(1)
Khi bà ngoại của Chỉ Nguyệt dắt tay cô bé xuất hiện ở trước cửa nhà Tang Tang thì đó là một buổi chiều mùa thu. Lúc ấy, Tang Tang đang cho đàn bồ câu trắng phau của nó ăn. Bồ câu trắng cảm nhận được có người lạ, hốt hoảng bay đi mất, Tang Tang liền nhìn lên và thấy Chỉ Nguyệt: Cô bé bị đàn bồ câu chợt tung bay, đập cánh rất mạnh làm hoảng hồn nên níu chặt tay của bà ngoại, nép sát vào người bà, cổ rúc vào vai, mắt cũng chỉ mở hi hí, như sợ sẽ bị đôi cánh của chúng đập trúng.
Đàn bồ câu dang cánh lượn lờ trên bầu trời, bấy giờ đang là thời khắc đẹp nhất của mùa thu, khi chúng lướt qua bầu trời, cả bầu trời đều toát lên một màu trắng mê hồn. Chúng mày thật là, sao lại có thể sinh hứng biểu diễn khi nhìn thấy người lạ kia chứ, chúng dang rộng đôi cánh, hoặc sẽ cùng nhau lượn vòng hoặc sẽ tập thể xòa xuống, rồi lại thình lình lướt lên cao.
Tang Tang nhìn thấy một gương mặt hơi hơi ngước nhìn lên bà ngoại, đôi mắt đen láy thật long lanh.
Đàn bồ câu cuối cùng cũng cùng nhau hạ cánh lượn xuống mặt đất và lần lượt đáp chân tại sân vườn, miệng kêu “cục cục”.
Chỉ Nguyệt đã bớt sợ, từ từ buông lỏng cánh tay của bà, nét mặt hớn hở lại như rất hiếu kỳ nhìn đàn bồ câu trắng trước mặt.
“Ở đây có phải nhà của thầy hiệu trưởng Tang không?” Bà ngoại của Chỉ Nguyệt hỏi.
Tang Tang gật đầu.
“Cháu là Tang Tang?” Bà ngoại của Chỉ Nguyệt dắt tay cháu gái tiến lên một bước.
Tang Tang lại gật gật đầu. Nhưng lại dùng ánh mắt nghi hoặc nhìn bà ngoại của Chỉ Nguyệt, ý nói: Sao bà lại biết cháu tên là Tang Tang?
“Ai cũng biết nhà thầy hiệu trưởng Tang có một đứa con trai rất bảnh bao, tên là Tang Tang.”
Tang Tang chợt cảm thấy bất an, vì nó nhìn thấy dáng vẻ của mình hiện giờ: Không mang giày, hai chân dơ bẩn; lưng quần miễn cưỡng được giữ lại nhờ xương hông, một bên ống quần lê lết trên mặt đất, ống còn lại thì xắn lên đến đầu gối; áo thì do đánh nhau với người khác nên ngay cả nút cũng đã bị bung mất, hai bên túi áo bị xé mất một bên, đang lủng lẳng nhờ sợi chỉ mỏng manh cuối cùng.
“Ba của cháu có nhà không?” Bà ngoại của Chỉ Nguyệt hỏi. “Có.” Tang Tang thừa cơ hội chạy nhanh vào nhà, “Ba, có người tìm.”
Tang Kiều đi ra sân nhà. Ông quen biết bà ngoại của Chỉ Nguyệt, nên đã vui vẻ mời cả hai vào nhà ngồi.
Chỉ Nguyệt vẫn còn nắm lấy tay bà ngoại, nhấc chân nhè nhẹ, mắt vẫn chú ý đàn bồ câu như sợ làm kinh động đến chúng. Song bọn bồ câu đã không còn sợ Chỉ Nguyệt nữa, thậm chí có một con còn cả gan bước tới đớp một hạt bắp ở cạnh chân của Chỉ Nguyệt. Chỉ Nguyệt vội vàng dừng bước, mãi đến khi bà ngoại kéo tay một cái cô bé mới nép người sang một bên đi nhè nhẹ vào nhà.
Tang Tang không đi vào theo, nhưng tai thì dỏng lên chú ý lắng nghe đoạn đối thoại bên trong nhà…
“Con bé tên là Chỉ Nguyệt.” “Cái tên hay đấy.”
