Biểu tượng (symbol trong tiếng Anh) là một từ bắt nguồn từ ngôn ngữ cổ ở châu Âu (symbolus trong tiếng La Mã và symbolon trong tiếng Hy Lạp). Theo Từ điển biểu tượng (Dictionary of Symbols) của Liungman thì “những gì được gọi là biểu tượng khi nó được một nhóm người đồng ý rằng nó có nhiều hơn một ý nghĩa là đại diện cho chính bản thân nó.” Hầu hết các bộ từ điển trên thế giới đều có một điểm chung khi định nghĩa về biểu tượng là một đối tượng đại diện cho một đối tượng khác (something stands for something else). Trong tiếng Việt, biểu tượng là một từ dùng khá phức tạp: Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học do GS. Hoàng Phê chủ biên1, biểu tượng có hai nghĩa: Nghĩa thứ nhất là “hình ảnh tượng trưng,” nghĩa thứ hai là “hình thức của nhận thức, cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong đầu óc khi tác động của sự vật vào giác quan ta đã chấm dứt.”
1 Chúng tôi chọn định nghĩa về biểu tượng trong bộ từ điển này vì độ chính xác cao và diễn giải cô đọng nhất. Xem: Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng-Trung tâm từ điển học Hà Nội, 1998.
Như vậy có thể coi biểu tượng là những hình ảnh tượng trưng do con người tạo ra, tồn tại trong đời sống của con người và có tác động đến đời sống văn hóa của con người. Việc nghiên cứu các biểu tượng đã được con người tìm hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau thông qua triết học, văn học, lịch sử, tôn giáo… Tuy nhiên, thuật ngữ biểu tượng học (symbology) chưa thực sự phổ biến đối với đa số các nhà nghiên cứu, kể cả các nhà nghiên cứu ở các trung tâm khoa học lớn của phương Tây.1 Bằng chứng là một trong những nghĩa chính của symbology được nhiều bộ từ điển nhắc đến nhất là “nghệ thuật biểu hiện bằng các biểu tượng” (The art of expressing by symbols). Trong khi hai nghĩa khác của symbology là biểu tượng học và hệ thống các biểu tượng thì rất ít được nhắc tới.
Vậy khoa học nghiên cứu biểu tượng là gì? nghiên cứu biểu tượng nhằm mục đích gì?... đó là những câu hỏi cần được đặt ra trong bối cảnh khoa học nghiên cứu về biểu tượng hiện nay chưa có một hệ thống lý thuyết có thể bao quát mọi vấn đề.2 Do vậy, các nghiên cứu về biểu tượng thường xuyên xảy ra những tranh luận, chẳng hạn như biểu tượng chữ vạn trong Phật giáo và biểu tượng trong lá cờ của Đức quốc xã có gì khác biệt? Việc lựa chọn hoa sen làm quốc hoa của Việt Nam (trong khi nó đã là quốc hoa của Ấn Độ) liệu có thể chấp nhận được hay không? Nếu có, nó cần đặt trên những tiêu chí gì?... Việc lựa chọn, lý giải các biểu tượng đôi khi tạo ra những tranh cãi gay gắt (vì ai cũng có thể, và ai cũng có quyền, đưa ra những cách giải thích về biểu tượng theo ý kiến riêng của họ). Để tránh những tranh cãi đó cần phải có tiêu chí khoa học, mà tiêu chí khoa học thì cần phải căn cứ trên cơ sở khoa học và hệ thống lý thuyết... Trên thực tế, nghiên cứu biểu tượng là một loại hình công việc mang tính học thuật đã được thực hiện từ lâu trong lịch sử văn minh của nhân loại ở nhiều ngành nghề khác nhau trên nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau. Mục tiêu mà nghiên cứu biểu tượng hướng đến là giải mã ý nghĩa của các biểu tượng, hay nói cách khác, đó là công việc tìm hiểu quá trình biểu tượng hoá các sự vật và hiện tượng trong văn hoá và trong xã hội của loài người. Hai hướng tiếp cận nghiên cứu biểu tượng phổ biến hiện nay là từ cơ sở văn bản (text) và từ thực tại xã hội (social fact – chữ dùng của Emile Durkheim).3
1 Thuật ngữ symbology được Robert Heinlein sử dụng từ năm 1940 trong cuốn Blowups Happen, trong mối liên kết khái niệm giữa toán học và tâm lý học hành vi. Nó được Victor Turner sử dụng như một thuật ngữ chuyên ngành nghiên cứu biểu tượng là biểu tượng học so sánh (comparative symbology) trong một nghiên cứu được công bố năm 1974 trên Rice University Studies có tên: Liminal to liminoid in play, flow, and ritual: An essay in comparative symbology 60(3):53-92 (xem trong Thư lục tài liệu tham khảo).
2 Thậm chí, một cuốn sách chuyên về lý thuyết biểu tượng có tên gọi “Lý thuyết biểu tượng” của Tzvetan Todorov cũng chỉ chủ yếu đề cập đến nghiên cứu biểu tượng dưới góc độ ngôn ngữ và văn chương mà chưa đề cập đến các sự vật và hiện tượng trong xã hội.
3 Theo quan điểm xã hội học của Durkheim, thực tại xã hội (social facts) là mọi sự vật, hiện tượng được sản sinh trong đời sống văn hoá của con người như các giá trị, các chuẩn mực văn hóa, các cấu trúc xã hội,... tác động lên cá nhân tạo nên các mối liên kết xã hội. Quan điểm này của Durkheim là một khái niệm rất rộng trong các nghiên cứu về xã hội, theo ông nguyên tắc đầu tiên và căn bản là coi thực tại xã hội như những sự vật (things). Một số học giả ở Việt Nam sử dụng thuật ngữ này là sự kiện, xem thêm: Các quy tắc của phương pháp xã hội học qua bản dịch của Đinh Hồng Phúc trong thư mục.
Trên thực tế, “biểu tượng hóa là một hiện tượng phổ biến trong tiến trình phát triển của loài người” nên “chúng ta vẫn cần hiểu nhiều hơn nữa về nó, đặc biệt nhìn nhận nó theo khía cạnh so sánh trong các xã hội khác nhau, các tầng lớp khác nhau, các tôn giáo khác nhau”(Raymond Firth, 1955). Trong công trình nghiên cứu về biểu tượng học so sánh (comperative symbology) xuất bản năm 1974, Turner giải nghĩa thuật ngữ biểu tượng học (symbology) là nghiên cứu và diễn giải về các biểu tượng (the study or interpretation of symbols) còn thuật ngữ so sánh ở đây được coi như một phương pháp.1
1 Tương tự như văn học so sánh (comperative literature), ngôn ngữ học so sánh (comparative linguistics),...
Theo Turner, biểu tượng học so sánh có góc nhìn hẹp hơn ký hiệu học (semiotics/semiology) đã được dùng bởi Ferdinand de Saussure và Roland Barthes và rộng hơn nhân học biểu tượng(symbolic anthropology) về tầm mức và phạm vi dữ kiện cũng như các vấn đề nghiên cứu. Trong khi ký hiệu học nghiên cứu loại hình ngôn ngữ của các ký hiệu bằng cách giải cấu trúc (deconstruction) các ký hiệu và biểu tượng trong các mối quan hệ cấu trúc (Turner 1974, tr. 53-54). Mặc dù vậy, biểu tượng học, cho đến nay, vẫn còn là một thuật ngữ được sử dụng tương đối hẹp, kể cả một số trung tâm khoa học lớn của thế giới. Chẳng hạn, năm 2009, sau khi tác giả Dan Brown cho ra đời cuốn sách “The lost symbol” (Biểu tượng đã mất) sau thành công vang dội của “The Davinci code” (Mật mã Davinci), tại Đại học Harvard, Hoa Kỳ đã diễn ra một cuộc tranh luận là có nên thành lập Khoa Biểu tượng học (Department of Symbology) không? Câu trả lời cuối cùng của bộ phận quản trị là không, bởi vì tại Đại học Harvard đã có các phân ngành liên quan như “religious iconography” (nghiên cứu thánh tượng tôn giáo) “cryptography” (mật mã học) và lịch sử nghệ thuật.2
2 Xem thêm bài trên The New Yorker (Tạp chí Người New York) ngày 15/9/2009.
Do biểu tượng học (symbology - thuật ngữ của Turner) chưa được sử dụng một cách rộng rãi trong giới học thuật của thế giới nên chúng tôi chủ trương dùng nghiên cứu biểu tượng như một cụm thuật ngữ đề cập đến công việc nghiên cứu các biểu tượng ở góc độ rộng, tương tự như việc sử dụng nghiên cứu văn hoá (cultural studies) thay cho văn hoá học (culturology) của các học giả Mỹ và phương Tây (trừ Leslie White). Trong chuyên khảo này, chúng tôi sẽ tuyển chọn một số quan điểm tiêu biểu về nghiên cứu biểu tượng của các nhà khoa học danh tiếng từ các lĩnh vực khác nhau, với nhiều góc nhìn khác nhau có chung mối quan tâm đối với khoa học nghiên cứu về biểu tượng như: Ferdinand de Saussure, Charles Sanders Pierce, Claude Levi-Strauss, David Schneider, Clifford Geertz, Victor Turner, Fran Boas, Bronilaw Malinowski, Mary Douglas, Terence Hawkes, Raymond Firth, Michel Foucault, Roman Jacobson, Umberto Eco, Roland Barthes, Tzvetan Todorov, Alfred Gell,...
