• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Ngôi nhà tranh
  3. Trang 4

  • Trước
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • Sau

Chương mộtHạc Trọc

(1)

Lạc trọc và Tang Tang là đôi bạn cùng lớp, từ lớp Một cho đến lớp Sáu. Hạc trọc tên thật là Lục Hạc. Nhưng vì nó mang một quả đầu trọc đúng nghĩa, nên những đứa trẻ ở Du Ma Địa đều gọi nó là Hạc trọc. Ngôi làng mà Hạc trọc sinh sống là một nơi trồng đầy cây phong. Cứ mỗi sau mùa thu, từng cây phong một sẽ lần lượt chuyển sang màu đỏ, vô cùng đẹp mắt. Trong ngôi làng này, có rất nhiều đứa đầu trọc. Chúng bưng quả đầu bóng loáng, nối đuôi nhau đi ngang qua bên dưới những lá phong, bao giờ cũng vậy, cảnh tượng này luôn thu hút những giáo viên của trường tiểu học Du Ma Địa, buộc họ phải dừng bước dõi theo.

Dưới bóng cây phong, những quả đầu ấy sáng lên một màu đỏ hồng. Ở những đoạn đường cành lá chi chít, thì khi thỉnh thoảng có vài khe hở nhỏ, ánh nắng lại biến thành từng luồng chớp nhoáng, hệt như những mảnh gốm giữa bãi cát. Tốp giáo viên hoặc thọc tay vào túi hoặc khoanh tay trước ngực ấy, đứng ngắm một lúc thì đồng loạt bật cười, cũng chẳng hiểu là những nụ cười ấy có ý nghĩa gì.

Hạc trọc đã bắt gặp rất nhiều lần cảnh tượng này rồi.

Thế nhưng trong ký ức của Tang Tang, thì mãi cho đến năm lớp Ba, Hạc trọc cũng dường như không hề mảy may để ý đến việc mình bị trọc đầu. Có lẽ vì ngôi làng mà nó sống không thiếu người đầu trọc, hoặc cũng có thể vì khi ấy Hạc trọc còn quá nhỏ, nó chưa ý thức được rằng mình đáng lẽ phải để tâm việc mình là một thằng trọc đầu. Hạc trọc vẫn sống rất vui vẻ. Khi có người gọi nó “Hạc trọc”, nó sẽ tươi cười đáp lại, tựa như nó vốn dĩ là mang tên Hạc trọc chứ không phải Lục Hạc vậy.

Cái “trọc” của Hạc trọc là vô cùng chính thống. Chiếc cổ dài vừa đủ chống đỡ một quả đầu trần trụi bóng lưỡng. Quả đầu này tuyệt đối không có một tì vết nào, khắp đầu lại rất mực trơn tru nữa. Dưới ánh mặt trời, quả đầu ấy sáng như được đánh bóng, khiến những người bạn học đều bất giác suy nghĩ, về đêm chắc là nó cũng sẽ sáng như thế. Cũng chính vì mức độ trọc quá đỗi ấy mà bọn trẻ thường xuyên bị mất hồn vì nhìn nó, trong lòng còn nảy ý muốn bôi ít nước bọt lên đó. Và sự thật là, đầu của Hạc trọc thường xuyên bị người ta sờ.

Về sau, Hạc trọc phát hiện các bạn thích sờ đầu của nó, thế là dần xem trọng quả đầu của mình, không để mặc cho ai muốn sờ thì sờ nữa. Nếu có ai lén lút sờ đầu mình, nó sẽ lập tức quay lại phán đoán, nếu người đó là một tên nhỏ con hơn, nó sẽ rượt theo tên đó cho đến khi bắt sống và cho một cú đấm; ngược lại nếu là kẻ mạnh hơn, nó sẽ mắng người đó một tiếng rồi thôi. Đối với những ai muốn sờ cho bằng được thì cũng được thôi, điều kiện là phải cho Hạc trọc một món gì đó: một viên kẹo chẳng hạn, hoặc cũng có thể là cho nó mượn cục tẩy và bút chì để dùng nửa ngày. Tang Tang từng dùng một cây thước đã gãy để đổi lấy hai lần sờ đầu. Lúc ấy, Hạc trọc đã rất ngoan ngoãn mà cúi đầu xuống, dừng ở trước mặt Tang Tang. Tang Tang đặt tay sờ lên đó, Hạc trọc sẽ nói: “Một lần rồi nhé…” Tang Tang cảm thấy đầu của Hạc trọc láng thật, không khác gì những viên sỏi đã bị nước sông bào mòn qua vô số năm tháng.

Năm Hạc trọc lên lớp Ba, trong một lần vô cùng ngẫu nhiên, hình như đó là một buổi sớm, nó đột nhiên để tâm quả đầu trọc của mình. Giờ đây đã không còn ai được sờ lên đầu của Hạc trọc nữa. Ai đụng tới là nó sẽ cự, sẽ liều mạng với người đó. Ai gọi nó là “Hạc trọc”, nó sẽ không đáp lại. Đồng thời, cũng không ai có thể dùng bất kỳ vật nào đổi lấy một lần sờ đầu.

Đinh Tứ – gã mổ heo ở Du Ma Địa thấy Hạc trọc thèm thuồng trước bàn bày thịt heo của ông bèn cầm dao lên lạng một thớ thịt độ hai cân, dùng mũi dao khoét một cái lỗ rồi xỏ dây qua đó, giơ cao đung đưa trước mặt Hạc trọc mà nói: “Cho ông sờ đầu mày một cái, miếng thịt này sẽ là của mày.” Vừa dứt lời đã giơ bàn tay dính đầy dầu mỡ ra. Hạc trọc nói: “Đưa thịt cho con trước đi.” Đinh Tứ nói: “Cho ông mày sờ trước thì mới được lấy thịt.” Hạc trọc nói: “Không, phải đưa thịt trước.” Chờ khi người đang đứng tán dóc ở ngoài cửa đến gần, Đinh Tứ mới đưa thịt cho Hạc trọc. Hạc trọc nhìn thớ thịt ấy - Quả đúng là ngon! Nhưng ngay sau đó, nó đã dùng hết sức vứt miếng thịt ra khỏi cửa, miếng thịt rơi xuống đất bám đầy cát bụi, còn nó thì vắt chân lên cổ mà bỏ chạy. Đinh Tứ xách con dao mổ heo lên rượt theo. Hạc trọc chạy được một đoạn thì dừng lại. Nó nhặt một tảng đá lên rồi quay lại nghiến răng ken két nhìn lão Đinh Tứ đang cầm con dao sắc bén. Không ngờ Đinh Tứ lại không dám tiến thêm bước nào nữa, con dao trên tay chém bừa hai cái trong không khí, quẳng lại ba chữ “Thằng đầu trọc” rồi bỏ về.

Hạc trọc không còn vui vẻ nữa.

Hôm ấy trời mưa to, Hạc trọc đến trường mà không mang theo ô. Tuy đang mưa, nhưng bầu trời lại không hề tối. Vậy nên dưới màn mưa màu bạc, đầu của Hạc trọc càng thêm sáng chói. Chỉ Nguyệt và Hương Xuân đang che cùng một chiếc ô màu đỏ vội lách vào vệ đường, nhường cho Hạc trọc đi trước. Hạc trọc cảm nhận được dưới chiếc ô màu đỏ kia, cặp mắt của hai cô gái đang theo dõi quả đầu của mình. Nó đi ngang qua họ, sau đó thình lình quay đầu lại, cảnh tượng xuất hiện trước mặt nó chính là hai cô gái đang dùng tay bụm miệng lại, hòng ghìm lại tiếng cười. Hạc trọc cúi đầu đi thẳng vào trường. Nhưng nó không vào lớp, mà đi vào rừng trúc ở ven sông.

Mưa xào xạc rơi trên lá trúc, tiếp đó lại luồn qua những khe hở, nhiễu xuống đầu của nó. Nó giơ tay sờ lên đầu, nét mặt ủ rũ đưa mắt nhìn ra dòng sông. Trên đó, vài ba con vịt có bộ lông ấm áp đang nô đùa dưới mưa, trông có vẻ rất thích chí. Hạc trọc nhặt một mảnh ngói lên vứt ra sông, vịt con hoảng hồn thi nhau quạt cánh bơi ra xa. Hạc trọc vẫn không thỏa mãn, vứt tiếp sáu bảy mảnh ngói nữa, mãi đến khi “vũ khí” này không còn bắt nạt được những con vịt ấy nữa nó mới chịu bỏ cuộc.

Nó bắt đầu thấy lạnh rồi, song vẫn chờ cho đến khi tiết một kết thúc, nó mới run rẩy đi về lớp học.

Buổi tối về nhà, nó nói với cha: “Con không đi học nữa.” “Có người ức hiếp con à?”

“Không ai ức hiếp con.” “Thế sao lại không đi học?” “Con không muốn đi học nữa.”

“Hỗn láo!” Người cha đánh một cái lên đầu của Hạc trọc. Hạc trọc ngước mắt nhìn cha mình, cúi đầu bật khóc.

Ông Lục thoáng chốc như hiểu ra gì đó. Ông quay người đi đến một chiếc ghế, nơi mà ánh đèn không thể rọi đến, ngay sau đó, quả đầu của Hạc trọc đã phản chiếu ra làn khói thuốc lúc sáng lúc tối của cha.

Hôm sau, ông Lục không ép Hạc trọc đến trường. Trái lại ông đi ra thị trấn mua về vài cân gừng: Có người chỉ ông một phương pháp cổ truyền, rằng dùng gừng xát lên da đầu bốn mươi chín ngày thì tóc sẽ mọc ra. Ông mang chuyện này nói với Hạc trọc, thế là Hạc trọc ngoan ngoãn ngồi yên trên ghế, im lặng chờ cha cắt gừng rồi chà xát lên đầu mình. Người cha làm rất chuyên chú, trông như một thợ đánh bóng lư đồng đang cố gắng đánh bóng món đồ của mình để dành ấn tượng tốt với khách hàng. Chẳng bao lâu thì da đầu của Hạc trọc đã cảm nhận được một cơn rát bỏng. Nhưng nó vẫn ngồi yên bất động, mặc cho cha không ngừng bôi gừng lên đó. Khi Tang Tang gặp lại Hạc trọc thì Hạc trọc vẫn là một thằng đầu chùa, chỉ là trên quả đầu ấy bắt đầu có màu đỏ của máu, nhìn như vừa mới uống rượu vậy.

Cũng không biết là Chỉ Nguyệt hay Hương Xuân đã nói nhỏ: “Trong lớp có mùi gừng sống,” ngay khi Hạc trọc vừa bước vào lớp học.

