giá trị tài sản ròng của Gates.

Những thay đổi gần đây trong phòng họp hội đồng quản trị của Berkshire không phải là duy nhất. Spencer Stuart, một công ty việc làm lớn chuyên giúp đỡ các tập đoàn tìm kiếm thành viên hội đồng quản trị đủ năng lực nói rằng họ đã nhìn thấy một khuynh hướng chung hướng đến tính độc lập cao hơn trong hội đồng quản trị. Phần lớn khuynh hướng này là phản ứng lại những vụ bê bối doanh nghiệp, dẫn đến đủ thứ quy định mới, bao gồm Đạo luật Sarbanes- Oxley năm 2002 và những quy định đã nêu ở phần trước của NYSE.

Thú vị thay, Spencer Stuart cũng báo cáo: gần 80% các công ty S&P 500 đặt ra độ tuổi bắt buộc nghỉ hưu cho các thành viên hội đồng quản trị, thường là 70. Tuy nhiên, do thiếu hụt các thành viên độc lập có phẩm chất và điều kiện nên một số công ty đã gia tăng độ tuổi bắt buộc nghỉ hưu lên hơn 72 tuổi. Một số chuyên gia về quản trị doanh nghiệp ủng hộ quy định về tuổi nghỉ hưu. Họ lý luận rằng quy định bắt buộc sẽ giúp ngăn chặn các thành viên hội đồng quản trị "bám ghế" quá lâu và buộc công ty phải tìm kiếm những người mới có khả năng mang lại những góc nhìn khác biệt và ý tưởng mới mẻ vào phòng họp hội đồng quản trị.

Tuy nhiên, thật khôi hài khi các công ty tùy tiện đưa ra một độ tuổi nghỉ hưu làm một số thành viên hội đồng quản trị tuy "có tuổi" nhưng vẫn còn rất năng động và có giá trị buộc phải rút lui. Nhiều người vẫn mẫn tiệp cho đến tuổi 80, thậm chí 90. Việc định ra tuổi nghỉ hưu của từng thành viên hội đồng quản trị sẽ có ý nghĩa hơn việc ấn định một tuổi nghỉ hưu nào đó.

Berkshire không có tuổi nghỉ hưu bắt buộc. Thực ra, so với hầu hết các tập đoàn lớn khác ở Mỹ, độ tuổi quá cao của nhiều thành viên hội đồng quản trị là điều hết sức không bình thường. Thậm chí với việc Decker thay thế Chace, đa số thành viên hội đồng quản trị của Berkshire vẫn lớn hơn 70 tuổi. Việc này hoàn toàn không có nghĩa là Berkshire đang gây hại cho cổ đông. Tuy nhiên, việc phụ thuộc nặng nề vào những cá nhân có kinh nghiệm lãnh đạo và điều hành là điều không bình thường theo các tiêu chuẩn ngày nay.

NGƯỜI KẾ NHIỆM BUFFETT

Warren Buffett là người khiêm tốn, nhưng ông cũng là một ngôi sao sáng. Các cuộc họp thường niên của công ty diễn ra như những bữa tiệc bạn bè thân mật. Cổ đông không ngại di chuyển những quãng đường rất xa chỉ để gặp thần tượng của mình. Họ như nuốt lấy từng lời ông nói. Họ vây quanh ông hy vọng được bắt tay ông, được ông tặng chữ ký, hoặc được chụp hình với ông. Một số người chỉ muốn cảm ơn ông vì chính ông đã giúp họ trở nên cực kỳ giàu có.