Các hướng tiếp cận của các nhà khoa học nói trên được soi chiếu từ nhiều góc độ nghiên cứu khác nhau như ngôn ngữ học, ký hiệu học, nghệ thuật học, xã hội học, nhân học, văn học,... Đây có thể được coi là nền tảng lý thuyết căn bản để chúng ta có thể tiếp cận một đối tượng nghiên cứu hết sức rộng lớn và phức tạp nhưng vô cùng thú vị đó là các biểu tượng. Hy vọng, tập hợp các quan điểm này sẽ mang đến một cái nhìn khái quát nhất về một bộ môn khoa học có tên gọi nghiên cứu biểu tượng. Một số tác giả khác cũng có các đóng góp quan trọng trong việc thiết lập nền tảng đối với nghiên cứu biểu tượng như Max Weber, Taccot Parsons, Marcel Mauss, Pierre Bourdieu,… Tuy nhiên trên thực tế, họ là những nhà lý thuyết có tầm bao quát rộng hơn về triết học, xã hội học,... trong khi nghiên cứu biểu tượng chỉ là một phần trong hệ thống lý thuyết rộng lớn đó. Vì vậy, chúng tôi sẽ chỉ giới thiệu về các tác giả này một cách gián tiếp trong chuyên khảo này.
Cấu trúc luận với nghiên cứu biểu tượng
Trên thực tế, đã có nhiều hệ thống lý thuyết và phương pháp luận có liên quan đến nghiên cứu biểu tượng trên thế giới ra đời trên cơ sở lý thuyết nghiên cứu của các chuyên ngành như triết học, văn học, nhân học, ngôn ngữ học, đặc biệt là ký hiệu học. Một trong những lý thuyết có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất, được coi như một “cuộc cách mạng” về lý thuyết trong khoa học xã hội thế kỷ XX là cấu trúc luận (structuralism). Trong thế kỷ XX, cấu trúc luận đã được sử dụng làm một trong những lý thuyết nền tảng của nhiều chuyên ngành khác nhau trong khoa học xã hội như nhân học cấu trúc (structural anthropology), ngôn ngữ học cấu trúc (structural linguistics), ký hiệu học văn hoá (cutural semiology),v.v... Cấu trúc luận được sáng lập bởi nhà ngôn ngữ học Thuỵ Sỹ - Ferdinand de Saussure cách đây gần một thế kỷ.1 Ban đầu cấu trúc luận chỉ sử dụng trong phạm vi của ngôn ngữ học, nhưng với sự phát triển nhanh chóng của ký hiệu học, cấu trúc luận đã mở rộng tầm ảnh hưởng của nó đến nhiều ngành khoa học xã hội khác trở thành một trong những lý thuyết quan trọng nhất đối với khoa học xã hội và nhân văn trong thế kỷ XX.
1 Ferdinand de Saussure được coi như “cha đẻ”của cấu trúc luận trong ngôn ngữ học trên cơ sở của ký hiệu học ngôn ngữ, tuy nhiên, ý tưởng về ký hiệu học đã được nhà triết học người Anh là John Locke đưa ra từ thế kỷ XVII. Và ở bên kia bờ Đại Tây Dương, nhà logic toán học triết học người Mỹ Charles Sander Peirce cũng đã thiết lập nên một hệ thống lý thuyết ký hiệu học được sử dụng rộng hơn trong khoa học liên ngành. Mặc dù Charles Sander Peirce hơn Ferdinad de Saussure 18 tuổi nhưng họ được coi như những nhà khoa học cùng thời. Khi nói đến ký hiệu học thì cả Saussure và Peirce đều được xem như những nhà sáng lập.
Ngay tại thời điểm đưa ra những nguyên lý căn bản của cấu trúc luận, Ferdinand de Saussure đã tiên đoán được tầm ảnh hưởng của nó sẽ vượt ra ngoài phạm vi của ngôn ngữ học với một nhận định như sau: “Một ngành khoa học nghiên cứu về sự tồn tại của các ký hiệu trong đời sống xã hội là hoàn toàn phù hợp, khoa học này sẽ là một phần của tâm lý học xã hội và do đó cũng là một phần của tâm lý học nói chung; tôi sẽ gọi nó là ký hiệu học - semiology (trong tiếng Hy Lạp semeion có nghĩa là “ký hiệu”). Ký hiệu học sẽ nghiên cứu về những yếu tố cấu thành của ký hiệu, những quy luật chi phối chúng. Khi ngành khoa học này chưa ra đời, không một ai có thể nói nó thực sự là cái gì; nhưng nó có quyền được tồn tại, tại một nơi đã được chọn trước. Ngôn ngữ học cũng chỉ là một phần trong khoa học về ký hiệu học nói chung; những quy luật được khám phá trong ký hiệu học sẽ được ứng dụng vào ngôn ngữ học, và sau cùng nó sẽ giới hạn rạch ròi tại một khu vực trong tổng thể các lĩnh vực của nhân học” (Saussure 1915, tr.16).
Tới nay, gần 100 năm sau ngày ông qua đời (1913), cấu trúc luận theo quan điểm của Ferdinand de Saussure vẫn được các nhà khoa học nối tiếp nhau mở rộng và đào sâu thêm các khái niệm chỉ từ một mô hình cấu trúc ban đầu vô cùng đơn giản:
Ký hiệu (Sign) = | Cái biểu đạt (Signifier) |
Cái được biểu đạt (Signified) |
Trong đó: “Ngôn ngữ là một hệ thống ký hiệu, mỗi ký hiệu ngôn ngữ có hai phần: cái biểu đạt (le signifiant) và cái được biểu đạt (le signifié).
Từ mô hình trên nhiều nhà khoa học như Romand Jakobson, Tzvetan Todorov, Roland Barthes, Louis Hjelmslev, Jacques Derrida, Claude Levi-Strauss, Michel Foucault,... đã tiếp tục phát triển cấu trúc luận dưới nhiều góc độ nghiên cứu khác nhau, cả trong cũng như ngoài ngôn ngữ học, hình thành nên một hệ thống lý thuyết về cấu trúc vô cùng phong phú dựa trên nền tảng ký hiệu học. Với góc độ tiếp cận rộng lớn như vậy, thuật ngữ ký hiệu (sign) trong ngôn ngữ học cơ bản đã phát triển thành một thuật ngữ chung được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau để chỉ một khái niệm mới rộng lớn hơn bao gồm mọi ký hiệu, dấu hiệu, tín hiệu, sự vật, hiện tượng, lời nói, cử chỉ, hành động,... có tính thông tin. Và ngôn ngữ không còn là một thuật ngữ riêng của ngôn ngữ học mà nó bao hàm mọi thành tố được con người biểu thị.
Theo Roman Jakobson, hệ thống ký hiệu này bao gồm “mọi loại thông tin được tạo bởi các ký hiệu; tương ứng với điều đó, khoa học về các ký hiệu được gọi bằng thuật ngữ ký hiệu học có quan hệ với các yếu tố nền tảng này là cơ sở cho cấu trúc của tất cả các ký hiệu bất kỳ loại nào, và với những đặc tính của chúng trong nội hàm thông tin, cũng như với những đặc trưng riêng biệt của các hệ thống ký hiệu khác nhau, và trong vô vàn loại thông tin khác nhau được sử dụng bằng các loại ký hiệu khác nhau.” (“Ngôn ngữ trong mối liên hệ tới các hệ thống giao tiếp khác” Tuyển tập Roman Jakobson, Tập II, tr.698)1.
1 Theo Terence Hawkes 1973, tr.125-126. Xem Khoa học về các ký hiệu, bản dịch của Đinh Hồng Hải trong sách này. Ở đây, chúng tôi giữ nguyên cách ghi chú thích của Terence Hawkes. Trong các chú thích khác, chngs tôi sẽ chỉ dẫn tên tác giả và năm công bố, các thông tin chi tiết có trong danh mục tài liệu tham khảo. Cách sử dụng thuật ngữ của các nhà khoa học rất khác nhau nên chúng tôi xin giữ nguyên ngôn ngữ gốc kèm theo nghĩa tiếng Việt và tiếng Anh..
