Warren Buffett là một huyền thoại sống ngay trong chính thời đại của mình. Chắc chắn ông là nhà đầu tư vĩ đại nhất còn sống trên thế giới này. Ông cũng là người được viết sách nhiều nhất. Gần đây, khi tìm chữ "Warren Buffett" trong phân mục "sách" trên Amazon.com, có gần 3.000 kết quả xuất hiện, trong đó có ít nhất 100 quyển có từ Buffett trong tựa sách. Việc xuất bản quyển sách này cũng làm dài thêm danh sách ấy.
Các nhà đầu tư hết sức hâm mộ Warren Buffett. Phần lớn sự ca tụng của họ là kết quả trực tiếp của sự thành công và giàu có của ông. Dù gì đi nữa thì ông cũng là một trong những người giàu có nhất thế giới. Cách đây không lâu, ông đã đồng ý hiến tặng phần lớn tài sản của mình cho quỹ từ thiện do Bill Gates điều hành. Nhưng không phải túi tiền khổng lồ hoặc sự hào phóng kỳ lạ của ông làm cho ông trở thành tâm điểm của quá nhiều sự chú ý đến như vậy. Người ta cũng rất thích thú với tính cách của ông. Dù là người hết sức giàu có và thông minh, ông thường xuất hiện như một người bình dị. Mọi người yêu thích khả năng phi thường của ông trong việc thực hiện những đánh giá bằng lý trí thông thường, óc khôi hài và hoàn toàn không có cái tôi tồn tại trong ông. Buffett có đủ tính cách của Albert Einstein và Cảnh sát trưởng Taylor trong loạt phim truyền hình thời thập niên 1960 của Andy Griffith. Bạn không thể nào không ngưỡng mộ, tôn trọng và yêu quý ông. Trước hết, bạn muốn dùng đến trí tuệ của ông trong hầu như bất cứ chủ đề gì. Sau đó, bạn muốn ngồi ở ngoài hiên nhà ông, cùng ăn bánh táo với ông.
Có lẽ, điều thú vị nhất về Warren Buffett là không ai có thể "phân loại" ông thuộc dạng người nào. Thực tế, việc cố gắng phân loại các chiến lược đầu tư của Buffett là một sai lầm thường mắc phải ở nhiều tác giả và nhà nghiên cứu. Các chuyên gia về đầu tư cũng thường thích đặt đồng nghiệp của mình vào một nhóm rồi dán nhãn cho họ. Họ thích nói những điều đại loại như: "Đây là nhà đầu tư giá trị" hoặc "Kia là nhà đầu tư tăng trưởng". Tuy nhiên, đối với Buffett thì không thể có những cái nhãn tiện dụng như vậy. Buffett là một nhà đầu tư giá trị nhưng ông cũng mua cả những cổ phiếu tăng trưởng. Buffett là một nhà đầu tư mua và nắm giữ, đồng thời cũng buôn bán cổ phiếu. Buffett thích đầu tư vào những công ty có mức vốn hóa lớn, nhưng cũng không bỏ qua các công ty trung bình và nhỏ. Buffett chỉ mua các công ty và cổ phiếu của Mỹ, nhưng gần đây ông bắt đầu mua lại các doanh nghiệp ngoài nước Mỹ. Buffett được biết đến nhiều nhất như một người mua các cổ phiếu cá nhân hoặc toàn bộ công ty, nhưng ông cũng mua cả chứng khoán có thu nhập cố định như trái phiếu. Thực tế, Buffett còn tham gia cả vào tiền tệ, hàng hóa, và chứng khoán phái sinh. Thật sự không ai có thể phân loại Buffett một cách rõ ràng được. Không có cái nhãn phù hợp nào để gắn cho ông. Một khi bạn nghĩ rằng mình đã xác định được phong cách của ông thì ông lại thay đổi.
Ngoài ra, nhiều nhà quan sát tin rằng Buffett là người sắt đá. Nói cách khác, họ nghĩ rằng ông tuân theo một số nguyên tắc nào đó và không bao giờ rời xa chúng. Họ tin rằng ông đã thành công bằng cách thực thi những chiến lược cơ bản giống nhau hết lần này đến lần khác, Họ cũng tin rằng ai cũng có thể trở thành một nhà đầu tư thành công, miễn là họ hiểu được một số bí quyết ưa thích của Buffett và làm theo ông.