Lúc ấy học sinh đã đến đông đủ, mọi người nghe vậy thì liền cùng nhau hít hít thật sâu, lớp học bỗng dưng phát ra tiếng “hít hà”. Tiếp đó, tất cả đồng loạt nói quả đúng là có mùi gừng sống. Thế là lại quay sang ngửi nhau, kết quả là dường như trên người ai cũng có mùi gừng, nhưng lại hình như không ai có mùi gừng.

Hạc trọc ngồi yên một chỗ không nhúc nhích. Khi nó cảm nhận được sắp có một hoặc vài cái mũi đánh hơi đến chỗ của nó, ngửi đầu của nó thì nó liền nói “Tớ đi vệ sinh,” cơ thể rất là phối hợp làm ra dáng vẻ không nhịn được nữa. Nó chạy ra sông, bốc một nắm sình lầy chà lên đầu rồi ngâm đầu xuống nước rửa sạch. Cứ thế lặp lại vài lần, đến khi nó cho rằng mùi gừng đã được rửa sạch rồi thì mới đi về phòng học.

Bốn mươi chín ngày trôi qua, đầu của Hạc trọc vẫn không có động tĩnh gì.

Mùa hè đã đến, trong lúc tất cả mọi người đều nghĩ cách trút bỏ gì đó trên người hay trên đầu đi thì người ở Du Ma Địa phát hiện, quả đầu của Hạc trọc bất ngờ có thêm một chiếc mũ mỏng, đó là chiếc mũ mà cha nó đã cố tình từ thị trấn mua về.

(2)

Tang Tang là con trai của hiệu trưởng Tang Kiều. Nhà của Tang Tang ở ngay trong khuôn viên trường tiểu học Du Ma Địa, đó là một ngôi nhà tranh.

Trường tiểu học Du Ma Địa là một khu nhà tranh cùng kiểu. Mười mấy ngôi nhà tranh liên hợp với nhau theo một cách nào đó, như có quy tắc, lại như không có. Chúng được dùng làm phòng học, phòng làm việc, ký túc xá giáo viên, phòng hoạt động, nhà kho. Ở phía trước hoặc phía sau, hay ở giữa những ngôi nhà tranh này, luôn được điểm tô thêm gì đó, hoặc là một vài cành trúc, hoặc là vài ba đóa tường vi, không thì sẽ là một mảng chuối hoa đủ sắc đủ màu, một mảng cỏ hoa hỗn hợp. Những sắp đặt này không phải do cố ý được làm thế, mà phảng phất như ngôi trường này vốn dĩ là như vậy, nó vốn dĩ là phải như vậy. Những ngôi nhà tranh này không cao, nhưng mái nhà rất to, bên trong rất rộng. Những ngôi nhà tranh này trên thực tế rất quý giá. Nó không phải được làm từ rơm rạ thông thường, mà xây lên từ loại mao thảo được vận chuyển từ bãi biển cách nơi này 150 ki-lô-mét. Loại mao thảo ấy mọc chi chít trên bãi biển, mỗi phút mỗi giây đều hứng chịu gió biển và ánh nắng mặt trời, mỗi một cọng cỏ đều vô cùng dai dẻo, dưới ánh nắng, nó phát ra tia sáng lấp lánh như tơ đồng, gió biển lướt qua, nó lại phát ra âm thanh như kim loại. Dùng loại cỏ này để dựng nhà là rất chắc chắn và đảm bảo. Người dân ở đây, gia cảnh khá giả đều dùng tiền xây loại nhà như thế.

Mà khu nhà tranh của trường tiểu học Du Ma Địa thì càng đặc biệt, chất liệu cỏ dùng ở đó được lựa chọn kỹ lưỡng và nghiêm ngặt, hơn bất kỳ ngôi nhà nào của vùng này, mái nhà rất dày, bởi thế khi ở trong căn nhà tranh của trường tiểu học Du Ma Địa, mùa đông sẽ rất ấm, mùa hè lại rất mát mẻ. Những ngôi nhà liền kề nhau dưới bầu trời của mảnh đất nông thôn bình lặng này, mang một cảm giác cổ điển và chất phác, song khi mặt trời rọi xuống ngay trên đỉnh đầu, chóp mái nhà lại lấp lánh một màu vàng quý phái.

Tang Tang thích những ngôi nhà tranh này, không chỉ vì nó là học sinh ở đây, còn vì nhà của nó cũng là một ngôi nhà tranh.

Ở những ngôi nhà tranh này, mặt trước mặt sau và thậm chí là bốn phương tám hướng, Tang Tang đều dùng cách của mình nói lên một điều, rằng “Tôi chính là Tang Tang”.

Tang Tang chính là Tang Tang, nó không giống những đứa trẻ khác, không phải vì nó là con trai của thầy hiệu trưởng, mà chỉ vì, Tang Tang là Tang Tang.

Những suy nghĩ lạ kỳ hay những hành động quái gở nằm ngoài dự đoán của người khác, ở Tang Tang mà nói là một lẽ bình thường. Tang Tang thấy mình có một chỗ ở tốt, nhưng bồ câu của nó thì không – bồ câu của nó có rất nhiều mà có con vẫn phải ngủ trong hốc tường hoặc còn trong trứng ấp, nó đã nảy sinh lòng thương hại như thế đấy, do đó, nó quyết tâm cải thiện chỗ ở cho bồ câu.

Hôm đó, ba mẹ đều không ở nhà, nó gọi A Thứ và Chu Tiểu Cổ phụ giúp nó mang hết chén đĩa, tất tần tật những thứ trong tủ bếp ra xếp ở góc tường, sau đó khiêng tủ chén ra ngoài, bắt tay làm chiếc lồng bồ câu cao cấp theo tưởng tượng của nó, A Thứ và Chu Tiểu Cổ bèn cầm cưa cầm búa lên bắt đầu cuộc cải tạo.

Bốn cái chân tủ không cần thiết, nên cưa nó đi. Cửa kính không cần thiết, đập nó đi. Chiếc tủ ấy vốn có bốn tầng, mỗi tầng đều to rộng một cách vô nghĩa. Thế là Tang Tang bảo A Thứ lẻn vào nhà trộm vài tấm ván đến đây, ngăn mỗi một tầng thành ba ô. Tang Tang ngẫm trong đầu, mỗi tầng có ba hộ “gia đình”, vậy bốn tầng là hết mười hai hộ “gia đình” có chỗ nương thân rồi, nghĩ thế, nó thấy mình đã làm một việc rất vĩ đại cho bồ câu, trong lòng cảm giác mình thật cao thượng, nó bị cảm động bởi chính nó rồi.

Khi hoàng hôn buông xuống, ánh nắng cuối ngày nhuộm đỏ ngôi nhà tranh thì chuồng bồ câu này đã được treo vững vàng trên tường sau bao nỗ lực của nó và hai đứa bạn.

Buổi tối, mẹ về nhìn thấy chiếc tủ chén tàn phế được treo ngang nhiên trên vách tường phía tây, trở thành nhà mới của bọn bồ câu thì lập tức lôi Tang Tang vào nhà, đóng cửa lại đánh một trận đã đời. Nhưng Tang Tang lại không nhớ đời, chỉ độ mười mấy ngày sau thì bệnh cũ của nó lại tái phát. Hôm đó, nó chơi ở bờ sông, trông thấy thuyền cá giăng lưới trên sông, mỗi lần kéo lưới đều vớt được cá và tôm lên, trong lòng bèn hy vọng mình cũng có một cái lưới.

Nhưng trong nhà không có lưới. Tang Tang thấy khó chịu trong người, kiểu nào nó cũng phải kiếm cho ra một tấm lưới. Nó đi đi lại lại trong nhà, ánh mắt bất chợt thấy tấm mùng ngủ của ba mẹ. Đây rõ ràng là một tấm mùng, nhưng trong mắt của Tang Tang, nó lại là một tấm lưới khá đạt tiêu chuẩn. Nó nhanh tay gỡ mùng xuống, rồi tiếp tục đi lấy kéo, vài ba nhát kéo thì tấm mùng đã được chế tạo thành một tấm lưới, ngay sau đó nó gọi A Thứ và Tiểu Cổ đến, dùng cành trúc làm thành giá lưới, leo lên chiếc thuyền nhỏ dùng để thả vịt rồi bơi ra sông đánh cá.

Người trên bờ sông đều nhìn về phía bọn chúng hỏi: “Tang Tang, cái lưới đó làm bằng gì thế?” Tang Tang trả lời: “Bằng mùng ngủ ấy.” Tang Tang nghĩ bụng: Con không dùng mùng ngủ thì biết dùng cái gì chứ? Thế là người trên bờ đều bật cười ha hả. Cô giáo Ôn Ấu Cúc nói trong lo lắng: “Tang Tang, em lại sắp bị ăn đòn rồi.” Bấy giờ Tang Tang mới chợt nhận ra tính nghiêm trọng của vấn đề, nhưng dưới bao nhiêu ánh mắt của những người trên bờ, nó vẫn lựa chọn chìm đắm trong niềm vui đánh cá.

Buổi trưa, mẹ về nhìn thấy trong rổ có những vài ba cân cá và tôm bèn hỏi: “Cá và tôm này từ đâu ra thế?” Tang Tang đáp: “Con bắt đấy.” “Con bắt sao?” “Vâng, con bắt đấy.” “Con bắt bằng cái gì?” “Thì con bắt vậy đó.” Mẹ của Tang Tang bận nấu ăn cũng không có tâm tư hỏi quá cặn kẽ. Đến bữa trưa, cả nhà vui vầy ngồi vào bàn ăn, được một lúc thì bà mẹ lại đặt câu hỏi: “Tang Tang, con dùng cái gì để bắt cá thế?” Tang Tang mượn cớ trong miệng đang nhai một con tôm to, cố tình ậm ừ nói không rõ một chữ nào. Nhưng mẹ nó đã buông đũa rồi, rõ ràng là có ý chờ nó ăn xong tôm, lại hỏi: “Rốt cuộc là bắt cá bằng cái gì?” Tang Tang một tay cầm chén cơm, một tay cầm đũa, muốn rời khỏi bàn, nhưng bà mẹ lại nghiêm khắc nói: “Khoan đi đã. Nói cho rõ, bắt bằng cái gì?” Tang Tang lui đến góc tường. Em gái của nó Liễu Liễu ngồi trên ghế, vừa nhai nhóp nhép rất ngon lành con tôm, vừa đung đưa đôi chân có vẻ như rất vui mà nhìn Tang Tang nói: “Anh hai đánh cá bằng lưới.” Mẹ hỏi: “Anh con lấy lưới đâu ra?” Liễu Liễu nói: “Dùng mùng ngủ làm lưới ấy.”