Đi xa hơn, Roland Barthes đã áp dụng lý thuyết cấu trúc trong ký hiệu học để kiến giải huyền thoại bằng một sơ đồ phát triển như sau:
Nguồn: Roland Barthes (Annette Lavers chuyển ngữ).
Mythologies Straus Farrar & Giroux. 1-1, 1972, tr.115
Với sơ đồ này, Roland Barthes đã phát triển mô hình cấu trúc của ký hiệu, cái biểu đạt và cái được biểu đạt ở một mức cao hơn. Theo đó, ký hiệu được hình thành từ cái biểu đạt và cái được biểu đạt ban đầu lại kết hợp với nhau bằng mô thức của CÁI BIỂU ĐẠT và CÁI ĐƯỢC BIỂU ĐẠT cao hơn tạo nên các KÝ HIỆU1 mới. Đó cũng là mô thức mà ông dựa vào để phân tích cấu trúc của huyền thoại. Hướng tiếp cận mở rộng này cũng được Jacques Derrida, Umberto Eco, Michel Foucault và nhiều nhà khoa học khác phát triển rộng hơn trong các nghiên cứu của họ. Từ đây, quan niệm về cái biểu đạt, cái được biểu đạt và ký hiệu đã vượt ra ngoài khuôn khổ của cấu trúc luận giai đoạn đầu để hình thành nên một trào lưu mới với tên gọi giải cấu trúc hay hậu cấu trúc luận.2
1 Các chữ viết hoa ở đây là cách dùng của Roland Barthes nhằm nhấn mạnh và làm rõ hơn các khái niệm mà ông đưa ra nên chúng tôi xin được giữ nguyên.
2 Tên gọi của trường phái này cũng đang là một đề tài gây tranh luận ở Việt Nam. Xin xem thêm các nghiên cứu của Nguyễn Văn Dân, Phương Lựu và một số nhà nghiên cứu khác đã xuất bản trong thời gian qua.
Trên đây chỉ là một vài nét tóm lược (qua một số ví dụ) về việc áp dụng cấu trúc luận trong ký hiệu học ngôn ngữ, còn trên thực tế, tầm mức ảnh hưởng của nó đối với các chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn khác đã vượt xa những điều mà Ferdinand de Saussure dự đoán. “Lĩnh vực ký hiệu học rất rộng lớn, bắt đầu từ những nghiên cứu về hành vi giao tiếp của các loài động vật ( ký hiệu học động vật-zoosemiotics) tới những phân tích về các hệ thống ký hiệu biểu tượng như giao tiếp thông qua điệu bộ cơ thể con người ( kinesics và proxemics) các ký hiệu khứu giác (“sự mã hóa” của các mùi hương), lý thuyết mỹ học, và tu từ học. Hầu hết, các ranh giới của nó (nếu có) đều có sự giáp giới với những gì thuộc về cấu trúc luận: sự hấp dẫn của hai lĩnh vực này về cơ bản không tách rời nhau, và trong dài hạn, cả hai đều cần phải được đưa vào một lĩnh vực thứ ba phù hợp hơn, bao hàm nhiều lĩnh vực được gọi đơn giản là giao tiếp (communication). Trong bối cảnh đó, bản thân cấu trúc luận sẽ trở nên nổi bật như một phương pháp phân tích kết nối các lĩnh vực ngôn ngữ học, nhân học và ký hiệu học”(Terence Hawkes 1977, tr.123).
Có một điều Sausure và Peirce đã không đề cập đến một cách cụ thể trong các cuốn sách kinh điển của họ về tầm ảnh hưởng của cấu trúc luận. Nhưng nó đã vượt xa khỏi phạm vi ngôn ngữ học, nhân học và ký hiệu học để hình thành nên một nền tảng căn bản của nhiều chuyên ngành khoa học khác nhau bao gồm cả thống kê học, logic học, nghệ thuật học,... đó là vai trò của cấu trúc luận trong khoa học xã hội thông qua một đối tượng nghiên cứu hết sức đặc thù: Các biểu tượng. 1 Dưới đây chúng tôi sẽ từng bước tiếp cận nghiên cứu biểu tượng từ các chuyên ngành khoa học riêng rẽ nhưng lại có mối quan hệ khá đồng nhất trong phạm vi của cấu trúc luận.
1 Thực ra, Charles Sander Peirce đã viết gần 1000 trang bản thảo về vấn đề này vào giai đoạn cuối đời nhưng ông đã mất nên bản thảo chưa được xuất bản. Hiện nay, bản quyền về tập bản thảo này đã được Đại học Harvard, Hoa Kỳ mua lại từ gia đình ông.
Nghiên cứu biểu tượng từ góc nhìn ngôn ngữ học
Như chúng tôi đã đề cập ở mục trên, ngôn ngữ qua góc nhìn ký hiệu học hay nghiên cứu biểu tượng không còn là một “lãnh địa” riêng của ngôn ngữ học truyền thống mà nó bao hàm việc nghiên cứu mọi loại ký hiệu, tín hiệu hay biểu tượng có tính thông tin. Với câu hỏi: Chúng ta nghiên cứu biểu tượng nhằm mục đích gì? Câu trả lời đơn giản là để tìm hiểu ý nghĩa của nó. Nhưng ý nghĩa của nó như thế nào, được sử dụng ra sao lại là những vấn đề không hề đơn giản vì mỗi ký hiệu hay biểu tượng đều có ý nghĩa riêng tuỳ thuộc vào thời điểm ra đời, quá trình tồn tại và không gian văn hoá của nó, và tất nhiên, mục đích sử dụng của nó cũng thay đổi tuỳ thuộc vào các yếu tố trên. Do đó, ý nghĩa mà chúng ta tìm ra trong quá trình nghiên cứu các biểu tượng chính là loại ngôn ngữ biểu hiện của chúng. Và ngôn ngữ biểu hiện sử dụng ở đây sẽ được chúng tôi gọi là ngôn ngữ biểu tượng.
Trong cuốn sách “kinh điển” về ngôn ngữ học có tên Ngôn ngữ học Đại cương (Course in General Linguistics),1 Ferdinand de Saussure đã đặt câu hỏi: Ngôn ngữ là gì? và ông tự trả lời: Đừng nhầm lẫn đó là ngôn ngữ mà con người thường nói (langage) về một phần được xác định, hay ý nghĩ về một phần thiết yếu. Nó bao gồm một sản phẩm xã hội về khả năng nói và tập hợp những quy ước cần thiết được chấp nhận của con người trong xã hội cho phép mỗi cá nhân thực hiện các khả năng đó (Sausure 1915, tr. 9). Theo ông, ngôn ngữ (language) không giống như lời nói (speaking) mà là một cái gì đó chúng ta có thể học được một cách riêng rẽ... Trong khi lời nói là một thể không đồng nhất thì ngôn ngữ được xác định là một thể thuần nhất. Đó là một hệ thống các ký hiệu mà trong đó những gì thiết yếu kết hợp với các ý nghĩa và hình ảnh tượng thanh (sound-image)2 trên cả hai mặt ký hiệu và đặc tính tâm lý... Ông coi ngôn ngữ là một kho hình ảnh tượng thanh mà trong đó chữ viết là hình mẫu vật thể của các hình ảnh tượng thanh đó (tr.13-15). Ông cũng đặt ký hiệu học ở một vị trí quan trọng của ngôn ngữ trong thực tại đời sống xã hội của con người với một số đặc tính quan trọng như sau:
1 Charles Bally & Albert Sechehaye biên tập, Albert Riedlinger dịch, Wade Baskin giới thiệu.
2 Thuật ngữ sound-image ở đây rất khó dịch sang tiếng Việt. Nếu gọi là hình ảnh âm thanh thì độc giả dễ nhầm một hình ảnh đi kèm với âm thanh nên ở đây tôi xin được dùng là hình ảnh tượng thanh. Chẳng hạn, Ò-ó-o là hình ảnh của các con chữ nhưng lại là tượng thanh của tiếng gà gáy. Cũng có một vài cách dùng khác như hình ảnh thính giác (theo cách dùng của Trịnh Bá Đĩnh).
1) Bản chất của ký hiệu là sự tuỳ ý (arbitrary)
2) Vô số ký hiệu hình thành nên ngôn ngữ
3) Ngôn ngữ là một hệ thống hết sức phức tạp
4) Quán tính tập hợp hướng tới đổi mới (tr.72-73)
Như vậy, ngôn ngữ theo quan niệm của Sausure là một hệ thống ký hiệu đã được xã hội chấp nhận bằng các quy ước, là một tập hợp hình ảnh tượng thanh được hình thành và chọn lọc trong quá trình phát triển của lời nói. Rõ ràng, ngôn ngữ là một sản phẩm văn hoá đặc biệt của loài người. Một trong những đặc tính quan trọng nhất cấu thành ngôn ngữ chính là tính biểu tượng được thể hiện thông qua các ký hiệu.