Giá như mọi thứ đều dễ dàng đến thế! Tuy vậy, phong cách đầu tư của Warren Buffett hoàn toàn không vững chắc như họ nghĩ. Nếu phải so sánh, nó giống như một dòng dung nham nóng chảy. Đó là do ông thường xuyên thay đổi và tinh chỉnh các chiến lược đầu tư của mình. Buffett biết rõ rằng không có nhà đầu tư nào có thể hy vọng trở nên cực kỳ thành công chỉ bằng cách lặp đi lặp lại những bước đi theo cùng một công thức. Để thực sự thành công, nhà đầu tư phải sẵn sàng điều chỉnh phong cách và chiến lược của mình theo từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Buffett luôn là một cậu học trò của thị trường, ông không ngừng học hỏi dù ông đã tốt nghiệp các trường kinh doanh nổi tiếng nhất của Mỹ. Nền tảng giáo dục của Buffett chưa bao giờ đi đến hồi hết, và bạn cũng nên như vậy.
Nhưng mặc dù ông sẵn sàng thay đổi và thích ứng với môi trường, vẫn có ba điều mà Buffett luôn nhất quán. Trước hết, ông rất yêu thích ngành kinh doanh bảo hiểm. Tài sản cá nhân của Buffett là kết quả trực tiếp của chỉ một cổ phiếu – Berkshire Hathaway – và thành công của Berkshire phần lớn là nhờ một ngành – bảo hiểm. Lèo lái Berkshire tiến vào ngành bảo hiểm, Buffett có thể chạm tay vào khối lượng vốn khổng lồ chờ phân bổ của ngành này. Ông nhận thấy từ lâu rằng Berkshire có thể kiếm được cả gia tài bằng cách nhận các khoản phí bảo hiểm từ các hợp đồng bảo hiểm và đầu tư chúng với tỷ suất thu nhập cao hơn đủ để thanh toán những vụ đòi bảo hiểm trong tương lai mà vẫn còn nhiều khoản lợi nhuận còn lại cho cổ đông.
Điều thứ hai không thay đổi ở Buffett là ông luôn đặt nặng tầm quan trọng của một bộ máy quản lý xuất sắc. Bộ máy quản lý tốt thực sự rất quan trọng để tạo ra giá trị dài hạn. Điều này nhất quán với lý thuyết tài chính, vì rằng một công ty có bộ máy quản lý yếu kém nếu được một bộ máy quản lý khác tốt hơn kiểm soát và điều hành thì sẽ có giá trị cao hơn. Đây là một lý do thường được trích dẫn trong các vụ thu mua công ty một cách thù địch. Tuy nhiên, Buffett hoàn toàn không thích thu mua công ty theo cách này. Ông hoàn toàn không quan tâm gì đến những công ty được quản lý kém bởi ông không quan tâm đến việc điều hành chúng. Thay vào đó, ông mời những nhân vật hàng đầu của những công ty được điều hành tốt trực tiếp liên lạc với ông nếu họ sẵn sàng bán doanh nghiệp của mình. Nhưng ông không muốn các nhà quản lý này nghỉ hưu hay ra đi sau vụ mua bán công ty. Buffett chỉ quan tâm đến việc mua lại những công ty tốt có sẵn các nhà quản lý giỏi và sẵn sàng ở lại tiếp tục điều hành công ty.
Buffett cũng nổi tiếng ở khía cạnh đạo đức. Cụ thể, ông muốn các nhà quản lý làm việc cho mình phải hiểu rằng cổ đông là số một. Ông không quan tâm đến việc các nhà quản lý giỏi của ông kiếm được rất nhiều tiền, miễn là cổ đông của ông được giàu lên. Ông rất ghê tởm trước sự tham lam quá độ xuất hiện ở các tập đoàn lớn trong những năm gần đây. Buffett đã nhìn thấy quá nhiều CEO được hưởng quá nhiều quyền mua cổ phiếu ưu đãi và các gói thưởng cực lớn trong khi công ty hoặc cổ phiếu của họ thì chẳng có gì tốt đẹp cả. Ông cũng đã chứng kiến quá nhiều công ty phải viện đến những thủ thuật kế toán và các mánh khóe khác như mua lại cổ phiếu quỹ (ít có ý nghĩa về mặt kinh tế nhưng có thể thúc đẩy giá cổ phiếu) ít nhất là trong một khoảng thời gian đủ dài để những nhà quản lý thực hiện quyền mua cổ phiếu ưu đãi và nhanh chóng bán chúng đi với giá cao. Nói chung, Buffett đã chứng kiến quá nhiều nhà quản lý hưởng lợi cá nhân bằng tiền của cổ đông công ty của họ.