Mẹ nó đặt chén xuống bàn, đi vào phòng của mình. Vài giây sau lại quay trở ra, nhìn bóng lưng vắt chân lên cổ bỏ chạy của Tang Tang mà la một câu, song lại không rượt theo đánh đòn. Đến tối, Tang Tang về nhà, mẹ của nó cũng không đánh nó. Trái lại, hình phạt của mẹ là: Tháo mùng của nó xuống. Kết quả là: Tang Tang bị muỗi chích đầy người, mắt bên trái dường như còn phát sáng bởi khối u đỏ – kiệt tác của con muỗi.

Trời đang vào hè, là một mùa hè đúng nghĩa. Ông mặt trời vừa ló dạng thì cả đất trời liền bị bao bọc bởi bầu không khí nóng bức, còn khi ông mặt trời biến mình thành chiếc bánh xe màu vàng kim lăn qua đỉnh đầu con người, thì trái đất như biến thành những đốm lửa. Lá cây lau sậy bên sông đã bị nắng làm cong lại, mọi loại thực vật đều không chống đỡ nổi cơn lốc của cái nóng này mà lũ lượt cúi đầu xuống như muốn chìm vào giấc ngủ. Trên đường lớn, thỉnh thoảng có người đi ngang qua, ai nấy sẽ vô cùng vội vàng, như đứng thêm một phút dưới nắng họ sẽ bị bốc cháy. Trẻ con, bất kể là biết hay không biết bơi, đều bị cái nóng oi bức này ép xuống sông. Vậy nên, trên sông đâu đâu cũng là tiếng huyên náo.

Tang Tang ngâm mình dưới nước mấy tiếng đồng hồ rồi, nó đi lên bờ chỉ là để nghỉ ngơi ăn dưa bở, định bụng ăn xong sẽ lại xuống tắm. Nó ngồi trên bậc thềm trước cửa nhà, vừa ăn vừa nhìn mẹ cầm roi quất vào tấm chăn và áo ấm đang treo ngoài vườn. Nó biết cái này gọi là “Bộc phục”, nghĩa là phơi quần áo ấm và chăn ấm dưới cái nắng oi bức, chỉ cần phơi như thế một ngày thôi thì cả một mùa đông cũng không sợ quần áo bị ủ mốc. Mẹ quay trở vào nhà.

Tang Tang ăn xong dưa, vừa định chạy xuống sông thì một ý nghĩ lạ lùng xẹt qua và liền giữ chân nó lại. Nó nghĩ: Dưới thời tiết thế này, nếu mình mặc hết quần áo ấm lên người thì sẽ thế nào nhỉ? Nó còn nhớ lần đó khi ra thị trấn, thấy người bán cà rem giữ những cây cà rem lạnh băng ấy trong chăn. Nó mãi không hiểu nổi vì sao bị ấp trong tấm chăn dày cộm thế mà cà rem lại không bị tan. Suy nghĩ này cứ víu lấy nó. Tang Tang là một người rất dễ bị nhiều suy nghĩ vây lấy.

Xa xa, Chỉ Nguyệt đang băng qua ruộng ngô để đến trường. Chỉ Nguyệt đội một chiếc mũ rất bắt mắt, vừa đi tay vừa sờ lên những lá ngô dọc đường. Vào mùa này, các bụi ngô đều đang trổ bông hoặc đỏ thắm hoặc xanh tươi. Chỉ Nguyệt không giống như những cô gái sống ở thôn quê, dưới mùa hè gay gắt thế mà vẫn có thể trắng đến như vậy. Gương mặt và cánh tay, đôi chân để lộ ở bên ngoài do đồng phục ngắn, đều như phát ra luồng sáng bạc dưới những cái đung đưa qua các bụi ngô ven đường.

Tang Tang nhìn vào trong nhà, biết là giờ này mẹ đã ngủ trưa, thế là đi ra vườn. Người nó ướt đẫm mồ hôi, nhưng lại chọn chiếc quần ấm dày nhất mặc vào, sau đó chồng lên người chiếc áo khoác độn bông vừa to vừa dày của ba nó, xoay người lại, nhìn thấy trong thùng gỗ còn có chiếc mũ len của ba, miệng toét lên một nụ cười, chân không do dự mà đi sang đó, cầm lên đội vào cái đầu ướt nhẹp vì nước. Tang Tang cảm thấy thật kỳ diệu, nó nhìn ngang nhìn dọc nhìn trước nhìn sau, tức thì chạy ra khỏi nhà, xông tới khu đất trống ở chính giữa các lớp học.

Đúng lúc đó, Chỉ Nguyệt cũng đi vào trường. Tang Tang giả vờ như không nhìn thấy cô bạn, tiện tay với lấy một cành trúc rồi ra vẻ oai hùng mà đi lại giữa khu đất trống.

Người đầu tiên phát hiện ra Tang Tang là thầy Tưởng Nhất Luân. Lúc ấy anh đang nằm ngủ trên chiếc ghế mây dưới gốc cây to, bỗng dưng thấy giữa sân trường vắng như có một người đang di chuyển, nhìn kỹ lại thì nhận ra ngay đó là Tang Tang. Anh lặng người ngồi nhìn một lúc, cuối cùng không nhịn được cười phụt ra thành tiếng. Ngay tức thì, anh gọi những giáo viên khác ra: “Mọi người mau ra nhìn Tang Tang kìa.”

Chỉ một lúc nữa thôi là đến giờ vào lớp rồi, học sinh các khối đều đang lần lượt vào trường.

Tang Tang đã tạo ra một cảnh tượng mới cho mọi người. Nó thường xuyên biến mình thành một cảnh tượng.

Chỉ Nguyệt ẩn mình ở phía sau một cây ngô đồng rất lớn, ló mặt ra nhìn Tang Tang.

Tang Tang dường như đã nhìn thấy đôi mắt đen láy ấy, lại vờ như không nhìn thấy gì cả.

Bãi đất trống dần dần đông người hơn, mọi người đều nhìn Tang Tang với vẻ thú vị. Không biết là ai đã “huýt” lên một tiếng, lập tức như được hưởng ứng vậy, dưới bầu trời của tháng Bảy, giữa sân trường nóng hừng hực, tiếng “huýt huýt” không ngừng vang dậy, càng lúc càng lớn. Tang Tang như nhận được một sự cổ vũ, tay cầm cành trúc đi thành vòng tròn giữa bãi đất như một thằng điên.

Một lúc sau, tiếng “huýt huýt” đã biến thành tiếng gọi nhịp nhàng “Tang Tang! Tang Tang!...”

Tang Tang càng lúc càng nổi hứng, còn làm ra một số động tác kỳ lạ. Tang Tang tưởng tượng bãi đất dưới chân như một sân khấu, và nó chìm đắm trong cảm giác phấn khích lạ thường. Mồ hôi thấm đầy trên mặt nó, chảy vào mắt của nó, khiến nó không mở mắt được, mở không được thì kệ vậy. Nó vẫn tiếp tục híp mắt đi vòng tròn. Có lẽ là vì đang híp hờ mắt, hoặc cũng có lẽ vì đi vòng tròn nãy giờ cũng đã lâu, Tang Tang bắt đầu cảm thấy hơi say, cảm giác này hệt như lần nó lén uống rượu của ba vậy.

Xung quanh là vô số những đứa trẻ đang cởi trần, còn phía trong lại là một người được bao bọc kỹ lưỡng bằng quần áo độn bông như đang trong tiết trời mùa đông. Có vài giáo viên vừa nhìn vừa cười khanh khách, vài người còn cười đến không đứng thẳng lên được, phải chạy vào trong nhà uống nước để thấm cổ họng.

Lần này thì Tang Tang lấy hết oai rồi. Chính trong lúc mọi người đang xem trong mê mẩn thì trường tiểu học Du Ma Địa lại xuất hiện một cảnh tượng mới: Hạc trọc lần đầu tiên đội chiếc mũ mà cha nó mua cho nó đi vào trường.

Không rõ là ai đã phát hiện ra Hạc trọc: “Mau xem kìa, xem đó là ai?”

“Hạc trọc!” “Hạc trọc!” “Là Hạc trọc!” Bấy giờ, Hạc trọc đang đi trên con đường chính dẫn vào trường, rất có khí phách.

Hạc trọc vừa ốm lại vừa cao, đôi chân dài trông khá bắt mắt, chỉ có điều hơi mảnh khảnh một chút. Giờ đây, đôi chân ấy đang để lộ ngoài trời do mặc quần ngắn. Chân của nó di chuyển như một cơn gió, bước đi điềm tĩnh từ đồng ruộng đến sân trường. Hạc trọc cởi trần, đi chân không, nhưng đầu lại đội mũ – hình tượng này quả thật sinh động, và hài hước. Hoặc giả cảnh tượng do Tang Tang tạo ra đã duy trì một khoảng thời gian, cũng gần đến hồi kết, hoặc giả hình tượng của Hạc trọc tuyệt diệu hơn, tóm lại, sự tập trung của mọi người phảng phất như nhận được khẩu lệnh vậy, đồng loạt rời mắt khỏi Tang Tang và chuyển qua Hạc trọc, Tang Tang bị làm ngơ rồi.

Hạc trọc thản nhiên đi đến gần. Thấy nhiều người nhìn nó như vậy, nó có hơi không tự nhiên, song chẳng mấy chốc nó đã chuyển sang một cảm giác khác. Nó ưỡn lồng ngực ốm nhách ra trước, đôi chân dài rải bước đều đặn, từng bước đi vào dòng người. Giờ đây điểm hấp dẫn nhất là chiếc mũ: Chiếc mũ trắng xóa như tuyết, màu trắng như thế dưới cái nắng của mùa hè là rất hiếm thấy, nó đặc biệt nổi bật; đó là một chiếc mũ rất xinh xắn, mũi lưỡi trai, phía trên là lớp lưới đều và khít. Nó nằm gọn trên đầu của Hạc trọc, khiến cho Hạc trọc thoắt nhiên được thêm vài phần anh tuấn và rạng ngời.

Tựa như có quý nhân đến trường, đám đông tự động tách ra hai bên.

Không còn ai nhìn đến Tang Tang. Tang Tang nhìn thấy Chỉ Nguyệt ở phía sau cây ngô đồng, ánh mắt của Chỉ Nguyệt cũng đã chuyển đến Hạc trọc. Tang Tang như một trái táo tàu, người ta ăn hết thịt rồi thì chỉ có thể phun cái hạt táo vô dụng xuống đất thôi. Nó đành rê thanh trúc rời khỏi sân trường trong sự ngượng ngùng, giờ đây, người đi vào trung tâm là Hạc trọc bảnh bao kia.