Vậy ngôn ngữ biểu tượng là gì? Tra cứu một số bộ từ điển và bách khoa thư phổ cập trên thế giới, chúng tôi tập hợp được một số định nghĩa về thuật ngữ này như sau: Ngôn ngữ biểu tượng (symbolic language) là loại ngôn ngữ được chuyên môn hoá tuỳ thuộc vào cách chúng ta sử dụng các biểu tượng như thế nào trong giao tiếp và sáng tạo với mục đích đạt được tính chính xác cao hơn, chẳng hạn như logic biểu tượng hoặc toán học.1 Một từ điển khác định nghĩa đó là sự chuẩn hoá ngôn ngữ bằng việc sử dụng các biểu tượng với các ý nghĩa cụ thể nhằm tránh sự nhập nhằng/tối nghĩa và chưa thoả đáng của các ngôn ngữ thông thường.2 Lại có những định nghĩa hết sức đơn giản là một sự lập trình hoá ngôn ngữ ở mức độ cao. 3 Một từ điển khác cho chúng ta hai cách giải thích như sau: 1) Một sự lập trình hoá ngôn ngữ bằng việc sử dụng các biểu tượng hoặc trí nhớ để vận hành các thuật toán. Tất cả các ngôn ngữ lập trình hiện đại đều là ngôn ngữ biểu tượng; 2) Là một ngôn ngữ thao tác bằng biểu tượng hơn là các con số.4 Trên đây là những định nghĩa hết sức tóm tắt và bao gồm cả khoa học tự nhiên và khoa học máy tính nên rất khó để chúng ta xác định được một cách chính xác vai trò của ngôn ngữ biểu tượng trong phạm vi nghiên cứu biểu tượng trong khoa học xã hội. Dựa vào các từ điển trên, chúng ta có thể tóm tắt như sau: Ngôn ngữ biểu tượng là loại ngôn ngữ mang tính tượng trưng được chuyên môn hoá ở mức độ cao. Loại ngôn ngữ này sử dụng các biểu tượng và ý nghĩa của chúng để giải mã các ngôn ngữ thông thường.
1 Xem thêm: http://dictionary.reference.com/browse/symbolic+language
2 Xem thêm: http://www.businessdictionary.com/definition/symbolic-language.html
3 Xem thêm: The American Heritage Dictionary of the English Language (Từ điển di sản Anh ngữ Hoa Kỳ). Tái bản lần thứ 4, bản quyền của Houghton Mifflin Co. Cập nhật năm 2009. Do Houghton Mifflin Co. xuất bản.
4 Xem thêm: http://www.answers.com/topic/symbolic-language#ixzz21Eo0T8Wp
Như vậy, bên cạnh các loại ngôn ngữ thông thường như ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết còn có thêm một loại ngôn ngữ quan trọng khác đó là ngôn ngữ biểu tượng. Loại ngôn ngữ này có thể kết hợp với ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết nhưng cũng có thể đứng độc lập như một ngôn ngữ thứ ba. Mặc dù ít được sử dụng hơn ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết nhưng ngôn ngữ biểu tượng lại có những lợi thế đặc biệt. Trong khi ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết cho phép con người giao tiếp với nhau bằng khả năng tri nhận trực tiếp của các giác quan thì ngôn ngữ biểu tượng cho phép con người ở nhiều nền văn minh khác nhau, nhiều vùng văn hoá khác nhau, thậm chí ở nhiều thời gian và không gian khác nhau hiểu được nhau nhờ vào những đặc tính căn bản của nó là tính biểu tượng thông qua hệ thống kí hiệu và ý nghĩa biểu đạt của nó. Nhờ có ngôn ngữ biểu tượng mà con người có khả năng giao tiếp vượt thời gian và không gian để hiểu được con người sống ở các nền văn minh cách chúng ta hàng nghìn năm thông qua những di vật văn hoá mà họ để lại.
Trong xã hội hiện đại, ngôn ngữ biểu tượng giúp con người giao tiếp và hoà nhập với nhau mà không nhất thiết phải nói chung một thứ tiếng (chẳng hạn: ngôn ngữ máy tính, ngôn ngữ nghệ thuật, ngôn ngữ mật mã...). Thậm chí, ngôn ngữ biểu tượng còn cho phép con người hiểu được những ý nghĩa trái ngược với những biểu hiện bề ngoài của biểu tượng (chẳng hạn: nói vậy mà không phải vậy)!.
Có thể thấy ở đây mối quan hệ giữa các ký hiệu với văn hóa là một mối quan hệ đặc biệt: Các ký hiệu hình thành nên ngôn ngữ biểu tượng và ngôn ngữ biểu tượng lại chính là ngôn ngữ biểu đạt của các ký hiệu. Tóm lại , ngôn ngữ biểu tượng là một thành tố văn hoá do con người tạo ra để sử dụng như một loại công cụ thông tin và giao tiếp có tính tượng trưng. Chúng ra đời, tồn tại và tác động đến đời sống văn hóa của con người. Vì vậy, việc tìm hiểu ngôn ngữ biểu tượng cũng chính là tìm hiểu đời sống văn hoá và xã hội loài người thông qua các biểu tượng văn hoá do họ tạo ra. Và do vậy, nghiên cứu biểu tượng là khoa học có chức năng sử dụng ngôn ngữ biểu tượng để giải mã các thành tố văn hoá được sản sinh trong đời sống của con người.
Nghiên cứu biểu tượng từ góc nhìn ký hiệu học
Nghiên cứu ý nghĩa của các biểu tượng, hay nói cách khác là tìm hiểu ngôn ngữ biểu tượng trong đời sống văn hoá của con người, cho tới nay không còn là một công việc mới mẻ trong nền khoa học thế giới. Trong chuyên mục này, chúng tôi sẽ đưa ra một số khái niệm và mô hình mà các nhà khoa học đã thực hiện dưới góc nhìn ký hiệu học, để từ đó chúng ta có thể đi xa hơn trong việc sử dụng cấu trúc luận và ký hiệu học trong khoa học nghiên cứu biểu tượng.
Trong chú thích ở phần đầu của nghiên cứu này, chúng tôi đã đề cập đến tên tuổi của một nhà khoa học lớn cùng thời với Ferdinand de Saussure trong vai trò sáng lập chuyên ngành ký hiệu học, đó là Charles Sander Peirce. Điểm tương đồng trong lý thuyết của họ là sử dụng cấu trúc luận, còn sự khác biệt là ở phương pháp tiếp cận: Phương pháp tiếp cận của Saussure là ngôn ngữ học và với Peirce đó là logic học theo hướng tiếp cận đa ngành. Đóng góp về mặt lý thuyết của Peirce đối với khoa học (cả tự nhiên và xã hội) vô cùng lớn, nổi bật trong đó là triết học dụng hành(pragmatism),1 tương tác biểu tượng (symbolic interactionism)... Tuy nhiên, trong nội dung mục này chúng tôi chỉ đề cập đến các vấn đề có liên quan đến ký hiệu học và cấu trúc luận trong nghiên cứu biểu tượng.
1 Trào lưu lý thuyết này hình thành từ một nhóm học giả tại Đại học Harvard từ cuối thế kỷ XIX do Charles Sanders Peirce và William James đứng đầu cùng John Dewey và George Santayana. Ảnh hưởng của nó lớn tới mức đã định hình nên một lối sống Mỹ, một phong cách Mỹ và một văn hoá Mỹ không giống bất cứ một quốc gia nào trên thế giới. Một số tài liệu khác dịch thuật ngữpragmatism thành chủ nghĩa thực dụng. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy cách dùng này dễ bị hiểu theo hướng tiêu cực nên sẽ sử dụng thuật ngữ này là triết học dụng hành mà một số nhà khoa học đi trước đã sử dụng.
Mô hình cấu trúc trong lý thuyết của Peirce là một tương tác giao tiếp phi ngôn ngữ để tìm hiểu ký hiệu của các quá trình liên tưởng. Ông sử dụng thuật ngữ ký hiệu học theo quan điểm của logic học, theo đó, ký hiệu học được sắp xếp bởi một cấu trúc tam vị (triadic structure) mà qua đó các thành tố luôn có sự ảnh hưởng tương tác lẫn nhau. Từ ký hiệu này sẽ sản sinh ra ký hiệu khác thông qua việc diễn giải ký hiệu trước đó. Một ký hiệu hoặc đại diện của nó chính là “một cái gì đó đại diện cho ai đó bằng một cái gì khác trong các quan hệ hoặc khả năng nào đó... Vì vậy một ký hiệu đại diện cho một cái gì đó ( đối tượng của nó); thay thế một cái gì đó của một ai đó ( sự biểu thị của nó); và cuối cùng thay thế một cái gì đó cho một ai đó trong một vài phương diện (các phương diện này được gọi là nền móng/nền tảng). Những khía cạnh đó, sự đại diện (representamen), đối tượng (object), sự biểu thị (interpretant) và nền móng (ground) do vậy có thể được xem như để đề cập đến các ý nghĩa mà các ký hiệu đã biểu thị thông qua chúng; mối quan hệ giữa chúng quyết định nghiêm ngặt tiến trình căn bản của ký hiệu học.” (Hawkes 1977, tr. 126-127).