Thứ ba, Buffett chủ yếu dựa vào phân tích chiết khấu dòng tiền để tìm kiếm các cổ phiếu và các công ty có khả năng mua lại với giá thấp hơn giá trị nội tại. Lý thuyết tài chính cho chúng ta biết rằng giá trị của bất cứ tài sản nào cũng chỉ đơn giản bằng với giá trị hiện tại của tất cả các dòng tiền tương lai mà tài sản đó tạo ra theo kỳ vọng dành cho nó. Mặc dù Buffett không phải lúc nào cũng thích các lý thuyết tài chính khó hiểu và thường xuyên bày tỏ sự bất đồng với giới học thuật, nhưng phân tích chiết khấu dòng tiền là đề tài mà Buffett và giới học thuật có sự đồng thuận rất cao. Tuy những nhà đầu tư bình thường đôi khi cảm thấy sợ hãi khi nói đến phương pháp chiết khấu dòng tiền, nhưng phương pháp phân tích này không có gì là phức tạp như vẻ bề ngoài của nó. Nghiên cứu một vài báo cáo từ Phố Wall và xem xét một vài bảng tính là bạn có thể có được kỹ năng và tự tin sử dụng phương pháp này để nhận diện những cổ phiếu đang được bán với giá thấp hơn giá trị thực của nó.
Điều quan trọng cần nhấn mạnh là phân tích chiết khấu dòng tiền được sử dụng để tìm ra những cổ phiếu bị định giá thấp – chứ không phải cổ phiếu giá trị. Đây là sự khác biệt thường không được cảm nhận đầy đủ. Một cổ phiếu bị định giá thấp là một cổ phiếu có thể được mua lại với giá thấp hơn giá trị nội tại của nó. Còn một cổ phiếu giá trị chỉ đơn giản là một cổ phiếu có các hệ số giá thấp. Tuy có vô số ví dụ cho rằng cổ phiếu giá trị thường mang lại hiệu quả cao hơn cổ phiếu tăng trưởng (là những cổ phiếu có các hệ số giá cao) trong khung thời gian đầu tư dài hạn, nhưng các cổ phiếu giá trị không phải lúc nào cũng bị định giá thấp, còn cổ phiếu tăng trưởng không phải lúc nào cũng được định giá cao. Buffett dựa vào phân tích chiết khấu dòng tiền để nhận diện những cổ phiếu bị định giá thấp. Tốt nhất hãy mua những cổ phiếu đang được bán với giá thấp hơn giá trị thực của chúng. Tuy nhiên, cũng có vướng mắc trong cách tư duy này. Khi bạn kết luận một cổ phiếu bị định giá thấp, bạn đang giả định rằng bạn đúng theo phân tích của bạn, còn tất cả những người khác trên thị trường là sai. Suy cho cùng, nếu mọi người đều đồng ý rằng cổ phiếu đó thực sự bị định giá thấp thì họ hẳn đã bắt đầu mua và đẩy giá nó lên cao từ lâu.
Điều này đưa chúng ta đến một vấn đề quan trọng khác. Tuy Buffett đồng ý với giới học thuật về giá trị lý thuyết của việc phân tích chiết khấu dòng tiền, ông vẫn bất đồng với họ ở một số điểm khác. Ví dụ, nhiều học giả (và một số lượng lớn những người thực hành) tin rằng thị trường có tính hiệu quả, nghĩa là giá cả cổ phiếu phản ánh chính xác giá trị thực của chúng. Do đó, họ không tin ai đó có thể thường xuyên thu được kết quả tốt hơn chỉ số của thị trường trong thời gian dài bằng cách lựa chọn cổ phiếu để mua vào. Tuy họ thừa nhận các nhà đầu tư siêu hạng như Buffett thực tế có tồn tại, nhưng họ sẵn sàng loại bỏ điều này bằng cách xem đó là những trường hợp ngoại lệ. Tuy nhiên, Buffett không sử dụng lý thuyết quản lý danh mục hiện đại và giả thuyết thị trường hiệu quả. Ông cho rằng có quá nhiều cái gọi là "ngoại lệ" trên thị trường, nên nhà đầu tư thông minh cần xem xét lại hiệu lực của lý thuyết quản lý danh mục hiện đại. Buffett tin rằng các nhà đầu tư thông minh biết nghiên cứu, chỉ mua những cổ phiếu bị định giá thấp và nắm giữ trong dài hạn để có thể nhận được những kết quả vượt trội so với mức trung bình của thị trường. Tuy các nhà đầu tư thần tượng hóa Buffett và xem ông như một bằng chứng cho thấy thị trường không hiệu quả, bản thân Buffett lại thích trích dẫn Walter Schloss, một bậc thầy về đầu tư thường xuyên vượt trội thị trường trong sự nghiệp đầu tư hơn 47 năm của mình.