“Tôi muốn cho Chỉ Nguyệt chuyển đến trường của thầy.” “Sao thế?”
Chần chừ một lúc, bà ngoại của Chỉ Nguyệt nói: “Cũng không có lý do gì. Chỉ là con bé không muốn đi học ở trường Bản Thương nữa.”
“Chuyện này e là không được. Trên kia có quy định, trẻ em phải đi học tại trường của địa phương. Chỉ Nguyệt theo lý phải học ở trường tiểu học Bản Thương. Huống chi, con bé đi học ở bên này cũng không tiện, từ Bản Thương đến Du Ma Địa những một cây số rưỡi đấy.”
“Nó đi được.”
Trong nhà không còn tiếng động gì nữa. Một lúc sau, bố Tang Tang nói: “Bà cho tôi một bài toán khó rồi.”
“Cho nó học ở bên này đi. Đứa nhỏ không muốn học ở bên đó nữa.”
“Chỉ Nguyệt.” Tang Kiều hỏi, “Đường xa như vậy, con có đi nổi không?”
Vài giây sau, Chỉ Nguyệt đáp: “Con đi được.”
Một lúc sau, bố Tang Tang nói: “Chúng ta thương lượng sau vậy.”
“Vậy tôi và Chỉ Nguyệt xin cảm ơn thầy trước.”
Ngay sau đó Tang Tang chợt nghe thấy giọng nói đầy kinh ngạc của ba mình: “Ôi thưa bà, đừng như vậy, đừng như vậy!” Tang Tang chạy tới trước cửa lẻn nhìn vào trong, chỉ thấy bà ngoại đang kéo tay Chỉ Nguyệt quỳ xuống trước mặt ba của mình, còn ba thì đang cố can ngăn.
Tiếp đó, Tang Tang nghe thấy tiếng khóc thút thít của bà ngoại và Chỉ Nguyệt.
Tang Tang ngồi xổm dưới đất, nhìn đàn bồ câu trong thơ thẩn.
Ba nói: “Hai ngày nữa là khai giảng, bà cứ cho cháu qua đây vậy.”
Chỉ Nguyệt và bà ngoại cùng rời khỏi nhà, trở ra sân vườn, ngay lúc họ chuẩn bị ra khỏi cổng nhà thì mẹ của Tang Tang tình cờ xách theo giỏ rau từ bên ngoài trở về. Mẹ Tang Tang vừa nhìn thấy Chỉ Nguyệt thì đã thích ngay: “Con bé thật ngoan và khôn khéo.”
Người lớn lại chụm vào nhau thảo luận về việc Chỉ Nguyệt chuyển trường. Mẹ nói: “Nếu gặp phải hôm trời mưa, Chỉ Nguyệt cứ việc đến nhà tôi ăn tối và ngủ lại.” Mẹ nhìn Chỉ Nguyệt, ánh mắt chứa đầy tình yêu thương. Song khi bà chợt lườm qua Tang Tang thì lại trầm giọng: “Tang Tang, hãy nhìn Chỉ Nguyệt kia kìa, người ta từ đầu đến chân đều sạch sẽ gọn gàng, con nhìn bàn tay của con kìa, chặt ra đưa cho con chó ngoài chợ nó cũng không thèm.”
Tang Tang và Chỉ Nguyệt liền cùng giấu bàn tay ra sau lưng. Chỉ khác nhau là, thứ mà Tang Tang muốn giấu là một bàn tay đen thui đầy đất bẩn, còn thứ mà Chỉ Nguyệt giấu đi lại là một bàn tay trắng nõn sạch sẽ.
Sau khi Chỉ Nguyệt cùng bà ngoại về nhà thì ba mẹ của Tang Tang vẫn tiếp tục nói chuyện của gia đình Chỉ Nguyệt. Thế là Tang Tang ngồi bên cạnh lắng nghe, tự mình mang những câu nói không liên tục của ba mẹ ghép lại thành một câu chuyện hoàn chỉnh:
Mẹ của Chỉ Nguyệt là người phụ nữ xinh nhất trong khu vực. Về sau, bà mang thai, bụng ngày một căng tròn. Nhưng không một ai biết đứa trẻ ấy là con của ai, bản thân bà cũng không chịu nói, chỉ lẳng lặng để yên cho sinh mạng trong bụng mình ngày một lớn lên. Bà ngoại của Chỉ Nguyệt cũng dường như không mấy trách móc mẹ của Chỉ Nguyệt, chỉ im lặng làm những việc cụ cho là nên làm.