Xem phần diễn giải trên đây chúng ta có cảm giác là các thuật ngữ, các đối tượng, và các mối quan hệ của chúng khá phức tạp, thậm chí là rắc rối. Tuy nhiên, với mô hình dưới đây chúng ta có thể dễ dàng hình dung được các thành tố mà Peirce đã đưa ra trong lý thuyết ký hiệu học của mình. Từ mô hình đơn giản này, Peirce đã phát triển thêm nhiều mô hình khác bằng tư duy logic để giải quyết nhiều vấn đề bao gồm cả khoa học tự nhiên (như logic học, toán học, thống kê học,...) và khoa học xã hội (như triết học, xã hội học, tâm lý học,...). Tuy nhiên, ở đây chúng tôi chỉ giới thiệu một cấu trúc đơn giản nhất của ông để chứng minh cho hiệu quả của cấu trúc luận với khoa học nghiên cứu biểu tượng dưới góc nhìn ký hiệu học và sẽ không đưa thêm các ví dụ phức tạp hơn trong các nghiên cứu mà Peirce đã công bố.
Mô hình tam vị (triadic relation) của Peirce
Trở lại với mối quan hệ giữa ngôn ngữ học, ký hiệu học và nhân học như Terence Hawkes đã đặt ra ở trên. Có thể dễ dàng nhận thấy cả ba chuyên ngành này đều nằm trong một khoa học tổng thể về con người và văn hoá. Charles Sander Peirce đã từng đặt câu hỏi: “Con người là gì? con người phải chăng là một ký hiệu?” Và câu trả lời đã được một nhà ký hiệu học nổi tiếng khác người Italia là Umberto Eco trả lời: Con người là một động vật có tín ngưỡng; con người luôn mang trên mình hai tín hiệu gắn với cái xấu và cái đẹp; con người là một cỗ máy sản xuất tín hiệu khổng lồ... Bởi vậy, lý thuyết “tín hiệu vô hạn định” của Charles Sander Peirce, qua Eco đã trở thành “chuỗi tín hiệu vô hạn định, gắn chặt với bối cảnh văn hoá của đời sống xã hội loài người” (Huyền Sâm-Ngọc Anh 2009). Chuỗi tín hiệu đó được Umberto Eco mô hình hoá như sau:
(Source) Sender: (Nguồn) Người gửi thông tin
Code: Mã
Subcode: Mã nhánh
Message emitted as signifier bearing a signified:Thông tin đưa ra là cái biểu đạt chứa đựng cái được biểu đạt
Chanel: Kênh thông tin/đường dẫn
Addressee: Người nhận
Message received as signifier: Thông tin nhận được là cái biểu đạt
Message received as signified: Thông tin nhận được là cái được biểu đạt
(Nguồn: Umberto Eco, Apocalypse Postponed, 1994)
Trong mô hình cấu trúc của Eco, thông tin từ người gửi sẽ được mã hoá qua một số bước trước khi trở thành một loại thông tin mới (chúng tôi tạm gọi là thông tin cấp 2 - viết tắt là T2). T2 là cái biểu đạt nhưng chứa đựng cái được biểu đạt. T2 thông qua các kênh truyền dẫn được biến thành một loại thông tin mới khác (T3) được tiếp nhận như cái biểu đạt mới. Từ đây nó lại trải qua các bước mã hoá để đến với người nhận trong vai trò là cái được biểu đạt mới hơn. Quá trình ký hiệu được mã hoá để tạo thành thông tin như trên có thể được diễn ra nhiều lần, không có giới hạn . Có thể tóm tắt quá trình này là một sự mã hoá ký hiệu tạo thông tin với sơ đồ sau:
Ký hiệu + Mã hoá = T (Tín hiệu thông tin)
Việc ứng dụng sơ đồ này trong thực tiễn bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời sống của con người: Từ tín hiệu Morse (do Samuel F. B. Morse phát minh năm 1938) và ngôn ngữ ký hiệu dùng cho người câm điếc đến công nghệ số (digital technology) với việc mã hoá hai con số 0 và 1 thành các ký hiệu thông tin đã tạo nên một trong những cuộc cách mạng khoa học công nghệ lớn nhất trong lịch sử nhân loại với phạm vi ảnh hưởng ở mức độ toàn cầu. Đây chính là cuộc cách mạng đã đưa con người đến một thế giới hoàn toàn mới, thế giới phẳng1, một thế giới của ký hiệu số.
1 Thuật ngữ của Thomas Friedman trong cuốn sách nổi tiếng của ông: The world is Flat (Thế giới phẳng). Cuốn sách này đã được dịch bởi nhóm tác giả Nguyễn Quang A, Cao Việt Dũng, và Nguyễn Tiên Phong.
Vẫn là lý thuyết cấu trúc dựa trên cơ sở ký hiệu học nhưng cách tiếp cận của Michel Foucault lại đưa đến cho người đọc những trải nghiệm hết sức khác biệt . Trong cuốn: Sự sắp đặt của sự vật: Một nghiên cứu khảo cổ học về các khoa học nhân văn,1 Foucault đã dẫn chúng ta đi qua hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác mà nội dung của chuyên khảo này không đủ để diễn tả. Từ cách tiếp cận liên ngành rộng lớn nhưng lại hết sức chặt chẽ đến việc sử dụng các thuật ngữ hết sức độc đáo để diễn tả các vấn đề xã hội.
1 Đây là một trường hợp khá đặc biệt trong số rất ít những cuốn sách nghiên cứu được báo Le Monde bình chọn (1999) là 100 cuốn sách hay nhất thế kỷ XX. Tên sách dịch từ bản tiếng Anh: The order of Things: An archaeology of the human sciences. Bản tiếng Pháp: Les Mots et les Choses: Une archéologie des sciences humaines, được dịch là: Từ và Vật: Một khảo cổ học về các khoa học nhân văn (Cao Việt Dũng). Lý do về sự thay đổi tên gọi này đã được giải thích trong lời giới thiệu của bản tiếng Anh nên chúng tôi không nêu ở đây.
Phương pháp tiếp cập của Foucault về cơ bản vẫn là dựa trên nền tảng cấu trúc luận và cơ sở ký hiệu học nhưng các đối tượng mà ông đề cập, các phân tích, tìm tòi,... đã vượt ra ngoài phạm vi của cấu trúc luận và ký hiệu học. Chính vì lý do này mà giới khoa học đã gọi Foucault là một trong những nhà giải cấu trúc/hậu cấu trúc luận xuất sắc nhất. Dưới đây là một mô hình cấu trúc trong cuốn sách nói trên của Foucault:
General science of order: Nền tảng khoa học của sự sắp đặt
Simple natures: Các yếu tố tự nhiên căn bản
Mathesis: Thuật toán
Algebra: Biểu thức đại số
Complex representations: Tập hợp các đại diện
Taxinomia: Hình mẫu ký hiệu biểu thị
Signs: Ký hiệu
(Nguồn: Michel Foucault, The Order of Things: An archaeology of the human sciences, Routledge 2002, London & New York, tr. 80)
Ở mô hình này, các thành tố vừa có sự tương tác lẫn nhau lại vừa được phân loại một cách rõ ràng. Sự tương tác có thể nhận ra giữa các yếu tố tự nhiên căn bản và tập hợp các đại diện; giữa ngôn ngữ biểu thức đại số và ngôn ngữ ký hiệu; giữa các tiền tố và hậu tố qua các yếu tố trung gian. Còn sự phân loại ở đây có thể được nhận ra bằng một cấu trúc: Theo chiều ngang, hàng thứ nhất là các tiền tố cơ sở, hàng thứ hai là các ngôn ngữ biểu đạt/kênh thông tin..., hàng thứ ba là thông tin được đưa ra. Theo chiều dọc, chúng ta nhận thấy cột thứ nhất đề cập đến các thuật ngữ trong khoa học tự nhiên hoặc có liên quan đến tự nhiên. Cột thứ hai đề cập đến các yếu tố mang tính xã hội (ngôn ngữ, ký hiệu hay sự biểu đạt). Đây là một mô hình trọng tâm trong công trình nghiên cứu của Foucault nên nó xuyên suốt toàn bộ nội dung tác phẩm mà chúng ta có thể gọi một cách ví von cột thứ 1 và cột thứ 2 là Vật (1) và Từ (2) như tên gọi của cuốn sách (bản tiếng Pháp).