Đa dạng hóa là một khái niệm được giới học thuật ưa thích. Tuy nhiên, thông điệp của Buffett về vấn đề này có phần pha trộn. Giới học thuật nói rằng mọi người nên nắm giữ một danh mục đầu tư đa dạng hóa rộng. Họ thường khuyến nghị đầu tư vào các quỹ tương hỗ hoặc quỹ chứng khoán tổng hợp hoạt động theo những chỉ số có nền tảng rộng. Theo giới học thuật, đa dạng hóa sẽ đảm bảo cho nhà đầu tư nhận được thu nhập cao nhất cho bất cứ mức độ rủi ro nào. Tuy nhiên, đa dạng hóa lại kìm hãm nhà đầu tư với tỷ suất thu nhập trung bình của thị trường. Những người nắm giữ một danh mục đầu tư đa dạng hóa rộng không có nhiều hy vọng vượt trội so với thị trường.
Cho đến khá gần đây, danh mục đầu tư của Berkshire vẫn rất tập trung. Hiện nay Berkshire đang sở hữu hơn 70 công ty con, hàng tá mã cổ phiếu của các công ty đại chúng và đủ loại chứng khoán có thu nhập cố định. Berkshire đã trở nên đa dạng hóa hơn lúc nào khác trong lịch sử của mình. Berkshire tăng trưởng quá nhanh và có quá nhiều tiền để đầu tư nên không thể không đa dạng hóa được. Tuy nhiên, công ty vẫn chưa đa dạng hóa đến mức lý thuyết tài chính yêu cầu. Dưới sự lãnh đạo của Buffett, Berkshire đã chuyển hóa từ vị thế cực kỳ tập trung sang đa dạng hóa sâu rộng hơn. Buffett cũng khuyến nghị đa dạng hóa nhiều hơn đối với những người khác. Ông nói rằng đại đa số các nhà đầu tư bình thường nên đa dạng hóa rộng. Tuy nhiên, ông cũng lý luận rằng chỉ cần khoảng 5-6 mã cổ phiếu trong danh mục cũng mang lại mức độ đa dạng hóa đầy đủ cho những nhà đầu tư biết mình đang làm gì và thực sự hiểu cách đánh giá doanh nghiệp.
Xin nhắc lại, có ba điều có thể nói một cách chắc chắn về Buffett là (1) ông có sự khao khát kinh doanh trong ngành bảo hiểm, (2) ông đặc biệt nhấn mạnh đến chất lượng của bộ máy quản lý, và (3) ông thích mua công ty hoặc cổ phiếu với giá thấp hơn giá trị nội tại của nó theo mô hình chiết khấu dòng tiền.
Chúng ta cũng đã học được một số điều hữu ích khác. Ví dụ, nghiên cứu học thuật cho thấy cổ phiếu giá trị sẽ vượt trội cổ phiếu tăng trưởng trong dài hạn, nhưng cổ phiếu tăng trưởng lại có hiệu quả tốt hơn đối với các nhà đầu tư ngắn hạn. Chúng ta biết rằng những cổ phiếu có giá trị vốn hóa thị trường nhỏ sẽ có hiệu quả cao hơn những cổ phiếu có giá trị vốn hóa lớn trong dài hạn. Ngoài ra, đầu tư theo đà tăng trưởng thực sự có tác dụng. Cụ thể, những cổ phiếu có đà tăng trưởng giá và thu nhập mạnh mẽ thường có kết quả tốt hơn những cổ phiếu khác trong thời gian đầu tư từ 6-8 tháng. Mặc dù nhiều nhà đầu tư không thích các chiến lược đầu tư dựa vào đà tăng trưởng nhưng các nghiên cứu cho thấy đầu tư theo đà tăng trưởng là cách đầu tư chính đáng và mang lại lợi nhuận tốt.