(3)

Lúc ấy, màu trắng tinh khiết đã khiến bọn trẻ lặng người. Thêm vào dáng vẻ tự tin của Hạc trọc, bọn trẻ thật sự không còn suy nghĩ gì khác, chỉ lẳng lặng dõi theo. Song chỉ hai ngày sau, chúng không còn muốn tiếp tục nhìn Hạc trọc với vẻ kính nể như thế nữa, trong lòng ai cũng rạo rực một ước muốn chính là tháo chiếc mũ kia ra để được nhìn thấy quả đầu sáng sủa của Hạc trọc. Mấy ngày không nhìn cái đầu trọc ấy, chúng có hơi không quen, đó là một nét điểm xuyết không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày của chúng cơ mà.

Tang Tang không chỉ là có ước muốn ấy, mà nó còn có suy nghĩ riêng: Hôm ấy, chính sự xuất hiện của Hạc trọc đã khiến nó bị mọi người lạnh nhạt, nó vẫn còn giận.

Thế là vào một buổi chiều, ngay khi vừa kết thúc tiết học đầu tiên thì người bạn cùng bàn của Hạc trọc rốt cuộc đã không kìm được lòng mà giật chiếc mũ của Hạc trọc ra.

“A!” Một nữ sinh trong lớp thấy vậy lập tức kêu lên.

Thế là chỉ trong tích tắc, vô số cặp mắt như biến thành những con thiêu thân, đồng loạt tia về quả đầu không một sợi tóc mà chúng đã mấy ngày không được nhìn thấy của Hạc trọc. Chúng cảm thấy mới mẻ hệt như lần đầu tiên nhìn thấy nó vậy.

Hạc trọc vội vàng dùng một tay che đầu lại, tay kia giơ ra trước mặt thằng bạn cùng bàn kêu lên: “Trả mũ đây!” Nó không chịu trả, lại cầm mũ lên chạy đi chỗ khác.

Hạc trọc đuổi theo: “Trả đây! Trả đây! Trả mũ lại đây!”

Nó chờ Hạc trọc chạy gần đến bên mình thì vứt mũ sang hướng khác, chiếc mũ như một con bồ câu trắng phau tung cánh bay trên không trung, không chờ Hạc trọc chụp được, một đứa bạn khác đã leo lên bàn giật lấy trước. Hạc trọc lại đuổi theo đứa bạn đó, hành động tiếp tục được lặp lại, chiếc mũ một lần nữa bay cao. Tiếp theo đó, cảnh tượng trong lớp học chính là Hạc trọc hết rượt theo người này thì đuổi theo người kia, và chiếc mũ trắng thì không ngừng rơi xuống rồi lại bay cao. Con “bồ câu trắng” này trở thành một con “bồ câu” bị mọi người xua đuổi, mất đi bến đậu nên không thể không lập tức tung bay ngay khi chỉ mới chạm đất được một lúc.

Hạc trọc khàn giọng đuổi theo gọi với: “Mũ của mình! Mũ của mình!”

Khi chiếc mũ một lần nữa rơi vào tay của Tang Tang thì nó liền đội lên đầu, hết lách bên trái lại nấp sang bên phải để tránh khỏi bàn tay rượt đuổi của Hạc trọc. Tang Tang rất nhanh nhẹn, Hạc trọc đuổi không kịp. Chờ khi chạy ra một đoạn khá xa thì Tang Tang quay người lại, đứng nghiêm đưa tay lên làm ra dáng vẻ kính chào, thấy Hạc trọc đã đến gần, tay giơ ra phía trước định giật mũ thì Tang Tang lại co chân lên chạy.

Sau đó, Tang Tang đã chuyển mũ cho A Thứ, đồng thời bảo A Thứ chạy mau. A Thứ vừa cầm mũ là chạy đi ngay, Hạc trọc muốn đuổi theo song lại bị Tang Tang chặn đường. Khi Hạc trọc tìm được cơ hội lách ra khỏi cửa thì đã chẳng thấy bóng dáng A Thứ đâu nữa.

Hạc trọc chạy hết mọi ngõ ngách trong trường để tìm A Thứ: “Mũ của mình, mũ của mình...” bước chân ngày càng chậm lại, giọng nói ngày càng lí nhí, khoang mắt bắt đầu ngấn lệ.

Bấy giờ, A Thứ đã chạy băng qua một cánh rừng và quay trở về lớp học.

Tang Tang nói nhỏ gì đó vào tai A Thứ, A Thứ gật gù rồi cầm mũ lên, leo ra cửa sổ, một lần nữa chạy ra ngoài. Cũng trong lúc này, Tang Tang đổ hết đồ đạc trong ba lô của mình ra rồi cuộn ba lô lại nhét vào trong áo ba lỗ, sau đó chạy ra khỏi phòng học. Nhìn thấy Hạc trọc, nó liền vỗ vỗ vào ngực nói: “Mũ ở đây nè!” Dứt câu liền chạy băng băng ra ruộng.

Hạc trọc tuy đã không còn hơi sức nữa, nhưng vẫn cố đuổi theo. Tang Tang dụ Hạc trọc chạy đi rất xa. Bấy giờ mới quay lại nhìn về phía trường học, thấy A Thứ đang leo lên cột cờ, hơn nữa đã leo được một nửa đoạn đường.

Hạc trọc níu lấy Tang Tang: “Đưa mũ đây!” Tang Tang nói: “Mình đâu có lấy mũ của bạn.” Hạc trọc vẫn chỉ câu đó: “Đưa mũ đây!”

“Mình thật sự không có lấy mũ của bạn.”

Hạc trọc vật Tang Tang xuống đất: “Mũ của mình!” Nó kéo áo của Tang Tang lên, nhìn thấy trong đó là chiếc ba lô nhăn nheo, tức thì đấm Tang Tang một cú, bật khóc.

Tang Tang kêu lên một tiếng: “Ây da,” song miệng lại cười, bởi vì, nó nhìn thấy chiếc mũ trắng tinh ấy đã bị A Thứ treo lên đỉnh của cột cờ rồi. Chờ khi Hạc trọc và Tang Tang kẻ trước người sau đi về trường thì gần như toàn bộ học sinh đều đã tập trung dưới cột cờ, ai nấy đều giơ tay che trước trán nhìn lên chiếc mũ ở trên cao kia. Lúc ấy bầu trời rất xanh, chiếc mũ ấy càng trở nên trắng tinh lạ thường.

Hạc trọc cũng đã phát hiện ra mũ của mình. Nó chen lên trước đám đông, chạy tới dưới chân cột cờ muốn leo lên đó lấy lại mũ, nhưng liên tục thử hết vài lần, mỗi lần lên tới độ cao khoảng hai ba mét thì đều bị tụt trở xuống ngã phịch xuống đất, làm cho cả bọn ôm bụng cười sặc sụa.

Hạc trọc dựa vào cột cờ, ngồi yên bất động. Đầu nghiêng qua một bên, cắn chặt răng cố kìm nén nước mắt.

Không ai cười nữa, chúng lần lượt rời khỏi nơi này. Có gió thổi qua. Gió khiến cho chiếc mũ trắng ấy khẽ lắc lư trên đỉnh, trông như một người đang săm soi xem mình đã đội ngay ngắn hay chưa.

Thầy Tưởng Nhất Luân bước đến, ngước đầu nhìn lên chiếc mũ trên đỉnh cột cờ bèn hỏi Hạc trọc: “Ai đã làm chuyện này?”

Bọn trẻ đã tản đi cả rồi, giờ chỉ còn một mình A Thứ đứng đấy.

“Em làm sao?” Tưởng Nhất Luân hỏi. A Thứ đáp: “Phải.”

Hạc trọc chợt la lên: “Không, là Tang Tang kêu bạn ấy làm!” Hạc trọc đứng lên, định chỉ về hướng của Tang Tang cho Tưởng Nhất Luân thấy, nhưng Tang Tang lại nhanh nhảu nấp vào một bụi cây, mất bóng.

Tưởng Nhất Luân ra lệnh cho A Thứ lấy mũ xuống trả lại cho Hạc trọc, nhưng Hạc trọc lại vứt chiếc mũ mà A Thứ đưa lại cho mình: “Mình không lấy nữa!” Nói xong, nó liền quay đầu chạy thẳng tới nhà Tang Tang. Vừa chạy tới trước sân nhà Tang Tang thì Hạc trọc đã nằm xòa xuống đất ngửa mặt lên trời. Mẹ của Tang Tang ra hỏi Hạc trọc có chuyện gì thế, Hạc trọc không trả lời. Mẹ Tang Tang đành đi tìm Tang Tang. Kết quả là không tìm thấy, song cuối cùng bà vẫn đã hỏi được đầu đuôi sự việc từ những đứa trẻ khác, bà quay về nhà dỗ dành Hạc trọc: “Lục Hạc ngoan, mau đứng dậy, cô không tha cho nó đâu!”

Hạc trọc không chịu đứng dậy, nước mắt tuôn ra từ hai bên khóe mi, chảy qua lỗ tai, tiếp tục thấm xuống đất cát, thấm ướt một mảng.

Sau cùng, vẫn là Tang Kiều từ bên ngoài trở về khuyên được Hạc trọc đứng dậy.

Tang Tang chui ra khỏi trường từ những bụi cây to, lại luồn vào ruộng ngô, mãi đến khi trời tối cũng không dám về nhà. Mẹ nó không gọi nó, trái lại còn nói với Liễu Liễu: “Không được gọi anh con về, cho nó chết ở ngoài đó đi!”

Gió lại lên, xung quanh ngoài tiếng xào xạc của lá ngô và tiếng kêu “ộp ộp” của ếch thì chẳng còn âm thanh nào khác nữa.

Tang Tang sợ rồi, nó ra khỏi ruộng ngô, đi lên bãi đất. Nó nhìn về ngôi nhà tranh đang sáng đèn – nhà của nó, trong lòng hiểu rằng mẹ mình không có ý gọi mình về nhà nữa, nó muốn khóc. Nhưng lại không khóc, nó quay người đi đến nhà của A Thứ.

Bà mẹ chờ đến nửa đêm, thấy Tang Tang vẫn chưa về nhà thì trong lòng lại lo lắng. Ngoài miệng thì nói không ai được gọi Tang Tang về nhà, bản thân lại đi ra sân vườn trông ngóng tứ phía.

Mẹ của A Thứ sợ mẹ Tang Tang lo lắng bèn không ngại trời tối đến nhà Tang Tang nói: “Tang Tang ở nhà của tôi, nó đã ăn cơm rồi, bây giờ đang ngủ chung với A Thứ.” Mẹ Tang Tang nghe được tin tức của Tang Tang, ngọn lửa trong lòng bất chợt lại bùng cháy. Bà nói với mẹ của A Thứ rằng sẽ đến dẫn Tang Tang về nhà ngủ, song khi đánh thức Tang Tang từ trên giường của A Thứ, bảo nó đi về nhà với mình, thì chỉ mới đi ra hai mẫu đất, bà đã véo lỗ tai của Tang Tang khiến nó kêu lên chí chóe.