Có thể nói, ký hiệu học là bộ môn khoa học đóng vai trò nền tảng cho khoa học nghiên cứu về biểu tượng. Như Todorov đã đề cập trong cuốn Lý thuyết biểu tượng: “Nếu người ta đưa ra một từ ngữ “ký hiệu” có nghĩa chung là biểu tượng (ở trường hợp này biểu tượng trở thành một loại ký hiệu đặc biệt), ta có thể nói rằng nghiên cứu biểu tượng lệ thuộc vào lý thuyết phổ quát của các ký hiệu, hay ký hiệu học” (Todorov 1982, tr.9-10). Phương pháp tiếp cận rõ ràng, khúc chiết của ký hiệu học giúp cho các nhà khoa học có thể tránh được những “đặc tính khó lường” của biểu tượng – đó là tính trừu tượng và đa nghĩa.
Bên cạnh đó, góc độ tiếp cận rộng lớn của ký hiệu học (từ khoa học tự nhiên đến khoa học xã hội) giúp cho ký hiệu học có thể giải quyết nhiều vấn đề mà khoa học đơn ngành không thể giải quyết. Chẳng hạn, chúng ta không thể đưa các phương pháp của đại số, lượng giác, đạo hàm, ... trong toán học vào phương pháp luận nghiên cứu văn học. Nhưng chúng ta hoàn toàn có thể đưa ngôn ngữ thuật toán (như Foucault đã đưa) vào trong nội dung bản văn, hơn thế, chúng ta còn có thể sử dụng ký hiệu toán học để lập nên các mô hình cấu trúc như Peirce đã làm để giải mã các thành tố văn hoá có tính biểu tượng trong khoa học xã hội. Tuy nhiên, nếu chỉ tiếp cận nghiên cứu các biểu tượng dưới góc nhìn ký hiệu học thì chúng ta vẫn có thể gặp khó khăn khi buộc phải giải nghĩa một thành tố văn hoá trong môi trường sống của nó (nghĩa là trong thời gian và không gian của riêng nó). Vấn đề này dường như có thể được giải quyết với lợi thế của phương pháp tiếp cận nhân học.
Nghiên cứu biểu tượng từ góc nhìn nhân học
Nhân học là một chuyên ngành khoa học có góc độ tiếp cận hết sức rộng lớn, từ tự nhiên (như khảo cổ học, nhân chủng học,...) đến xã hội (như nhân học văn hoá-xã hội, nhân học chính trị, nhân học tâm lý,...), từ các vấn đề nhỏ như hành vi của con người trong xã hội đến các vấn đề lớn như quốc kế-dân sinh,... Chỉ với một đối tượng nghiên cứu như các biểu tượng, nhân học cũng đã có vô số hướng tiếp cận nghiên cứu như nhân học biểu tượng, nhân học nghệ thuật,... Trong cuốn Biểu tượng: Chung và Riêng, Raymond Firth đã phân biệt nhân học biểu tượng với khoa học nghiên cứu biểu tượng từ các chuyên ngành khác như sau:
“Một nhà nhân học có thể làm gì để không giống với những gì mà nhà logic học, nhà siêu hình học, nhà ngôn ngữ học, nhà tâm lý học, nhà thần học, nhà lịch sử nghệ thuật và những người khác nữa đã làm? Về bản chất như tôi nhận thấy, cách tiếp cận theo hướng nhân học mang tính so sánh, quan sát, chức năng luận, trung lập tương đối. Nó liên kết và giải thích về các sự kiện thông qua biểu tượng luận với các cấu trúc xã hội và các sự kiện xã hội trong những điều kiện cụ thể. Vượt qua phạm vi rộng lớn của những trường hợp cụ thể, các nhà nhân học quan sát xem những biểu tượng gì được con người sử dụng thực sự, họ nói gì về những biểu tượng ấy, trong tình huống nào những biểu tượng sẽ bộc lộ ra và sự phản ứng với chúng. Theo đó, các nhà nhân học được trang bị để giải thích ý nghĩa của các biểu tượng trong các nền văn hóa mà họ đang nghiên cứu, và sử dụng những lý giải như những phương tiện trung gian để hiểu xa hơn về các tiến trình trong đời sống xã hội” (Firth 1973, tr.25 - phần in nghiêng là do chúng tôi nhấn mạnh).
Ở chuyên mục trên, chúng ta đã được tiếp cận khoa học nghiên cứu biểu tượng từ góc nhìn ngôn ngữ học và ký hiệu học trong mối quan hệ hết sức chặt chẽ với cấu trúc luận. Trong nhân học, hướng tiếp cận cấu trúc đã được Claude Levi-Strauss sử dụng hết sức thành công trong một công trình nổi tiếng của ông: Nhân học cấu trúc. Trong công trình này “Claude Levi-Strauss cho rằngphân loại nhị nguyên (binary classification) là một điểm đặc trưng phổ quát của nhận thức con người. Các nghiên cứu của ông đối với thần thoại, nghệ thuật và hệ thống thân tộc đã khám phá ra những hình mẫu văn hoá khác nhau ở mức độ phức tạp và diện mạo bên ngoài, về bản chất, dựa vào tính đối ngẫu: tự nhiên/văn hoá, đàn ông/đàn bà, tinh khiết/không tinh khiết,v.v... Hệ thống văn hoá, dưới góc nhìn này, với những nền tảng tinh vi của nó đã khai hoá thế giới, xã hội hoá nó, đưa ra sự phân loại tuỳ theo biểu hiện của tự nhiên. Mối quan tâm của các nhà cấu trúc luận trong các hệ thống văn hoá của ý nghĩa ở những gì họ có thể bộc lộ ra và khi nào thì phân tích về tiến trình nhận thức phổ quát của con người”(Mary Des Chene 1996).1
1 Nguồn: Bách khoa thư Nhân học văn hoá (Encyclopedia of Cultural Anthropology) do David Levinson và Melvin Ember biên tập. Sách do nhà xuất bản Henry Holt & Company ấn hành tại New York năm 1996, tr.1275.
Đây chính là đóng góp quan trọng của Levi-Strauss đối với cấu trúc luận, xa hơn là với nghiên cứu biểu tượng cũng như với nghiên cứu văn hoá nói chung. Nhưng trước hết chúng ta cần xác định đối tượng và mục đích nghiên cứu của nhân học biểu tượng trong nhân học, để từ đó thấy được tầm quan trọng của nền tảng cấu trúc luận đối với nhân học biểu tượng. Theo tài liệu giảng dạy của Khoa Nhân học, Học viện Công nghệ Massachusetts-MIT ( Mã môn học: 21A.212), Nhân học biểu tượng bao gồm các lĩnh vực nghiên cứu sau:
1. Ẩn dụ và biểu hiện khác của ngôn ngữ
2. Chất liệu thô của biểu tượng luận, đặc biệt là động vật và cơ thể con người
3. Vũ trụ luận và hệ thống biểu tượng phức hợp 4. Nghi lễ, bao gồm cả điều trị và ma thuật mang tính biểu tượng
5. Miêu thuật và đời sống
6. Thần/huyền thoại học
Qua đây chúng ta có thể xác định (một cách tương đối) các đối tượng nghiên cứu của nhân học biểu tượng là: Ẩn dụ, ngôn ngữ, hệ thống biểu tượng, nghi lễ, ma thuật, biểu tượng luận, vũ trụ luận, và thần thoại. Nói một cách khái quát là các thành tố văn hoá có tính biểu tượng trong đời sống của con người.
Định nghĩa về nhân học biểu tượng theo một số bách khoa thư nhân học phổ biến như sau:
- Bách khoa thư nhân học văn hoá và xã hội (Encyclopedia of Social and Cultural Anthropology): “Nhân học biểu tượng đề cập đến văn hoá như một thực thể có tính độc lập tương đối, là một hệ thống ý nghĩa mà qua đó các nhà nhân học muốn tạo ra để giải mã và diễn dịch các biểu tượng và các nghi lễ trọng tâm” (Jonathan Spencer 1996, tr.535-539).
- Bách khoa thư nhân học văn hoá (Encyclopedia of Cultural anthropology): “Nhân học biểu tượng là khoa học nghiên cứu ý nghĩa trong đời sống xã hội loài người, bằng cách nào chúng ta tri nhận và diễn giải những gì diễn ra xung quanh và bằng cách nào chúng ta sáng tạo và sẻ chia với thế giới hoặc hệ thống ý nghĩa văn hoá. Nhân học biểu tượng tiếp cận với một góc nhìn rộng lớn về các biểu tượng, biểu tượng hoá, sự vật và ý nghĩa mà con người đặt cho với ý nghĩa, sự nhận biết, quá trình giao tiếp”(Mary Des Chene 1998, tr.1274-1278).