Tuy nhiên, đầu tư theo đà tăng trưởng không phải dành cho tất cả mọi người. Dù không giống như việc mua bán cổ phiếu hàng ngày, nhưng đầu tư theo đà tăng trưởng đòi hỏi sự luân chuyển vốn nhiều hơn đáng kể so với chiến lược mua và nắm giữ đơn thuần. Kết quả là các nhà đầu tư theo đà tăng trưởng phải gánh chịu chi phí giao dịch lớn hơn các nhà đầu tư giá trị dài hạn. Tuy nhiên, chi phí giao dịch hiện này có thể giảm xuống mức tối thiểu nhờ tiện ích giao dịch qua mạng của các công ty chứng khoán. Nhưng phí môi giới giao dịch không phải là loại chi phí duy nhất cần phải lo lắng. Thuế là một yếu tố khác nữa. Các nhà đầu tư mua và nắm giữ không cần phải chú ý nhiều đến việc nộp thuế. Xét cho cùng, nếu bạn không bán đi thì bạn không hiện thực hóa lợi nhuận. Nếu bạn không hiện thực hóa lợi nhuận, bạn chẳng phải lo lắng gì về việc nộp thuế cho những khoản thu nhập ấy. Tuy nhiên, các nhà đầu tư tăng trưởng thường hiện thực hóa lợi nhuận của mình thường xuyên. Sở thuế không thích các nhà đầu tư mua và nắm giữ, nhưng họ rất "yêu mến" các nhà đầu tư theo đà tăng trưởng.
Chúng ta cũng biết rằng Warren Buffett vận dụng một số chiến lược mà hầu hết những nhà đầu tư bình thường không có đủ điều kiện để áp dụng. Ví dụ, thay mặt Berkshire, ông thường mua lại toàn bộ một công ty nào đó. Thậm chí khi ông chỉ mua lại một số cổ phiếu của một công ty niêm yết, cuối cùng Berkshire vẫn trở thành một trong những cổ đông lớn nhất. Thực tế, ông đã ngồi trong hội đồng quản trị của ít nhất là 20 công ty. Có lúc, ông còn đảm nhận vị trí giám đốc điều hành của Salomon Inc. Dù không thích, nhưng ông phải tính đến việc thay thế các nhà quản lý kém cỏi. Trong bất cứ trường hợp nào, có thể nói một cách công bằng rằng Buffett là người mua lại doanh nghiệp chứ không phải là người mua cổ phiếu. Tuy nhiên, mua cổ phiếu lại là điều phổ biến nhất mà hầu hết các nhà đầu tư bình thường có thể làm được. Đó là do họ không thể có được một vị thế đủ lớn trong bất cứ một công ty nào để vận dụng sức mạnh của sự ảnh hưởng mà Buffett thường có. Nói một cách đơn giản, nhà đầu tư bình thường không thể làm những việc đã giúp Berkshire và Buffett thành công đến thế.
Đầu tư tư nhân vào cổ phần đại chúng (PIPE - Private Investments in Public Equity) cũng là một ví dụ hoàn hảo khác cho thấy những gì Buffett có thể làm được nhưng các nhà đầu tư bình thường lại không thể. PIPE cho phép Berkshire chiếm lấy những vị thế lớn trong các công ty niêm yết trên một nền tảng thuận lợi. Những công ty niêm yết đôi khi sử dụng công cụ PIPE để giành quyền tiếp cận những lượng vốn lớn một cách nhanh chóng mà không cần phải đăng ký với Ủy ban Chứng khoán. Sử dụng PIPE, họ cũng có thể giảm thiểu phí bảo lãnh. Công cụ PIPE thường bắt đầu bằng một loại chứng khoán có thể chuyển đổi và thanh toán cho người mua một dòng tiền lãi hoặc cổ tức. Tuy nhiên, vào một thời điểm nào đó trong tương lai, chứng khoán này có thể được chuyển đổi thành cổ phiếu phổ thông, mang lại cho nhà đầu tư quyền lợi lớn trên vốn chủ sở hữu trong công ty phát hành. Nếu được cơ cấu hợp lý và phát hành hoàn chỉnh, không có gì phải giấu giếm về công cụ PIPE. Tuy nhiên, chúng cũng là một ví dụ khác cho thấy cách Berkshire và Buffett đôi khi có thể triển khai những chiến lược đầu tư mà một nhà đầu tư bình thường không thể vận dụng được. Nếu bạn nhận thấy ý tưởng đầu tư thông qua công cụ PIPE thú vị, hãy xem xét mua cổ phiếu của Berkshire hoặc đầu tư vào một hedge fund thường khai thác chiến lược này.