Tang Kiều sớm đã chờ ở đầu đường, ông nói: “Đến nhà Lục Hạc nói xin lỗi ngay!” Cũng trong đêm đó, Hạc trọc đang say giấc trên giường bị cha gọi dậy, trong mông lung nó nhìn thấy một Tang Tang vẻ mặt tội nghiệp, và mơ màng nghe thấy Tang Tang lầm bầm nói: “Sau này mình không lấy mũ của bạn nữa…”

(4)

Hạc trọc không còn đội chiếc mũ đó nữa, sự đối lập giữa nó và các bạn thì ngày càng mạnh mẽ. Hạc trọc đã thay đổi cách nghĩ: Nó chính là một thằng đầu trọc đấy, vậy thì đã sao! Chính vì có suy nghĩ như thế, nên dù cho mùa đông có đến, nó cũng không đội mũ, dẫu rằng nó vốn có thể làm như những người khác. Mùa đông đến, quả đầu không một sợi tóc ấy để trần bên ngoài, ai nhìn vào cũng cảm thấy lạnh. Nhưng chính nó đã làm như thế, giữa gió rét, dưới tuyết lạnh. Nó chính là muốn nhấn mạnh với mọi người rằng đầu nó trọc: Tôi vốn dĩ là một đứa trọc đầu, tôi không thiết phải gạt ai!

Buổi sáng của ngày thứ Tư, năm ngôi trường tiểu học của vùng này (được hợp thành một khu) phải thi diễu hành và bình chọn thứ hạng. Lần này, cuộc diễu hành sẽ diễn ra tại trường tiểu học Du Ma Địa.

Thế nên bắt đầu từ thứ Hai, mỗi buổi sáng trường tiểu học Du Ma Địa đều dành hai tiết học để luyện tập xếp hàng, bước đều, diễu hành. Tang Kiều trước giờ đều xem trọng danh dự, vì vậy ông giám sát rất nghiêm ngặt, còn thường xuyên lớn tiếng quát mắng. Hình tượng này dường như không hề ăn nhập với hình ảnh lịch thiệp, đầu tóc ngay ngắn, quần áo gọn gàng, sạch sẽ, thẳng tắp thường ngày của ông.

Song một khi gặp phải chuyện có liên quan đến danh dự nhà trường, ông sẽ thay đổi ngay dáng vẻ lịch thiệp ấy, suốt ngày nhảy cẫng lên, hễ gặp phải điểm nào không hài lòng là lại to tiếng với giáo viên và học sinh. Ông thường khiến mọi người cảm thấy không thích nghi, hoặc sẽ làm tất cả mọi người đều không vui, ai nấy đều ủ rũ không còn muốn làm nữa. Những lúc như vậy, ông sẽ một mình đi làm công việc ấy, làm đến khi mệt lử, làm đến khi mọi người đều không thể chịu được nữa, lại lần lượt tham gia giúp ông.

Tang Kiều là hiệu trường có tiếng ở toàn khu vực.

“Lần diễu hành này, trường tiểu học Du Ma Địa nhất định phải giành hạng nhất, lớp nào xảy ra vấn đề thì chủ nhiệm của lớp đó chịu trách nhiệm!” Tang Kiều tập trung các giáo viên lại rồi nói một cách nghiêm túc.

Một ngày trước buổi diễu hành, chủ nhiệm của lớp Tang Tang – thầy Tưởng Nhất Luân đã gọi Hạc trọc vào văn phòng và nói: “Sáng mai em cứ ở yên trong lớp học.”

Hạc trọc hỏi: “Không phải sáng mai diễu hành ư?”

Tưởng Nhất Luân nói: “Em cứ ở trong lớp quét dọn sạch sẽ, sàn dơ quá.”

“Không, em muốn tham gia diễu hành.” “Quân số đủ rồi.”

“Không phải ai cũng phải tham gia diễu hành sao?” “Đã nói rồi, ngày mai cứ ở yên trong lớp.”

“Tại sao?”

Tưởng Nhất Luân liếc nhanh qua đầu của Hạc trọc.

Hạc trọc cúi gằm mặt đi ra khỏi văn phòng. Ngay khi gần đi ra khỏi cửa, nó giơ chân đạp thật mạnh vào cửa phòng một cái.

Sáng hôm sau, học sinh của bốn trường tiểu học khác đều lần lượt diễu hành đến trường tiểu học Du Ma Địa từ những hướng khác nhau dưới sự giám sát nghiêm ngặt của giáo viên. Dưới cái rét lạnh của mùa đông, tiếng nhạc hùng hồn bất ngờ vẽ nên một cảnh tượng vô cùng nhiệt huyết. Tưởng Nhất Luân đi vào phòng học, không nhìn thấy Hạc trọc đâu, bèn hỏi học sinh trong lớp: “Có em nào thấy Lục Hạc đâu không?”

Có người đáp: “Bạn ấy ở trên sân khấu ngoài bãi tập.” Tưởng Nhất Luân vừa nghe vậy lập tức chạy ra sân thể thao, quả nhiên nhìn thấy Hạc trọc đang ngồi trên chiếc ghế vốn dĩ là dành cho hiệu trưởng của các trường khác. Anh vội vàng chạy tới gần kêu lên: “Lục Hạc.”

Hạc trọc không quay lại nhìn.

Tưởng Nhất Luân tăng thêm âm lượng: “Lục Hạc.”

Hạc trọc miễn cưỡng quay đầu lại, nhưng chỉ nhìn Tưởng Nhất Luân một cái, sau đó lại quay mặt nhìn xuống học sinh đến từ những trường khác đang đứng bên dưới sân khấu.

Những học sinh ấy cũng đang chỉ chỉ trỏ trỏ và cười hi hi vào mặt Hạc trọc.

Tưởng Nhất Luân vỗ vào vai Hạc trọc: “Đi, theo thầy về lớp.” Hạc trọc kiên quyết không nhượng bộ: “Em muốn tham gia diễu hành.”

“Em mà cũng muốn tham gia diễu hành sao?” Tưởng Nhất Luân bất giác phát ra một tiếng cười từ cổ họng.

Tiếng cười này đã làm Hạc trọc cảm thấy đau, khiến Hạc trọc trở nên lạ lùng, nó đứng phắt dậy, bước tới rìa sân khấu cúi nhìn những đứa bạn đồng trang lứa rồi nhe răng cười khờ.

Tưởng Nhất Luân vội đuổi theo: “Kêu em theo thầy về lớp có nghe thấy không?”

“Em muốn tham gia diễu hành!”

Tưởng Nhất Luân đành chịu thua: “Được rồi được rồi, nhưng ngay bây giờ em phải theo thầy về lớp học!” Dứt lời, anh vừa lôi vừa kéo nó xuống sân khấu.

“Em muốn tham gia diễu hành!”

Tưởng Nhất Luân nói: “Vậy thì em nhất định phải đội mũ.” “Em không có mũ.”

“Thầy sẽ đi kiếm mũ cho em. Em đứng yên đây không được động đậy.” Tưởng Nhất Luân chạy nhanh về ký túc xá, tìm chiếc mũ len của mình rồi chạy nhanh quay về đội lên đầu Hạc trọc.

Hạc trọc lột chiếc mũ len xuống, xoa xoa đầu vài cái mới lại đội lên, tiếp đó nó nhìn Tưởng Nhất Luân và nở một nụ cười quái lạ xen lẫn chế giễu, rồi đi ra đứng vào hàng của lớp mình.

Cuộc diễu hành bắt đầu rồi, hiệu trưởng của các trường ngồi thành một hàng ngang trên sân khấu, dùng cặp mắt tự đắc và săm soi theo dõi.

Trường nào cũng bỏ công chuẩn bị chu toàn để đến trường tiểu học Du Ma Địa quyết chiến thắng thua, từng trường một tiến bước, triển hiện kỷ luật nghiêm minh của nơi mình học, không dám lơ là. Dẫu rằng xuất phát từ điều kiện có hạn, những đứa trẻ này người thì quá mập người lại quá ốm, quần áo thì ngắn dài không đồng đều, nhưng suy cho cùng đều rất sạch sẽ và gọn gàng. Những học sinh lớp nhỏ, mười người đã có chín người lưng quần rộng rinh, tựa như có thể tuột xuống bất cứ lúc nào để lộ cái mông trắng trẻo giữa tiết trời lạnh lẽo, song mắt ai nấy đều tròn xoe long lanh, nét mặt nghiêm túc vô cùng.

Trình độ của các trường ngang nhau, người ngoài ngành khó mà nhận ra được sự chênh lệch. Nhưng những vị hiệu trưởng này thì khác, họ sớm đã có điểm số trong lòng.

Trường tiểu học Du Ma Địa thân là chủ nhà, nên xuất hiện cuối cùng.

Khi bốn ngôi trường khác tiến hành được một nửa thì trên mặt của Tang Kiều đã lộ ra một nụ cười không dễ phát giác. Bởi vì theo như ông nhận thấy, lần này trường tiểu học Du Ma Địa lãnh giải nhất cơ hồ đã là điều chắc chắn. Tang Kiều hiểu rất rõ về thực lực của trường mình, ông biết rõ trình độ của trường mình ở đâu. Ông không định tiếp tục xem trường khác biểu diễn nữa, mà chuyển sang nhìn đội ngũ đang vô cùng phấn chấn muốn bước vào sân của trường Du Ma Địa. Đối với vinh dự, Tang Kiều lâu nay đều rất keo kiệt, dù cho chỉ là một chút niềm vinh dự nhỏ thôi, ông cũng tuyệt đối không dễ dàng bỏ qua.

Trường thứ tư vừa biểu diễn xong thì đội hình hùng hổ của Du Ma Địa đã nhanh chóng chiếm trọn một mảng to sân tập. Xung quanh sân tập trồng đầy những cây bạch dương. Dưới bầu trời xám xanh, chúng cứ sừng sững đứng đấy, những nhánh bạch dương chỉ còn cành không còn lá này trông càng thêm đội trời đạp đất.

Cuộc diễu hành của trường tiểu học Du Ma Địa bắt đầu rồi. Mọi thứ đều diễn ra rất bình thường, thậm chí có thể nói là phát huy ngoài sự mong đợi. Nụ cười của Tang Kiều không còn kìm chế được nữa. Ông có phần thiếu bình tĩnh, chỉ muốn đứng dậy vỗ tay cổ vũ cho học sinh của mình.

Khi cuộc diễu hành diễn ra được hai phần ba, cũng đồng nghĩa đã đi đến giai đoạn cao trào cuối cùng, thì Hạc trọc – đứa nãy giờ tỏ ra rất trang nghiêm đã bất ngờ lột mũ trên đầu xuống vứt ra xa. Đó là một chiếc mũ màu đen, khi nó bay qua trên đầu mọi người, rất dễ dàng khiến người khác liên tưởng đó là một con quạ bị trúng đạn đang rơi xuống từ trên không.