- Văn hoá dân gian: Bách khoa thư về các tín ngưỡng, phong tục, chuyện kể, âm nhạc và nghệ thuật (Folklore: An encyclopedia of beliefs, customs, tales, music, and art): “Nhân học biểu tượng là khoa học nghiên cứu về các biểu hiện tự nhiên của các biểu tượng được sử dụng ở các nền văn hoá khác nhau, các nghi lễ, trình diễn, và trong đời sống hàng ngày, nơi mà ý nghĩa đầy đủ có nhiều hơn các biểu hiện thành văn. Mỗi biểu tượng có hai thành phần - là những thực thể nhìn thấy và phần còn lại là ý nghĩa biểu hiện của nó. Nhân học biểu tượng diễn giải các biểu tượng trong ngữ cảnh của tiến trình xã hội và đời sống văn hoá”(Edith Turner 1997, tr.24-29).
Có thể nhận thấy đối tượng được nhắc đi nhắc lại trong các định nghĩa trên là “văn hoá và hệ thống ý nghĩa của nó,” đây là đối tượng chính của nhân học biểu tượng. Trong khi văn hoá và hệ thống ý nghĩa của nó lại là đối tượng mà các nhà kí hiệu học đã đề cập đến trước khi nhân học biểu tượng ra đời tới hơn nửa thế kỷ(!). “Điều đó cho thấy kí hiệu học và nhân học biểu tượng tuy là những lĩnh vực nghiên cứu khác nhau nhưng đều có chung một mục tiêu là nghiên cứu văn hoá và hệ thống ý nghĩa của nó thông qua ngôn ngữ biểu tượng. Đây là những phương pháp tiếp cận khác nhau (giữa kí hiệu học và nhân học biểu tượng) với những cách tiếp cận phương pháp khác nhau nhưng vẫn chỉ để giải quyết một vấn đề chung đó là nghiên cứu ý nghĩa của các biểu tượng.”1Và trên thực tế, các nhà khoa học đã có những sự khẳng định về sự kế thừa đó: “Nhân học biểu tượng tiếp quản từ cấu trúc chức năng luận một tiền đề cho rằng các hệ thống văn hoá xã hội phô bày một sự cố kết toàn bộ và một sự quan tâm đối với những ảnh hưởng của thực tại xã hội về hệ thống tín ngưỡng, đặc biệt là trong những hướng xây dựng biểu tượng trên các cơ sở lý luận văn hoá”(Lavie, 1993).2
1 Đinh Hồng Hải, Nghiên cứu văn hoá từ góc nhìn nhân học biểu tượng, Tạp chí Dân tộc học, số 5 năm 2011.
2 Nguồn: Bách khoa thư Nhân học văn hoá, Sđd, tr. 1275. Dẫn theo Mary Des Chene.
Có thể thấy, từ đối tượng nghiên cứu đến mục đích nghiên cứu của nhân học biểu tượng đều đã được đề cập tới trong cấu trúc luận của Levi-Strauss. Ở đây chỉ có sự khác biệt về phương pháp tiếp cận: Levi-Strauss tiếp cận dưới góc nhìn cấu trúc và các nhà nhân học biểu tượng (như Geertz, Turner, Schneider,...)1 tiếp cận bằng sự diễn giải. Nhưng dù tiếp cận bằng cấu trúc hay diễn giảithì mục tiêu cuối cùng cũng là để nghiên cứu văn hoá và hệ thống ý nghĩa của nó, hay nói cách khác là để giải mã các thành tố văn hoá trong đời sống của con người. Đây chính là điểm tương đồng và cũng là đặc điểm của nhân học biểu tượng cũng như các bộ môn khoa học nghiên cứu về biểu tượng như ký hiệu học hay nhân học cấu trúc. Đó có thể là lý do để nhân học biểu tượng được gọi bằng một cái tên khác là nhân học diễn giải (interpretive anthropology – theo cách dùng của Geertz). Ở đây chúng ta có thể nhận thấy sự diễn giải chính là một thành tố trọng tâm trong các mô hình cấu trúc của Roland Barthes, Charles S.Peirce, Umberto Eco, Michel Foucault,... đã sử dụng trong cấu trúc luận. Điều đó cho thấy, dù được gọi bằng một cái tên khác (nhân học biểu tượng) và được sử dụng bằng một khuynh hướng lý thuyết khác (diễn giải) để phản ứng lại lý thuyết (cấu trúc luận) của Levi-Strauss nhưng cuối cùng các nhà nhân học biểu tượng vẫn không thể bỏ qua những nền tảng mà cấu trúc luận đã tạo ra. Nói cách khác, hướng tiếp cận nhân học biểu tượng chính là “ngôi nhà” đã được xây trên nền móng của cấu trúc luận.
1 Clifford Geertz sinh năm 1923, là một trong những nhà nhân học thế hệ mở đầu của các trường phái nhân học Mỹ được đào tạo tại Đại học Harvard. Phần tổng hợp nói trên được lấy từ: Clifford Geertz, The Interpretation of Cultures. New York: Basic Books, Inc, 1973. Victor W.Turner (1920-1983) quê Glasgow, học tại London, ông thuộc thế hệ các nhà lý thuyết nhân học đầu tiên ảnh hưởng tư tưởng của Max Gluckman tại Đại học Manchester, Turner sau đó giảng dạy tại đại học Stanford, Cornell, Chicago và Virginia. Davis M. Schneider (1918 – 1995) với trường phái Chicago về nhân học biểu tượng, cũng là một nhà nhân học được đào tạo tại đại học Harvard.
Hướng tiếp cận mới trong nghiên cứu biểu tượng
Bên cạnh hướng tiếp cận nhân học biểu tượng vốn gây nhiều tranh cãi1, các nhà nhân học thế hệ sau đã có thêm nhiều tìm tòi và hướng tiếp cận mới. Một trong những hướng tiếp cận gây tiếng vang trong những năm đầu thế kỷ XXI mà chúng tôi muốn giới thiệu trong chuyên khảo này là của Alfred Gell.2 Mặc dù không đề cập một cách trực tiếp đến đối tượng nghiên cứu là các biểu tượng nhưng dựa trên nền tảng lý thuyết ký hiệu học, Gell đã xây dựng nên một hướng đi mới, thậm chí là một phân ngành mới trong nhân học đó là nhân học nghệ thuật. Bằng việc tìm hiểu hệ thống kỹ thuật từ kỹ thuật chế tác đến kỹ thuật mê hoặc trong quá trình phát triển văn minh của nhân loại, Gell đã tìm ra mối quan hệ đặc biệt quan trọng giữa kỹ thuật và ma thuật. Mà theo ông, ma thuật là, hay đã từng là một yếu tố trong mỗi kỹ thuật đã nêu ở trên nhưng điểm khác biệt là ma thuật có tính biểu tượng, và “ma thuật với tư cách là một phần phụ thêm vào quá trình kỹ thuật, tiếp tục tồn tại bởi vì nó như là những mục đích mang tính ‘biểu tượng’... Suy nghĩ mang tính ma thuật hình thành và mã hoá các yếu tố cấu trúc của hoạt động kỹ thuật, áp đặt vào nó một bộ khung tổ chức điều chỉnh mỗi giai đoạn tiếp nối trong một quá trình phức tạp” (Gell, 1988). Đây chính là điểm khác biệt lớn nhất giữa Gell và các nhà nhân học biểu tượng như Turner, Geertz, Schneider,... trong các công trình nghiên cứu nhân học biểu tượng. Các nhà nhân học biểu tượng nói trên đã tiếp cận các biểu tượng bằng việc diễn giải chúng, trong khi Gell tiếp cận các biểu tượng bằng một cái nhìn hệ thống xuyên thời gian và không gian, từ yếu tố kỹ thuật đến ma thuật. Ông cho rằng, ma thuật “tạo ra một tiêu chuẩn lý tưởng, không phải để đạt được trong hiện thực, mà hướng tới những hành động kỹ thuật mang tính thực hành nhưng có thể định hướng được”(Gell, 1988).
1 Có khá nhiều bài viết tranh luận về vai trò cũng như giới hạn của nhân học biểu tượng, ở thư mục tài liệu tham khảo chúng tôi xin giới thiệu một bài viết khá kỹ lưỡng của Mathieu Deflem năm 1991: “Ritual, Anti-Structure, and Religion: A Discussion of Victor Turner’s Processual Symbolic Analysis.” Journal for the Scientific Study of Religion 30(1):1-25.
2 Alfred (Antony Francis) Gell sinh ngày 12/6/1945 mất ngày 28/1/1997 là nhà nhân học xã hội Anh có ảnh hưởng lớn đối với nhân học nghệ thuật, ngôn ngữ, biểu tượng và nghi lễ. Ông là học trò của Edmund Leach khi theo học chương trình MPhil (Thạc sĩ bậc cao - ở Việt Nam không có chương trình này) tại Đại học Cambridge và Raymond Firth chính là người hướng dẫn luận án tiến sĩ của ông tại trường Kinh tế Luân Đôn (London School of Economics). Alfred Gell trở thành giảng viên của trường này cho đến khi ông qua đời. Góc nhìn mới của Gell đã được chúng tôi giới thiệu trên tạp chí Tia Sáng số 13, ra ngày 5/7/2012, tr. 48-52.