Dĩ nhiên, Buffett xứng đáng với tất cả sự khen tặng có phần tâng bốc ấy. Ông thực sự đáng được tôn vinh vì đã tạo ra một số lượng lớn các nhà triệu phú ở Mỹ. Hãy nhìn Hình 7.1 và bạn sẽ hiểu tại sao các nhà đầu tư của ông lại yêu thích ông đến vậy. Ngoại trừ thời gian khó khăn trong giai đoạn bùng nổ và bong bóng công nghệ cuối thập kỷ 1990 và đầu năm 2000, giá cổ phiếu Berkshire nằm trên một quỹ đạo tăng khá ổn định. Thực ra, trong thời gian 20 năm tính đến năm 2006, cổ phiếu tăng giá khoảng 40 lần. Điều này có nghĩa là một khoản đầu tư trị giá 25.000 USD lúc ấy sẽ là 1 triệu USD 20 năm sau. Thậm chí học phí đại học cũng không thể tăng nhanh như giá của cổ phiếu này.

Đôi khi Buffett lên tiếng phê phán những người nhầm lẫn việc mua cổ phiếu của Berkshire là mua cổ phiếu của ông. Nhưng trong suy nghĩ của nhiều nhà đầu tư, Berkshire và Buffett là một. Buffett


không tán thành, nhưng các nhà đầu tư và giới truyền thông cũng không sai khi nghĩ như thế. Xét cho cùng, Buffett điều hành Berkshire. Ông cũng từng nói rằng gần 99% giá trị tài sản ròng của ông được đầu tư vào cổ phiếu của Berkshire. Do Buffett là chìa khóa dẫn đến thành công của công ty, nên thật dễ hiểu khi giới truyền thông đôi khi dùng từ "Buffett" và "Berkshire" như một sự thay thế lẫn nhau. Cũng dễ hiểu khi các cổ đông của Berkshire lo lắng về tương lai của công ty khi Buffett đang bước vào tuổi 80. Tuy ông tuyên bố sức khỏe của mình rất tốt (theo ông là nhờ chế độ ăn với hamburger và Cherry Coke), mọi người đều biết rằng thời gian không chờ một ai cả.

Nhiều nhà đầu tư cảm thấy rất khó tưởng tượng ra một Berkshire không có Buffett. Nhưng mỗi năm trôi qua, vấn đề kế nhiệm ngày càng trở nên thúc bách hơn. Buffett có vai trò và tầm ảnh hưởng lớn đến mức khó tìm được người nào có thể thay thế ông một cách hoàn chỉnh. Nhà đầu tư đều muốn biết ai sẽ điều hành Berkshire khi Buffett không còn nữa.

Nhiều năm qua, Buffett và Berkshire đều không nói gì đến kế hoạch kế nhiệm. Nhưng lại một lần nữa, Sở Giao dịch Chứng khoán New York (NYSE) đã buộc Buffett nghĩ đến điều này. Mục 303A trong Cẩm nang Công ty Niêm yết của NYSE quy định các công ty phải có "chính sách liên quan đến việc kế nhiệm trong trường hợp khẩn cấp hoặc về hưu của giám đốc điều hành".

Ngày nay, Berkshire Hathaway có những hướng dẫn rất rõ ràng về hoạt động quản trị doanh nghiệp, bao gồm cả việc hoạch định người kế nhiệm. Theo những hướng dẫn này, Buffett thường xuyên thảo luận kế hoạch kế nhiệm với hội đồng quản trị và đưa ra những tiến cử cho người có khả năng thay thế ông trong trường hợp ông không còn khả năng hoàn thành trách nhiệm CEO(34) của mình. Những hướng dẫn này cũng nói rằng hội đồng quản trị cần thường xuyên đánh giá "những điểm mạnh và điểm yếu của một số giám đốc đang làm việc tại Berkshire, những người có khả năng kế nhiệm Buffett trong trường hợp ông qua đời hoặc mất khả năng điều hành".

Thư gởi cổ đông năm 2005 của Buffett còn đi xa hơn thế. Trong đó, ông nói: Berkshire có ba nhà quản lý khá trẻ và đủ điều kiện để có thể đảm nhận vị trí giám đốc điều hành. Hội đồng quản trị của Berkshire đã đánh giá từng người trong số họ và nhất trí quyết định người sẽ kế nhiệm ông ngay lập tức nếu cần. Tuy nhiên, hội đồng quản trị có thể thay đổi ý định bất cứ lúc nào, nhưng ít nhất cổ đông cũng biết rằng đã có một kế hoạch cụ thể cho việc này.