Hành động này khiến cho hàng ngũ xảy ra một xáo động nhỏ. Ngay sau đó, những người đứng bên ngoài sân lập tức như được nhìn thấy lại ánh sáng sau bao giờ bị nhốt trong bóng tối, tất cả đều bị quả đầu không có tóc của Hạc trọc thu hút hết ánh nhìn. Lúc ấy, học sinh trong trường không hoàn toàn bằng tuổi nhau, Hạc trọc đến mười tuổi mới vào tiểu học, vốn đã cao hơn những đứa trẻ khác một cái đầu, giờ đây, quả đầu trọc ấy càng trở nên nổi bật hơn.

Những đứa trẻ khác đều đang đội mũ, và đều có một mái tóc đẹp. Còn nó thì chẳng có lấy một sợi, còn để trần ra ngoài. Hiệu quả hệt như phim ảnh này chẳng mấy chốc đã tạo ra phản ứng. Tiếng cười của người ngoài sân tức thì che lấp tiếng hô lệnh của cô bé đứng trên sân khấu, học sinh của trường tiểu học Du Ma Địa nhất thời như mất đi chỉ huy, động tác trở nên lộn xộn. Những tiếng cười bên ngoài lại nhanh chóng truyền sang người trong hàng ngũ, chúng cũng bắt đầu vừa diễu hành vừa nhìn đầu của Hạc trọc, hoàn toàn quên bẵng trọng trách giành vinh dự cho trường tiểu học Du Ma Địa của chúng.

Đầu tiên là vài nữ sinh cười đến tay chân mềm nhũn, động tác vốn dĩ phải rất mạnh mẽ ấy bị làm cho giống như nước nhỏ xuống từ mái hiên, chẳng ra hình dáng gì. Tiếp theo đó thì vài nam sinh ngày thường vốn đã không ngoan, thừa cơ làm loạn, giờ đây chúng không còn là đội hình ban đầu nữa. Trong số đó có một nam sinh thậm chí còn lạng lách như đang đánh túy quyền, khiến cho vài nữ sinh bị va đụng vào nhau.

Tang Kiều ngượng vô cùng.

Chỉ có một mình Hạc trọc là vẫn tỉnh táo như chẳng có chuyện gì xảy ra, hoàn toàn tập trung vào những động tác cần làm, có thể nói là không có chỗ chê. Khi đến những đoạn nhảy, nó như được gắn cho một cái lò xo, nhẹ nhàng nhún nhảy trên mặt đất. Và quả đầu tròn vo đó đã tung cao rồi rơi xuống giữa không trung dưới động tác của nó. Khi ấy, ánh mặt trời đang xuyên qua tầng tầng lớp lớp mây và chiếu rọi xuống theo một đường xéo, trông hệt như đèn laser dõi theo người nghệ sĩ trên sân khấu lớn, còn đầu của Hạc trọc thì rất tự nhiên mà phát sáng giữa đất trời.

Tang Kiều cũng không cầm lòng được, đành bật cười, song lại nhanh chóng im bặt tiếng cười đó.

Và vì vậy, Hạc trọc đã dùng phương thức đặc biệt của riêng mình để trả thù tất cả những khinh miệt và nhục mạ của người khác đối với nó.

(5)

Nhưng thứ mà Hạc trọc đổi lấy lại là sự lạnh nhạt của mọi người, bởi vì nó đã làm mọi người đánh mất niềm vinh dự, nó khiến trường tiểu học Du Ma Địa phải chịu nỗi “sỉ nhục”. Bọn trẻ đều không quên được cảnh tượng sau buổi diễu hành hôm đó, ai ai cũng rút khỏi trung tâm, rút về lớp học trong dáng vẻ ảm đạm, càng không quên được cơn thịnh nộ và những lời phê bình như giáng từ trên trời xuống của thầy hiệu trưởng Tang Kiều.

Hạc trọc muốn lấy lòng các bạn. Ví dụ như chiếc máy bay giấy của Chu Miểu Miểu bị vướng trên nóc nhà, với tay không tới, Hạc trọc liền hì hục kéo hai chiếc bàn học và một chiếc ghế tới, chồng lên nhau rồi leo lên nóc nhà lấy máy bay giấy xuống. Nhưng Chu Miểu Miểu không hề đón nhận, trái lại là nhìn cũng không thèm nhìn mà nói: “Chiếc máy bay này tôi vốn không cần nữa.” Hạc trọc bảo: “Còn đẹp lắm mà, sao lại không lấy.” Nó tỏ vẻ tiếc nuối, và rồi cầm chiếc máy bay chạy ra đồng cỏ chơi một mình.

Thật vậy, đây vốn là một chiếc máy bay còn chơi được, bay vừa cao vừa nhanh, nhấp nhỏm giữa không trung, khi cao khi thấp, mãi mà không chịu đậu xuống. Nó làm ra dáng vẻ rất vui khi chơi với chiếc máy bay, thỉnh thoảng còn reo lên “ố ồ”, nhưng chẳng bao lâu thì nó nhận ra, không một ai chú ý đến nó. Nó lại phóng thêm vài lần, rồi ngẩn ngơ nhìn chiếc máy bay giấy từ từ rơi xuống hồ nước.

Một hôm, Hạc trọc đi đến trường, giữa đường đột nhiên bị một con chó hoang từ sau lưng nhào tới cắn một cái thật đau, nó kêu “ây da” theo bản năng rồi cúi đầu nhìn, bắp chân đã tuôn đầy máu. Chờ khi nó cầm một tảng đá lên thì con chó hoang đã sớm chạy trốn mất bóng. Nó ngồi bệt xuống đất, bặm miệng méo xệch, cố nén cơn đau, nó nhổ đại một nắm cỏ lá ven đường nhẹ nhàng đắp lên vết thương. Tiếp đó, nó tìm được một khúc gỗ, khập khà khập khiễng mà đi tới trường. Chờ khi sắp đến gần cổng trường, nó lại khuếch đại tư thế khập khiễng hơn. Nó phải khoa trương, phải khoa trương. Nhưng nó nhận ra, không một ai chú ý đến nó. Nó lại không thể quay trở về động tác tự nhiên, buộc lòng duy trì hành động phô trương này cho đến lớp học.

Cuối cùng cũng có một nữ sinh hỏi nó: “Cậu bị sao vậy?” Nó liền lớn tiếng trả lời: “Mình mới bị chó cắn.” Thế là, không cần biết cô bạn có muốn nghe câu chuyện nó bị chó cắn hay không, nó cứ thế mà kể lại một cách sinh động: “Con chó to lắm, mình chưa bao giờ thấy con chó nào to như vậy, nó dài cỡ này nè, thằng quỷ ngon lắm! Mình đang suy nghĩ chuyện riêng, vậy mà nó lại lẳng lặng, lẳng lặng nhào tới rồi há họng ra đớp ngay vào giữa bắp chuối của mình…” Nó ngồi xuống, giơ cái chân bị thương lên, lấy hết cỏ lá ra rồi tiếp tục nói: “Các bạn nhìn nó cắn nè…” Đúng thật không phải một vết thương nhỏ, trên đó thậm chí còn lưu lại dấu răng của con chó.

Bấy giờ, Hạc trọc nhìn vết thương đó như đang nhìn một đóa hoa đầy sức hút. Có vài người bước đến gần, xem xong rồi quay lưng bỏ đi. Nó vẫn kiên trì kể câu chuyện của nó, song, chẳng mấy ai nhìn đến nó. Lúc này, Tưởng Nhất Luân mang theo giáo trình vào lớp, nhìn thấy Hạc trọc thì liền hỏi: “Em ngồi ở đó làm gì?” Hạc trọc đáp: “Em bị chó cắn.” Tưởng Nhất Luân quay người lau bảng, mặt khác lại nói: “Bị chó cắn thì bị chó cắn.” Hạc trọc cảm thấy vô vị, bèn nhấc từng bước một lê lết về chỗ ngồi của mình.

Lại là một niên học mới. Bọn trẻ có một số đã cao hơn, cũng có những đứa vẫn y nguyên như năm cũ; có một số thành tích học tiến bộ vượt bậc, cũng có những đứa không ngừng tuột dốc; có những đôi bạn thân trước đây dù có mặc chung vào một chiếc quần cũng còn chê chiếc quần quá rộng, mà giờ đây gặp nhau lại không nói với nhau một lời, thậm chí muốn cào rách mặt của đối phương… Xuất phát từ những lý do như thế mà mỗi khi bắt đầu niên học mới, cả lớp đều sẽ xáo trộn quân số rồi xếp nhóm lại từ đầu.

Hạc trọc nghĩ: “Mình sẽ vào tổ nào nhỉ? Có cùng tổ với Tang Tang không nhỉ?” Nó không mấy thích Tang Tang, nó thường nghĩ: “Chẳng phải chỉ là một đứa có ba làm hiệu trưởng thôi sao?” nhưng trong thâm tâm lại cảm thấy Tang Tang không phải người xấu. “Nếu cùng tổ với Tang Tang thì cũng được.” “Có khi nào cùng tổ với Hương Xuân không?” nó cảm thấy Hương Xuân khá tốt. Hương Xuân là một người bạn nói lý lẽ và có tình người nhất ở trong lớp, nhưng chị của Hương Xuân có bệnh về thần kinh, rồi thường xuyên bỏ nhà đi, làm cho tâm trạng của Hương Xuân cũng xấu theo, không có tâm tư nói chuyện với người khác. “Nhưng mà như vậy thì có liên quan gì? Thôi thì cứ chung một tổ với Hương Xuân vậy, nói không chừng mình còn có thể ra ngoài giúp bạn ấy tìm chị nữa.”

Nhưng hiện thực lại là, không một ai muốn xếp chung tổ với Hạc trọc. Nói vậy thì suy nghĩ của Hạc trọc có hơi tự tác đa tình rồi. Chờ khi danh sách sơ bộ của các tổ được truyền tai nhau thì những người bị chia chung một nhóm với Hạc trọc đã cùng tìm đến Tưởng Nhất Luân: “Tụi em không muốn nhận Hạc trọc.”

Tưởng Nhất Luân sửa lỗi: “Lục Hạc.”

Một nữ sinh nói: “Lục Hạc cũng được, Hạc trọc cũng được, đó không phải là trọng điểm, tóm lại tụi em không muốn chung tổ với bạn ấy.”

Tưởng Nhất Luân nói: “Ai nói cho các em biết Lục Hạc trong tổ của các em vậy? Lan truyền lung tung!”