Góc nhìn này của Gell dường như có thể khai thông được sự bế tắc mà các nhà nhân học biểu tượng đã vấp phải khi họ dễ bị “cuốn” theo việc diễn giải các biểu tượng, các hành vi biểu tượng và các hệ thống biểu tượng. Việc diễn giải các biểu tượng dù là diễn ngôn của nhà khoa học hay “nhìn qua vai” của chủ thể (như Geertz đã thực hiện), thậm chí là triệt để tôn trọng chủ thể (thông qua phỏng vấn trực tiếp hay quan sát tham dự) vẫn có thể dẫn dắt chúng ta lạc vào “rừng biểu tượng” (thuật ngữ của Turner). Căn nguyên của tình trạng này chính là do đặc tính đa nghĩa và trừu tượng của biểu tượng. Sự bế tắc đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến thoái trào của nhân học biểu tượng vào cuối thập kỷ 80 tới đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX.
Theo cách nhìn của Gell, nhà khoa học không nên quá lệ thuộc vào việc diễn giải ý nghĩa các biểu tượng, đặc biệt là đối với ma thuật. Bởi một khi yếu tố kỹ thuật mang tính biểu tượng biến thành ma thuật thì mục tiêu căn bản của nó vẫn chỉ là để phục vụ ý tưởng của chủ thể tạo ra nó. Nếu nhà khoa học bị “cuốn” theo những ý tưởng đó thì vô hình trung họ lại bị ma thuật chinh phục, và khi đó, tính khách quan của khoa học sẽ không còn. Thuật ngữ ‘ma thuật’ trong cách dùng của Gell không chỉ là các vật biểu tượng, hành vi biểu tượng, nghi lễ biểu tượng,... được tạo bởi chủ thể như các vị thầy cúng mà các nhà nhân học biểu tượng trước ông đã nghiên cứu mà còn là mọi loại kỹ thuật mang tính biểu tượng được tạo ra để phục vụ cho chủ thể của nó. Theo ông: “Những nhà tuyên truyền, những người chụp ảnh và những nhà lý luận về nền văn minh kỹ thuật là những người tạo nên ma thuật, và nếu họ không cho đó là thế lực siêu nhiên thì chỉ vì bản thân kỹ thuật đã trở nên mạnh đến mức họ không phải làm điều đó. Và nếu chúng ta không còn thừa nhận ma thuật một cách rộng rãi nữa thì đó là vì kỹ thuật và ma thuật, với chúng ta là một và như nhau” (Gell, 1988).
Mặc dù nhân học nghệ thuật của Alfred Gell mới chỉ ra đời hơn một thập niên tính từ thời điểm Nghệ thuật & tác lực 1 được xuất bản tới nay, nhưng hướng tiếp cận này của ông ngay lập tức nhận được nhiều sự quan tâm của giới nhân học nói riêng và các nhà nghiên cứu biểu tượng cũng như nghiên cứu nghệ thuật. Vậy nhân học nghệ thuật là gì? Gell định nghĩa: Nhân học nghệ thuật là nghiên cứu mang tính lý thuyết về các mối quan hệ xã hội diễn ra quanh các hiện vật (Gell, 1998. tr.7). Nhưng như thế nào là ‘mối quan hệ xã hội’ theo quan niệm của Gell? Trong Nghệ thuật & tác lực, ông đã chỉ ra tám loại quan hệ dạng này, khởi đầu bằng chỉ báo (index) một thuật ngữ được Charles Sanders Peirce sử dụng trong lý thuyết Ký hiệu học từ những năm đầu thế kỷ XX. Dường như Gell đã có ý chọn lý thuyết ký hiệu học để tạo nền tảng cho nhân học nghệ thuật của mình, nếu quả như vậy, đó sẽ là một hướng đi khôn ngoan sau giai đoạn thoái trào của nhân học biểu tượng. Các mối quan hệ xã hội tiếp theo mà ông đã chọn bao gồm: Quy gán(abduction, có dịch giả sử dụng là quy kết), tác nhân xã hội (social agent), loại suy nghịch biện (paradox elimination), tác nhân và đối tượng (agents and patients), nghệ sĩ (artist), người thưởng thức/thụ hưởng (recipient), và cuối cùng là nguyên mẫu (prototype). Tất cả các mối quan hệ xã hội này đều diễn ra quanh các hiện vật/chủ thể (objects).
1 Kỹ thuật & ma thuật (Technology and Magic) và Nghệ thuật & tác lực: Một lý thuyết nhân học (Art and Agency: An Anthropological Theory) là tên hai tác phẩm của Gell mà chúng tôi chọn giới thiệu trong chuyên khảo này. Kỹ thuật, ma thuật, nghệ thuật, tác lực lại cũng là các thuật ngữ trọng tâm mà Gell đã sử dụng xuyên suốt các tác phẩm của ông. Vì vậy, để phân biệt tên các công trình nghiên cứu của ông với các thuật ngữ mà ông sử dụng, tôi xin được dùng ký hiệu “& ” thay cho chữ “và” khi đề cập đến các tác phẩm của ông. Cũng xin được gọi tắt tên tác phẩm thứ hai được đề cập ở đây là Nghệ thuật & tác lực để đối sánh với Kỹ thuật & ma thuật trong tác phẩm thứ nhất.
Xuyên suốt lý thuyết nhân học nghệ thuật được đề cập trong Nghệ thuật & tác lực là hai thuật ngữ chỉ báo (index) và quan hệ nghệ thuật (art nexus). Gell đã dành trọn chương 3 để tìm hiểu các mối liên hệ giữa hai khái niệm này với các cặp phạm trù giữa: tác nhân với đối tượng; chỉ báo với nghệ sĩ; chỉ báo với người thưởng thức; chỉ báo với nguyên mẫu; nghệ sĩ với chỉ báo; người thưởng thức với chỉ báo; nguyên mẫu với chỉ báo. Thông qua các mối liên hệ này ông cho rằng các thành tố trọng tâm của chỉ báo chính là tính logic của tiền tố và hậu tố giữa tác nhân và đối tượng (agent and patient). Trong ba chương tiếp theo của cuốn sách (4,5 và 6), Gell tiếp tục đề cập đến sự kết nối phức tạp giữa chỉ báo với các mối quan hệ nghệ thuật, bản chất của chỉ báo và các vấn đề của chỉ báo (Gell, 1998. tr.51-94). Ông cho rằng đã có sự gắn kết trật tự đối với mối quan hệ đặc biệt của cặp phạm trù tác nhân và đối tượng. Theo đó, Một cặp phạm trù tác nhân và đối tượng này sẽ là tiền đề để nó hình thành một cặp mới mà cặp cũ sẽ là tác nhân của cặp phạm trù mới. Sự thay thế đó được ông mô hình hoá như sau:
Sự bao hàm của chỉ báo
Hình 4.3/1. Tính đa tầng của tác lực trong chỉ báo.
(Nguồn: Alfred Gell (1998), Nghệ thuật & tác lực: Một lý thuyết nhân học)
Tác động thay thế của chúng diễn ra giống như trong mô hình cái biểu đạt và cái được biểu đạt tạo ra cái biểu đạt mới hơn mà Roland Barthes và Umberto Eco đã sử dụng. Chính vì lý do này mà chúng tôi cho rằng, Gell đã ứng dụng nền tảng lý thuyết ký hiệu học trong việc mô hình hoá sự bao hàm (involution) của các cặp phạm trù tác nhân và đối tượng. Ở đây, Gell đã sử dụng nền tảng ký hiệu học một cách hết sức hợp lý nhằm xây dựng hệ thống ký hiệu riêng của mình để sử dụng trong nhân học nghệ thuật. Từ những phân tích như vậy, Gell đã đi đến kết luận là khởi nguồn của chỉ báo là tác lực (agency) và sự quyến rũ (captivation). Chính những thành tố căn bản này đã tạo nên ngôn ngữ biểu tượng và giá trị nghệ thuật của các tác phẩm nghệ thuật. Từ góc nhìn xuyên suốt từ kỹ thuật và ma thuật đến nghệ thuật và tác lực của Alfred Gell trên cơ sở cấu trúc luận và nền tảng ký hiệu học, chúng ta có thể tiếp cận các thành tố văn hoá (ở đây là các yếu tố nghệ thuật) một cách cơ bản nhất. Góc nhìn này không chỉ giúp chúng ta xác định những biểu hiện của các ký hiệu biểu tượng (thông qua chỉ báo của nó) mà còn có thể “đọc” được ý nghĩa của các biểu tượng đó (thông qua tác lực của nó). Hơn thế, chúng ta còn có thể tìm hiểu được các tác nhân xã hội tác động đến các biểu tượng, vấn đề này sẽ được chúng tôi đề cập đến trong một chuyên khảo riêng trong tương lai.