Có lẽ, một số độc giả cảm thấy ngạc nhiên khi đọc thấy trong quyển sách này rằng không phải tất cả những khoản đầu tư của Buffett đều mang lại cho ông thành công to lớn. Trên thực tế, chúng ta cũng đã xem qua một vài hạng mục đầu tư "có vấn đề" của Berkshire. Tuy nhiên, điều thú vị là Buffett có tài năng thiên bẩm đáng kinh ngạc trong việc biến những thương vụ rắc rối thành những kết quả có lợi. Điều đó thường phải đòi hỏi sự kiên nhẫn rất lớn. Ví dụ, Berkshire đã mua lại cả General Re và NetJets năm 1998, nhưng mãi đến năm 2006 hai công ty này mới bắt đầu có lợi nhuận. Ngay sau khi mua lại General Re, Buffett đã gặp đủ thứ rắc rối, bao gồm cả những thông lệ bất thường trong kế toán, những hợp đồng bảo hiểm được định giá quá thấp, và những khoản lỗ khá lớn liên quan đến chứng khoán phái sinh. NetJets cũng gánh chịu những khoản chi phí khổng lồ khi cố gắng thâm nhập thị trường châu Âu. Sau khi bắt đầu trụ được ở châu Âu, hoạt động kinh doanh của nó tại Mỹ lại trở nên khó khăn. Tuy nhiên, Buffett chưa bao giờ đầu hàng ở những công ty này. Ông tin tưởng rằng cuối cùng chúng cũng sẽ thành công và đóng góp những khoản lợi nhuận lớn vào tỷ suất lợi nhuận chung của Berkshire. Trọng tâm dài hạn cho phép ông gắn bó với những công ty này dù trong thời khó khăn hay thuận lợi. Điểm cần lưu ý là việc đầu tư dài hạn đôi khi đòi hỏi phải có sự kiên nhẫn rất lớn. Nếu bạn không có lý do gì để tin rằng công ty sẽ xuống dốc, và miễn là bộ máy quản lý có đủ năng lực, bạn chỉ cần "ngồi yên và chờ đợi".
Chúng ta cũng biết về tầm quan trọng của hoạt động quản trị doanh nghiệp tốt và kế hoạch kế nhiệm tại Berkshire. Berkshire có quá khứ không tốt ở những mặt này trong nhiều năm, nhưng hầu hết các nhà đầu tư đều không quan tâm. Xét cho cùng, nhà đầu tư thường không phàn nàn gì về hoạt động quản trị doanh nghiệp và vấn đề kế thừa khi cổ phiếu đang hoạt động tốt. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nhiều nhà đầu tư đã phải nếm mùi khi nhận ra những điều này có ý nghĩa quan trọng như thế nào. Những thất bại ở Tyco, Enron, WorldCom, Adelphia và hơn mười công ty nổi tiếng khác đã xảy ra phần lớn vì thông lệ quản trị doanh nghiệp yếu kém.
Warren Buffett là một giám đốc điều hành xuất sắc. Ông cũng là một trong số những giám đốc điều hành có đạo đức nhất trong giới kinh doanh. Không may là không phải tất cả các công ty đều may mắn khi có một người như Buffett dẫn dắt. Thậm chí có tốt như Buffett đi nữa thì ông cũng không phải là người bất tử. Một ngày nào đó, Buffett sẽ không còn có thể dẫn dắt Berkshire được nữa. Đây chính là lý do Berkshire phải coi trọng hoạt động quản trị doanh nghiệp và kế hoạch kế nhiệm. Cổ đông cần có một hội đồng quản trị đủ mạnh để giữ cho giám đốc điều hành không đi quá quyền hạn. Họ cũng phải cảm thấy an toàn khi biết rằng luôn có kế hoạch dự phòng để Berkshire tiếp tục hoạt động tốt nếu có điều không hay xảy ra cho Buffett. Nhờ vào các quy định mới của Sàn Chứng khoán New York, các công ty niêm yết không thể nào ngoảnh mặt làm ngơ trước những vấn đề này. Nhưng một số công ty thực hiện tốt hơn những công ty khác. Hơn nữa, nhiều công ty có cổ phiếu được giao dịch ở sàn không chính thức (OTC) lại không mấy quan tâm đến hoạt động quản trị doanh nghiệp và sự kế thừa. Các nhà đầu tư dài hạn đã có một bài học đắt giá trong những năm gần đây khi một số công ty nổi tiếng đổ vỡ, một phần do các thông lệ quản trị doanh nghiệp yếu kém. Trước khi đặt tiền của mình vào bất cứ công ty nào, hãy đảm bảo rằng nó được quản trị tốt.