Tưởng Nhất Luân sau khi đuổi hết bọn trẻ ra về thì dùng bút chì khoanh tròn tên của Hạc trọc, tiếp đó lại gạch một đường ngang như nét vẽ bắc cầu, chuyển cậu bé vào một nhóm khác. Chiếc cầu đó giống như một sợi dây buộc lấy Hạc trọc, cưỡng hành kéo nó sang một nơi khác vậy. Kết quả học sinh của nhóm này không biết lại nghe được tin từ đâu, bèn học theo nhóm trước đến tìm Tưởng Nhất Luân. Cứ thế đưa qua đẩy lại, Hạc trọc trở thành một người không được đón nhận. Thật ra, đại đa số những người đó cũng không phải là không thể cùng nhóm với Hạc trọc, chỉ là phía trước đã có người không nhận, vậy nếu chúng nhận thì có cảm giác như nhặt thứ mà người ta không thèm vậy, vì thế cuối cùng mới thành ra như thế.

Tưởng Nhất Luân gọi Hạc trọc vào văn phòng: “Em muốn được xếp vào tổ nào?”

Hạc trọc dùng tay khựi khựi mặt bàn. “Đừng khựi bàn nữa.”

Hạc trọc bèn bỏ tay xuống. “Muốn vào tổ nào?”

Nó lại khựi.

“Đã bảo đừng khựi bàn nữa.” Nó lại buông tay.

“Tự em chọn đi.”

Hạc trọc không ngước mặt lên, nó nói: “Em sao cũng được.” Dứt câu là rời khỏi phòng ngay.

Hạc trọc không về lớp. Nó đi ra khỏi trường, đi đến ven sông, đi một cách không chủ đích, mãi đến khi dừng lại trước một lò nung gạch. Khi đó, phía trên lò nung vẫn đang tưới nước. Lò đã đốt liền hai mươi mốt ngày, gạch đã “chín”. Tiếp đó phải tưới nước liên tục bảy ngày lên đó, vậy là sẽ nung được những viên gạch rất bền bỉ. Đất sét chín khi chạm vào nước sẽ tỏa khí nóng ra ngoài, cả một lò nung đều bị bao bọc trong làn khói mù mịt. Gió từ phía tây thoảng đến, kéo theo những luồng khí màu trắng đục bay về hướng đông. Hạc trọc tiến từng bước một thẳng vào làn khói này. Đến cuối cùng, nó leo lên một “núi” đất sét đã vào khuôn, bấy giờ nó đã hoàn toàn đứng trong làn khói. Thỉnh thoảng một làn gió mạnh thoảng qua, cuốn theo khói đi thì cơ thể của nó mới thấp thoáng hiện lên. Không ai nhìn thấy nó, và nó cũng chẳng nhìn thấy ai. Hạc trọc cảm thấy như vậy rất tốt, nên nó cứ ngồi đấy, để những khói trắng vừa nóng vừa ẩm ấy bao bọc lấy nó, vuốt ve nó…

(6)

Tết đã gần kề, trường tiểu học Du Ma Địa nhận được thông báo: Nhân dịp Tết đến, sẽ cử hành buổi trình diễn văn nghệ tập trung của 43 trường trung học và tiểu học của toàn hương. Loại hình biểu diễn này, cơ bản là năm nào cũng có.

Trường tiểu học Du Ma Địa từ sau khi có Tang Kiều lên làm hiệu trưởng thì mỗi năm đều giành được thứ hạng cao trong những cuộc biểu diễn quy mô lớn như thế. Giờ đây, trong ngôi nhà tranh to nhất được dùng làm văn phòng kia, đã treo đầy những huy chương nhận được từ sau các cuộc biểu diễn. Cũng vì vậy mà hễ đến những dịp này, trường Du Ma Địa đều không được phút giây yên ổn.

Từ lớp nhỏ đến lớp lớn, ai có tài diễn xuất đều sẽ bị chọn ra, ngày đêm diễn tập trong ngôi nhà tranh được dùng làm sân tập tạm. Có lúc trông thấy bọn trẻ đã mệt đến không thể mở mắt lên nữa thì Tang Kiều sẽ lại cầm dùi gióng thật mạnh vào trống, miệng thì kêu to: “Tỉnh táo lại! Tỉnh táo lên!” Thế là bọn trẻ vừa dụi dụi đôi mắt ngái ngủ vừa mơ mơ màng màng bước vào sân, những lúc như thế, chuyện quên lời thoại hoặc nói sai lời thoại là chuyện thường thấy. Ông nói gà bà nói vịt, cả bọn tức thì phá lên cười, và trong tiếng cười như thế, đứa đang trong trạng thái ngái ngủ ấy sẽ tự nhiên tỉnh người ra.

Tang Kiều ngoài việc rống cổ lên kêu réo thì đại đa phần thời gian, việc ông làm nhiều nhất vẫn là o bế dỗ ngọt những đứa trẻ có thể mang lại vinh dự cho trường tiểu học Du Ma Địa này. Những bạn học khác phải thường xuyên tham gia làm lao động trong nhà trường, còn chúng thì có thể không tham gia.

Mỗi khi khen thưởng cuối học kỳ, chúng luôn vì tham gia vào đội văn nghệ của trường mà được một số ưu ái. Kết thúc mỗi buổi tập thì trời đã sụp tối, Tang Kiều sẽ huy động các giáo viên đưa bọn trẻ về tận nhà. Và bản thân ông, việc cõng đứa trẻ trên lưng lội qua những con đường sình lầy trong thôn hay băng qua cây cầu độc mộc đã bị phủ băng, cũng là chuyện thường thấy.

Tang Tang và Chỉ Nguyệt đều là thành viên của đội tuyên truyền văn nghệ.

Vì năm nào cũng đạt được thứ hạng cao, nên đối với trường Du Ma Địa, việc tranh giành giải thưởng cao có thể nói là càng ngày càng khó.

“Năm nay quyết tâm phải giành được giải nhất trong khối tiểu học!” Tang Kiều triệu tập Tưởng Nhất Luân và một số giáo viên phụ trách mảng văn nghệ tuyên truyền vào phòng làm việc và nói một cách không cho thương lượng.

“Không có kịch bản hay.” Tưởng Nhất Luân nói.

“Không có thì đi tìm. Tìm không ra thì tự mình viết.” Tang Kiều đáp lại.

Tưởng Nhất Luân đi một chuyến vào huyện và tìm đến Hội quán văn hóa, mang về một vài kịch bản từ những bạn học cũ. Chiến lược của trường tiểu học Du Ma Địa là: Kịch người lớn, để trẻ con diễn, như thế sẽ tạo được hiệu quả bất ngờ. Tang Kiều nói: “Thầy thử nghĩ xem, một thằng nhóc tám chín tuổi, đội lên đầu cái mũ của ông lão, ngậm một tẩu thuốc, khòm lưng đi lại trên sân khấu, và một cô bé tám chín tuổi, mặc áo bà ba màu xanh, tay mang một chiếc giỏ, bàn tay đan vào nhau đứng trên sân khấu, chính bản thân chúng đã là một vở kịch.” Ông yêu cầu Tưởng Nhất Luân duy trì sách lược này của nhà trường.

Vậy nên, kịch bản mà Tưởng Nhất Luân mang về từ trên huyện đều là kịch của người lớn.

Sau khi xem xong, Tưởng Nhất Luân sẽ gửi lên cho Tang Kiều. Tang Kiều đọc xong lại đến tìm Tưởng Nhất Luân thương lượng, chọn ra hai câu chuyện ngắn trong số đó. Một trong hai cái đó là kịch bản mà Tang Kiều tâm đắc nhất, tên “Đồ Kiều”. Đồ Kiều là một địa danh. Thật ra thì nội dung rất bình thường: Một hôm, chợt có một liên đội quân Ngụy đi vào Đồ Kiều, chúng làm đủ chuyện xấu, hiếp đáp người dân, trong đêm đó, Tân tứ quân1 đã ép hết bọn chúng vào một hang ổ. Lý do Tang Kiều chấm kịch bản này là vì trong đó có rất nhiều tình tiết khiến người ta không nhịn được cười.

1. Tân tứ quân: đội lục quân cách mạng số 4.

Các vai diễn chính nhanh chóng được phân bổ đâu vào đấy, đội trưởng của Tân tứ quân do Đỗ Tiểu Khang nhập vai, thiếu nữ mười tám tuổi do Chỉ Nguyệt đảm nhận, Liên đội trưởng của quân Ngụy được giao cho Liễu Tam Hạ.

Tưởng Nhất Luân khắc kịch bản lên bảng thép rồi in ra mười mấy phần phân phát cho học sinh. Quy trình tiếp theo chính là, học lời thoại, trả lời thoại, nói lời thoại, diễn tập, chạy thử, biểu diễn chính thức.

Mọi thứ đều rất thuận lợi. Đỗ Tiểu Khang là cậu bé có phong thái thoải mái và bảnh bao nhất trong bọn trẻ, vào vai đội trưởng phong độ là thích hợp vô cùng. Chỉ Nguyệt diễn vai thiếu nữ xinh đẹp có nét yếu đuối khiến người khác nhìn là thương xót, không ai dám có ý kiến, đấy giống như là tương lai của Chỉ Nguyệt vậy, Chỉ Nguyệt khi trở thành thiếu nữ mười tám tuổi, chắc hẳn cũng sẽ như thế. Liễu Tam Hạ cũng khá nhập vai, dáng vẻ lưu manh được cậu bé biểu diễn rất đạt.

Chờ đến khi buổi diễn thử kết thúc, Tưởng Nhất Luân mới đột nhiên phát hiện ra một vấn đề mà anh đã suy nghĩ không chu toàn: Trong kịch bản, vị liên trưởng của quân Ngụy ấy là một tên trọc đầu. Hắn nhất định phải là một tên đầu trọc, bởi vì lời thoại và lời ca trong đó có rất nhiều câu đều liên quan đến cái đầu trọc của hắn, thậm chí ngay cả kịch bản cũng có nói đến đầu trọc. Nếu như người vào vai có tóc thì kịch bản này sẽ không đúng nữa. Hay nói khác đi, kịch bản này thành công chính là vì liên trưởng ở trong ấy không phải một liên trưởng bình thường, mà là một liên trưởng đầu trọc.

Tang Kiều cũng phải đến lúc này mới phát hiện, những tình tiết hài hước trong kịch bản được ông chấm trước đó, hóa ra đều là vì vị liên trưởng không có tóc này.

“Làm sao đây?” Tưởng Nhất Luân hỏi. “Khó đấy.”

“Thôi thì cứ xem như Liễu Tam Hạ là một thằng nhóc đầu trọc vậy.”

“Dẹp suy nghĩ đó đi, tóc của nó mọc đầy ra đó, chỉ cần nó đứng lên sân khấu thì người ta không cần nhìn mặt nó nữa, tóc của nó đã thu hút hết mọi ánh nhìn rồi.” Tang Kiều vừa tưởng tượng vừa nói, “Nó đứng trên sân khấu, đưa tay hất tung chiếc mũ ra nói lớn: Dương đại trọc ta cưỡi ngựa đến Đồ Kiều này...”