Việc đoán ai sẽ trở thành một Buffett tiếp theo của Berkshire đã trở thành một cuộc vận động nơi phòng khách. Các nhà phân tích, báo chí và cổ đông Berkshire đọc những báo cáo thường niên của Berkshire một cách cẩn thận, tỉ mỉ để tìm kiếm manh mối. Buffett có thói quen khen ngợi các nhà quản lý của mình trong thư gởi cổ đông. Các nhà đầu tư tìm kiếm những cá nhân được nêu tên nhiều lần nhất trong những lá thư này. Họ cũng lưu ý đến cả những người không còn được nêu tên nữa. Ajit Jain là một cái tên thường xuyên xuất hiện. Trong nhiều năm qua, Jain điều hành công ty bảo hiểm National Indemnity của Berkshire. Gần đây, ông nắm quyền kiểm soát hoạt động đầy rắc rối của nhóm công ty tái bảo hiểm của Berkshire Hathaway. Joe Brandon và Tad Montross cũng thường xuyên được nêu tên. Buffett khen ngợi họ vì công lao xoay chuyển tình thế khó khăn ở công ty con General Re. Mặc dù Buffett thích một người nào đó trẻ tuổi hơn, nhưng Tony Nicely của GEICO cũng là người thường xuyên được nêu tên.

Thư gởi cổ đông năm 2005 của Buffett cũng tiết lộ một kế hoạch thú vị khác. Trong vai trò giám đốc điều hành, Buffett đưa ra những quyết định kinh doanh lẫn những quyết định đầu tư. Nhưng ông nói rằng chưa có một người nào khác có "kinh nghiệm đan xen để có thể cảm thấy thoải mái khi ra những quyết định kinh doanh lẫn quyết định đầu tư như tôi". Kết quả là người thay thế ông sẽ chỉ tập trung vào kinh doanh, còn các quyết định đầu tư sẽ do một người khác thực hiện, tùy vị giám đốc điều hành mới lựa chọn. Người đó sẽ là ai? Trong nhiều năm, những người khôn ngoan đều đặt cược vào Lou Simpson ở GEICO. Buffett khen ngợi Simpson về việc đã đưa ra hầu hết các quyết định đầu tư của Berkshire: "Lou là người chắc chắn được đưa vào Nhà Danh vọng(35) dành cho các nhà đầu tư vĩ đại". Nhưng Simpson về sau không phải là một lựa chọn sáng giá nữa. Buffett đã nói rõ điều này chỉ hai năm sau đó: "Lou là nhà đầu tư ưu tú với bề dày thành tích trong việc quản lý danh mục đầu tư một cách xuất sắc. Nhưng ông ấy chỉ nhỏ hơn tôi sáu tuổi mà thôi. Nếu tôi qua đời, ông ấy cũng chỉ thay thế hoàn hảo trong một thời gian rất ngắn. Tuy nhiên, trong dài hạn chúng tôi cần một câu trả lời khác".

Buffett tiếp tục giải thích rằng ông có thể tuyển thêm vài ứng viên trẻ và huấn luyện để họ nhận lấy trọng trách của ông. Ông đang tìm kiếm "một người mà bản năng có thể nhận diện và tránh được những rủi ro nghiêm trọng, bao gồm cả những rủi ro chưa bao giờ gặp trước đây". Ứng viên thành công cần phải thể hiện "tư duy độc lập, sự ổn định về cảm xúc và sự thấu hiểu sâu sắc hành vi của con người và của tổ chức". Yêu cầu tuyển dụng của Buffett làm cho hàng ngàn người tới tấp gởi hồ sơ dự tuyển để trở thành một Buffett tiếp theo, và để được nhà đầu tư vĩ đại nhất thế giới huấn luyện rồi cuối cùng nhận lấy công việc từ tay ông.