Quyền mua cổ phiếu ưu đãi cũng thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư trong những năm gần đây. Trái với luồng thông tin phổ biến, Buffett không phản đối việc sử dụng quyền mua ưu đãi. Thực ra, ông tin rằng quyền mua ưu đãi là một công cụ hữu ích để thưởng công cho các nhà điều hành doanh nghiệp. Thậm chí ông còn dự đoán người kế nhiệm ông ở Berkshire sẽ nhận phần lớn bổng lộc của mình từ quyền mua ưu đãi. Tuy nhiên, Buffett phản đối mạnh mẽ việc lạm dụng quyền mua ưu đãi. Ông nghĩ rằng các giám đốc cần phải cố gắng cơ cấu quyền mua ưu đãi theo cách có thể tưởng thưởng thực sự cho những nhà quản lý có đóng góp giá trị gia tăng và không chỉ xuất hiện trong thời kỳ thị trường tăng trưởng. Ông tin quyền mua cổ phiếu ưu đãi không phải là thứ miễn phí. Buffett là một trong những người lớn tiếng ủng hộ yêu cầu phải ghi nhận chi phí cho các quyền mua ưu đãi trong các thuyết minh thu nhập doanh nghiệp khi chúng được cấp đi. Nhưng thực tế là thực sự chưa phát sinh khoản chi phí nào cho một quyền mua ưu đãi cho đến khi nó được hiện thực hóa. Kế toán thuế công nhận sự thật đơn giản này, nhưng kế toán tài chính lại không. Kết quả là, vì những mục đích của kế toán tài chính, quyền mua ưu đãi được định giá khi chúng được cấp và được ghi nhận chi phí khi chúng được hiện thực hóa. Nhưng vì mục đích của kế toán thuế, quyền mua ưu đãi chỉ được ghi nhận chi phí khi chúng được sử dụng. Ghi nhận chi phí cho quyền mua ưu đãi trước khi chúng được hiện thực hóa cũng sai lầm như việc hoàn toàn không ghi nhận chúng. Hơn nữa, những cách thức xử lý kế toán và thuế khác nhau sẽ làm cho các nhà đầu tư thêm bối rối. Trong bất cứ tình huống nào, nhà đầu tư nên cẩn thận với việc đầu tư vào một công ty nếu chi phí quyền mua ưu đãi trong quý tăng lên nhiều hơn mức vài xu một cổ phiếu.
Một số độc giả có thể cảm thấy ngạc nhiên khi biết rằng Buffett phản đối mạnh mẽ thế nào đối với những nỗ lực cắt giảm thuế. Ví dụ, Buffett ủng hộ thuế tài sản. Ông tin rằng mọi người chỉ nên kiếm tiền để sở hữu cho riêng mình, và từ lâu ông đã thể hiện quan điểm rõ ràng: những người thừa kế của ông chỉ có thể hy vọng nhận được rất ít tài sản thừa kế từ ông. Những người như Buffett sợ rằng nếu thiếu các sắc thuế cao đánh vào tài sản, các cá nhân đã tích lũy được lượng tài sản khổng lồ sẽ chỉ chuyển giao tài sản của mình cho người thừa kế của họ, tạo ra những thế hệ con cái kém cỏi và hư hỏng, không đóng góp hay mang lại lợi ích gì cho xã hội cả. Nhưng sự thật là những người phải đối mặt với các loại thuế tài sản quá lớn có thể sẽ lên kế hoạch trước và chuyển gánh nặng này bằng cách mua bảo hiểm thuế tài sản (có lẽ từ một trong những công ty của Berkshire) hoặc khai thác những lỗ hổng về thuế, lỗ hổng lớn nhất cho phép người giàu hiến tặng tài sản của mình cho một tổ chức trước khi qua đời. Quả thực, đây chính là điều mà Buffett đang làm. Tuy ông đáng được khen ngợi vì tính hào phóng phi thường của mình, nhưng quyết định cho đi tiền bạc của mình đã đẩy tài sản của ông khỏi bàn tay của chính phủ.
Buffett cũng ủng hộ đánh thuế cao hơn vào thu nhập từ đầu tư. Ông đã chủ động đề nghị chống lại những nỗ lực nhằm giảm thuế cá nhân đánh vào cổ tức, mặc dù cổ tức được trả cho cổ đông chỉ sau khi công ty đã thanh toán hết các khoản thuế liên quan. Nói cách khác, tình trạng này dẫn đến việc đánh thuế hai lần. Tuy vậy, Buffett tin rằng cắt giảm thuế thu nhập từ đầu tư sẽ chỉ mang lại lợi ích cho những người giàu có. Thực tế cho thấy thuế suất thấp hơn sẽ mang lại lợi ích cho tất cả mọi người bằng cách kích thích tăng trưởng kinh tế và gia tăng thu nhập từ thuế của chính phủ liên bang. Tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ hơn đồng nghĩa với việc tạo ra nhiều cơ hội việc làm tốt hơn cho tất cả mọi người trong xã hội. Đánh thuế vào các hạng mục đầu tư với thuế suất cao hơn có lẽ sẽ gây hại hơn là có lợi. Khi các chính trị gia bắt đầu bàn về việc tăng thuế đánh vào người giàu, thì đó cũng thường là thời điểm tốt để rút tiền ra khỏi thị trường. Khi họ bắt đầu nói đến việc giảm thuế suất, bạn nên xem xét mua thêm cổ phiếu.