Tưởng Nhất Luân bất chợt phì cười.

Tang Kiều nói: “Cách cũ vậy, đi tìm cái bong bóng heo đội lên.”

“Biết đi đâu tìm bong bóng heo đây?” “Kiếm lão mổ heo Đinh Tứ.”

“Đinh Tứ không dễ nói chuyện.” “Tôi đi tìm ông ta.”

Hôm sau, Tang Kiều mang từ nhà Đinh Tứ về một cái bong bóng heo.

Liễu Tam Hạ đưa lên mũi ngửi ngửi, mặt mũi lập tức chụm vào nhau: “Khai!”

Tang Kiều bảo: “Không khai thì không gọi là bong bóng heo nữa.” Ông đi tới gần, cầm lấy bong bóng heo rồi từ từ đội lên đầu của Liễu Tam Hạ, tựa như một trưởng quan đội quân mũ cho thuộc hạ vừa lập đại công vậy.

Liễu Tam Hạ tức thì biến thành một đứa đầu trọc. Thế là, mọi người đột nhiên cảm thấy kịch bản “Đồ Kiều” như sống động hẳn lên.

Buổi tổng duyệt bắt đầu, đang đến hồi gay cấn thì bong bóng heo thình lình bị bể, tóc của Liễu Tam Hạ nhỏm lên. Nhìn thấy hình tượng ấy, không một ai là không cười lăn cười bò.

Tang Kiều bèn đi tìm Đinh Tứ lần nữa, nhưng sau hai lần sử dụng, bong bóng heo ấy vẫn bị bể.

“Đến tìm Đinh Tứ lấy thêm cái nữa.” Tưởng Nhất Luân nói.

Nhưng Tang Kiều lại bảo: “Đến xin nhỏ nhẹ thì ông ấy cũng sẽ cho. Nhưng chúng ta không thể dùng bong bóng heo nữa, nhỡ như trong buổi biểu diễn, đang diễn nửa chừng nó lại bể thì sao?”

“Ý thầy là bảo Liễu Tam Hạ cạo đầu?” “Cũng chỉ còn cách này thôi.”

Tưởng Nhất Luân đến nói với Liễu Tam Hạ, cậu bé vừa nghe hết câu thì lập tức dùng hai tay che kín đầu của mình lại: “Không được, em không muốn thành Hạc trọc,” giống như cái mà người ta cạo không phải là tóc của nó mà là cắt luôn đầu của nó vậy.

“Thầy hiệu trưởng nói vậy đấy.”

“Thầy hiệu trưởng nói thì cũng không được. Sao hiệu trưởng không kêu Tang Tang cạo đầu đi?”

“Tang Tang chơi nhị hồ mà, nó đâu phải diễn viên.” “Tóm lại là em không cạo đầu đâu.”

Tang Kiều đến nói chuyện nửa ngày trời mới thuyết phục được Liễu Tam Hạ, song buổi chiều khi vào lớp, Liễu Tam Hạ lại chối từ: “Ba của em kiểu nào cũng không chịu. Ba nói còn mấy ngày nữa là đón Tết rồi, em không thể đón Tết với cái đầu không có tóc.”

Tang Kiều đành đi tìm ba của Liễu Tam Hạ. Ba của cậu bé là một người có tiếng cố chấp ở trong thôn, mặc cho Tang Kiều nói khô cả họng, ông cũng chỉ trả lời lại một câu: “Không ai được động vào một sợi tóc nào của Tam Hạ nhà này hết!”

Ngày biểu diễn đã gần kề, trên dưới trường tiểu học Du Ma Địa đều khổ não vì phải tìm một người trọc đầu. “Đành bỏ kịch bản này vậy.” Tang Kiều nói.

“Bỏ sao? E là sẽ không giành được giải nhất, kịch bản này hay nhất trong số đó rồi.” Tưởng Nhất Luân nói.

“Không còn cách khác, đành vậy thôi.”

Chẳng bao lâu, học sinh của trường tiểu học Du Ma Địa bắt đầu truyền tai nhau: “Không đóng ‘Đồ Kiều’ nữa.” Mọi người đều cảm thấy tiếc nuối.

Hạc trọc ngồi ở một bên lặng lẽ lắng nghe, không nói một lời. Buổi chiều, khi học sinh đều đã tan học về nhà thì Hạc trọc đi đi lại lại một mình trước cổng trường. Khi trông thấy Tang Tang bước ra khỏi nhà nó liền gọi: “Tang Tang.” “Bạn còn chưa về nhà sao?”

“Mình sẽ về ngay. Nhưng bạn giúp mình gửi mẩu giấy này cho thầy Tưởng được không?”

“Có chuyện gì sao?”

“Bạn mặc kệ đã. Bạn cứ đưa cho thầy trước.” “Thôi được.” Tang Tang nhận lấy mẩu giấy.

Hạc trọc quay người rời khỏi trường, chẳng mấy chốc đã biến mất trong hoàng hôn.

Tưởng Nhất Luân mở mảnh giấy Hạc trọc gửi cho mình ra, bên trong là những dòng chữ ngay ngắn:

“Thưa thầy Tưởng,

Có thể cho em thử không?

Lục Hạc.”

Tưởng Nhất Luân ban đầu cảm thấy có hơi tức cười, song chỉ tích tắc sau bàn tay cầm mảnh giấy ấy đã khẽ run lên.

Khi Tang Kiều nhìn thấy mẩu giấy này, nhất thời cũng không nói nên lời, nửa ngày sau mới thốt lên được vài chữ: “Nhất định phải cho nó thử.”

Hạc trọc chưa từng diễn kịch. Nhưng Hạc trọc quyết tâm diễn tốt vai này. Nó dùng tốc độ ngoài sức tưởng tượng học thuộc nằm lòng tất cả những câu thoại trong kịch bản.

Không rõ là vì Hạc trọc vốn dĩ đã có tài năng diễn kịch, hay vì nó có xem các bạn diễn tập, tóm lại nó chỉ dùng một buổi sáng đã nhập vào nhân vật.

Hai ngày trước buổi biểu diễn, trường tiểu học Du Ma Địa đã có buổi tổng duyệt những tiết mục mà trường sẽ đi dự thi cho toàn trường xem trước, khi Hạc trọc bước lên sân khấu, cả trường đều vỗ tay ầm trời, đó là tiếng vỗ tay không có ác ý.

Hạc trọc muốn diễn thật tốt nhân vật này. Nó mang hết trang phục và đạo cụ của nhân vật về nhà. Buổi tối, nó mặc trang phục vào, tưởng tượng mình chính là liên trưởng của quân Ngụy, sau đó đứng ngoài sân nhà, mượn nguồn sáng từ ánh trăng, không ngừng diễn tập:

Tiểu cô nương, mau trưởng thành, Trưởng thành rồi thì theo liên trưởng, Vừa có ăn vừa có mặc, Còn có đại dương dùng mãi không hết…

Nó treo mũ trên tay, để lộ quả đầu láng bóng, nó tưởng tượng Chỉ Nguyệt đang ở ngay trước mặt mình, bản thân thì đi vòng quanh Chỉ Nguyệt theo một hình tròn, vừa đi vừa nhẩm các bước. Vị liên trưởng ấy xuất hiện vào mùa hè. Vậy nên Hạc trọc đã ăn mặc như mình đang sống trong ngày hè. Song hiện giờ lại đang là mùa đông, hơi lạnh thấu xương. Hạc trọc không quan tâm, nó cứ thế đi vòng, cứ thế làm đi làm lại những động tác ấy, bất giác trên trán đã thấm đẫm mồ hôi.

Đến ngày chính thức trình diễn trên sân khấu thì Hạc trọc đã có đầy lòng tin. “Đồ Kiều” ngay từ giây phút bắt đầu đã giành hết tiếng vỗ tay của khán giả bên dưới sân khấu. Khi Hạc trọc vứt chiếc mũ của mình cho tên lính hậu cần, và quả đầu trọc của nó phát sáng dưới ánh đèn, thì ban giám khảo đều đã cảm nhận được, Tang Kiều sẽ lại giành được một thứ hạng cao đây.

Hạc trọc diễn rất tỉ mỉ. Nó đi giày ống da khổ lớn, một chân đạp trên ghế, tay nhấc ấm trà trên bàn lên rót thẳng vào miệng, nước lan ra ngoài chảy hết xuống cổ, còn nó thì thình lình nghiêng đầu qua một cái, hai mắt nhìn đau đáu nói: “Dương đại trọc ta, cưỡi ngựa đến Đồ Kiều này…”

Khi xoay vòng cùng Chỉ Nguyệt, một người thì hung ác, một người thì lương thiện; kẻ thì xấu xí, người thì xinh đẹp, sự đối nghịch này vô cùng rõ rệt. Có thể nói, vai này đã được Hạc trọc diễn đến tuyệt đỉnh.

Kết thúc buổi diễn, giáo viên và học sinh trường Du Ma Địa chỉ một lòng chìm đắm trong niềm vui thắng lợi, đến khi họ chợt nhớ đến Hạc trọc, thì Hạc trọc sớm đã biến mất.

Hỏi đến, ai cũng nói không biết Hạc trọc đã đi đâu.

“Tất cả chia nhau đi tìm mau.” Tang Kiều nói.

Tang Tang là người đầu tiên tìm thấy Hạc trọc. Khi ấy, Hạc trọc đang ngồi trên bậc thềm thấp nhất ở bến cầu, nhìn chăm chú xuống vầng trăng đang bị nước sông làm cong cong quẹo quẹo.

Tang Tang đi tới gần nó, ngồi xuống cạnh nó: “Mình đến đây là để tìm bạn, mọi người đều đang tìm bạn.”

Tang Tang nghe thấy tiếng khóc thút thít của Hạc trọc.

Rất nhiều giáo viên và học sinh của trường Du Ma Địa đều đã tìm đến nơi này. Họ cùng bước xuống bậc thềm, nói với Hạc trọc: “Chúng ta về nhà thôi.”

Tang Kiều đến vỗ vai nó: “Đi, về nhà thôi.”

Hạc trọc cắn chặt ngón tay, nó muốn kìm nén không để mình bật khóc thành tiếng, nhưng tiếng khóc vẫn đã vùng vẫy khỏi sự khống chế mà tuôn ra khỏi cổ họng, cơ hồ biến thành tiếng khóc nức nở.

Chỉ Nguyệt đã khóc, rất nhiều đứa trẻ cũng đã khóc.

Ánh trăng trong vắt phản chiếu xuống mặt hồ, soi sáng từng gương mặt của thầy trò trường tiểu học Du Ma Địa, cũng đã soi sáng vị thiếu niên anh tuấn nhất trên thế giới…