Không ai biết rõ người kế vị Buffett là ai, nhưng hội đồng quản trị đã chuẩn bị sẵn người để sẵn sàng đảm nhận trọng trách đó trong trường hợp cần thiết. Berkshire cũng đang triển khai các kế hoạch tìm kiếm và huấn luyện một giám đốc đầu tư. Ngoài ra, Buffett nói: hội đồng quản trị sẵn sàng hành động nếu năng lực tinh thần của ông bắt đầu suy giảm – thậm chí bản thân ông cũng có thể không nhận ra điều đó. Buffett đã trấn an cổ đông của mình rằng hội đồng quản trị của Berkshire sẵn sàng "đuổi" ông khi cần thiết. Ông cũng đang vỗ về họ: Berkshire thời "hậu Buffett" cũng sẽ lành mạnh và được quản lý tốt ít nhất như hiện nay.

TÓM TẮT CHƯƠNG 7

• Các tập đoàn có các thành viên hội đồng quản trị độc lập chiếm đa số thường ít xảy ra xì-căng-đan. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu cho thấy không có mối liên hệ nào giữa cơ cấu hội đồng quản trị và diễn biến giá cổ phiếu. Nếu bạn lo ngại rằng bạn sẽ nắm giữ những cổ phiếu như của Enron trong danh mục đầu tư của mình thì hãy tránh xa những công ty có hội đồng quản trị thiếu sự độc lập. Nếu bạn quan tâm nhiều hơn đến việc tạo ra lợi nhuận cao trong dài hạn, sự độc lập của hội đồng quản trị không nhất thiết là yếu tố chính trong quyết định mua cổ phiếu của bạn.

• Qua nhiều thập kỷ, hội đồng quản trị của Berkshire không có tính độc lập. Nhưng Berkshire là một trong những cổ phiếu có hiệu quả cao nhất trên thị trường. Hội đồng quản trị của Berkshire hiện nay độc lập hơn trước rất nhiều, nhưng một số chuyên gia về quản trị doanh nghiệp cho rằng như vậy vẫn chưa đủ. Buffett có những chuẩn mực đạo đức rất cao. Nhưng không phải tất cả các tập đoàn khác đều được điều hành bởi những CEO có tính cách như Buffett. Cổ đông của Berkshire không cần thiết phải bận tâm nhiều đến vấn đề quản trị doanh nghiệp, nhưng đối với những công ty khác, đây là một sự lo ngại sâu sắc.

• Những người ủng hộ hoạt động quản trị doanh nghiệp tốt luôn đòi hỏi số thành viên hội đồng quản trị độc lập phải chiếm đa số. Họ không được có quan hệ nghề nghiệp, gia đình hay tài chính với công ty, giám đốc điều hành và những nhân sự điều hành khác theo nghĩa có thể gây ảnh hưởng đến các quyết định quản trị. Buffett không đồng tình với điều này. Ông nói rằng một thành viên độc lập thực sự là người suy nghĩ như một cổ đông và có cam kết tài chính đáng kể trong công ty. Hơn nữa, thu nhập mà họ kiếm được từ các khoản phí trả cho hội đồng quản trị chỉ nên là một phần rất nhỏ trong tổng thu nhập của họ. Hãy đọc bản ủy quyền để xem mỗi thành viên hội đồng quản trị nắm giữ bao nhiêu cổ phiếu. Những người được gọi là thành viên độc lập nhưng đầu tư rất ít vào công ty sẽ khó có thể mang lại nhiều giá trị cho công ty và cổ đông của mình.

• Kế hoạch kế nhiệm có vai trò đặc biệt quan trọng khi sự thành công của công ty chỉ gắn với một cá nhân duy nhất. Quả là chính đáng khi các nhà đầu tư lo lắng về tương lai của Berkshire thời hậu Buffett. Nhưng Berkshire đã có một kế hoạch kế nhiệm chắc chắn trong tay. Hãy cẩn thận khi quyết định đầu tư vào một công ty có CEO thuộc hàng "siêu sao", trừ phi hội đồng quản trị có một kế hoạch kế nhiệm thật minh bạch.