Cuối cùng, Buffett muốn nhìn thấy các tập đoàn chấm dứt việc cung cấp thông tin thu nhập mang tính định hướng. Ông tin rằng việc cung cấp thông tin định hướng sẽ khuyến khích tư duy ngắn hạn về phía các nhà đầu tư và nhà quản lý công ty. Buffett không phải là người duy nhất cảm nhận theo hướng này. Một số nhà bình luận và tổ chức đã áp dụng thông lệ này. Tuy nhiên, việc tin rằng thông tin định hướng chịu trách nhiệm cho tư duy ngắn hạn là một nhận thức sai lầm. Không ai tranh cãi việc điều hành một tập đoàn với tầm nhìn dài hạn không phải là một phương pháp ưu việt, nhưng sẽ sai lầm khi tin rằng thông tin định hướng tạo nên tư duy ngắn hạn. Chắc chắn nhà đầu tư tập trung vào các số liệu thu nhập hàng quý, nhưng không phải là do các tập đoàn cung cấp thông tin định hướng. Nhà đầu tư chú ý đến kết quả kinh doanh hàng quý chỉ vì một lý do
- Ủy ban Chứng khoán yêu cầu các tập đoàn phải báo cáo kết quả hàng quý. Chính yêu cầu này của Ủy ban Chứng khoán đã làm cho nhà đầu tư tạo ra kỳ vọng hàng quý cho mình. Nếu Ủy ban Chứng khoán yêu cầu các công ty báo cáo kết quả hàng tháng thì nhà đầu tư cũng sẽ có kỳ vọng hàng tháng. Điều này không hề liên quan gì đến thông tin định hướng cả. Việc loại bỏ thông tin định hướng sẽ không chấm dứt được việc các nhà đầu tư tự hình thành kỳ vọng cho chính mình.
Hơn nữa, thông tin định hướng cung cấp những thông tin quý giá. Có ít nhất hai cuộc nghiên cứu chứng minh rằng ước tính thu nhập sẽ trở nên thiếu chính xác khi thông tin định hướng không được cung cấp. Trong một kỷ nguyên mà các cơ quan quản lý nhà nước đang ra sức thúc đẩy sự minh bạch trong công bố thông tin, thì việc khuyến khích các công ty ngừng cung cấp thông tin định hướng quả không phải là một ý kiến hay.
Có một số công ty chưa bao giờ cung cấp thông tin định hướng. Điều này không có nghĩa là nhà đầu tư nên tránh mua cổ phiếu của họ. Berkshire Hathaway chưa bao giờ cung cấp thông tin, nhưng họ tỏ ra là một trong những hạng mục đầu tư dài hạn tốt nhất trên thị trường. Tuy nhiên, cần phải "tuýt còi" những công ty trước kia có cung cấp thông tin định hướng bỗng nhiên quyết định chấm dứt thông lệ này.
Hàng năm tạp chí Forbes đều công bố danh sách xếp hạng các tỷ phú trên khắp thế giới. Chỉ một vài người leo được lên bậc thang cao nhất trong danh sách danh giá này bằng cách đầu tư. Hầu hết họ, như Bill Gates - sáng lập viên của tập đoàn Microsoft, đều kiếm được gia tài khổng lồ chỉ từ một công ty. Trái lại, Warren Buffett là một nhà đầu tư thực sự. Mặc dù tài sản của ông cũng bắt nguồn từ chỉ một công ty, nhưng công ty đó, Berkshire Hathaway, lại rất độc đáo. Berkshire thực sự là một công ty đầu tư. Buffett xây dựng Berkshire bằng cách tái đầu tư các dòng tiền từ lĩnh vực bảo hiểm sang các doanh nghiệp khác. Ông cũng đã giàu lên trong quá trình này. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn là ông đã làm cho các cổ đông của mình thịnh vượng trông thấy. Có lẽ không có cá nhân nào khác có thể tạo ra nhiều triệu phú như ông. Dựa trên bằng chứng này, hẳn là sẽ công bằng khi kết luận rằng Warren Buffett là một trong những nhà đầu tư vĩ đại nhất – nếu không muốn nói là nhà đầu tư vĩ đại nhất – của mọi thời đại.