Mẹ của Chỉ Nguyệt dù mang thai nhưng vẫn đẹp, chỉ có sắc mặt ngày một xanh xao và hốc mắt ngày càng sâu đi. Bà không thường xuyên ra khỏi cửa nhà, thời gian của bà chỉ dành để ngồi trong nhà may quần áo cho Chỉ Nguyệt ở trong bụng. Bà thêu lên quần áo ấy loại hoa mà bà thích nhất, từng mũi từng sợi chỉ đều là cả tấm lòng của bà.
Đến mùa thu, khi thửa cúc dại nở ra những đóa hoa màu vàng và tím nhạt thì Chỉ Nguyệt ra đời. Một tháng sau, vào một buổi hoàng hôn, mẹ của Chỉ Nguyệt đã bỏ nhà đi. Hai ngày sau, người ta tìm thấy bà tại một góc sông mọc đầy thạch xương bồ. Kể từ hôm đó trở đi, bà ngoại của Chỉ Nguyệt, đã kiêm cả vai trò làm mẹ, từng ngày một trôi qua, bà vẫn cắn răng nuôi dưỡng Chỉ Nguyệt nên người.
Còn về lý do vì sao Chỉ Nguyệt muốn chuyển đến trường tiểu học Du Ma Địa, ba của Tang Tang đã suy đoán như sau: “Chắc chắn là có người bên trường Bản Thương đã hiếp đáp Chỉ Nguyệt.”
Mẹ của Tang Tang nghe vậy, bèn tựa người vào cạnh cửa, thở một hơi thật dài…
(2)
Tang Tang nói với mẹ rằng nó muốn có một chiếc áo mới, lý do là gần khai giảng rồi, theo lẽ nó phải có một cái áo mới.
Mẹ nó bảo: “Mặt trời mọc lên từ hướng tây rồi sao, con cũng biết xin quần áo mới ư.” Miệng tuy nói thế, nhưng bà vẫn đi ngay vào trấn mua về một khúc vải rồi dẫn Tang Tang đến nhà thợ may may một chiếc áo mới cho nó, còn đặc biệt yêu cầu người ta làm càng nhanh càng tốt.
Buổi chiều của một ngày trước khi nhập học, Tang Tang đã chạy ra bến cầu, cởi áo vứt trên bãi cỏ gần đó rồi hứng nước dưới sông. Nay đã là mùa thu, nước sông khá lạnh, Tang Tang rùng mình nhảy tưng tưng bên bờ, nhưng lại không màng hàm răng đang run lập cập mà cất giọng hát bài đồng dao quen thuộc:
Chị mười lăm còn con mười sáu, Mẹ sinh chị còn con nấu cháo, Ba thì ngủ trong chiếc võng đu, Không có sữa ba nhìn con khóc.
Nhớ lúc ông ngoại cưới bà ngoại, Con đang đứng trên cầu đốt pháo.
Có người bật cười, bèn gọi mẹ của Tang Tang ra nhìn: “Chị xem Tang Tang nhà chị đang làm gì kìa.” Mẹ của Tang Tang đi ra bờ sông, không rõ là vì dáng vẻ của Tang Tang quá hài hay là vì bài đồng dao mà Tang Tang hát quá mắc cười, bà không giữ nghiêm mặt được nữa mà nói: “Thằng khỉ con này, lạnh chết bây giờ!”
Tang Tang quay lại nhìn mẹ rồi cầm xà phòng lên chà khắp người, miệng vẫn không ngừng hát.
Mẹ của Tang Tang bước tới định kéo tay Tang Tang, ngờ đâu Tang Tang thừa cơ ngã ra phía sau, rơi thẳng xuống sông.
Đến khi cảm thấy mình đã sạch sẽ rồi, Tang Tang mới chịu leo lên bờ. Giờ đây, đứng ở trước mặt bà, Tang Tang đã là một cậu bé sạch sẽ nước da đỏ hồng do sức tẩy rửa của nước sông, trên người không còn một hạt bụi bẩn. Tang Tang mặc áo vào xong thì nói: “Con đi lấy áo trắng của con đây.”
Áo của Tang Tang bị gác sang một bên, người ta chưa may xong. Thế là Tang Tang ngồi luôn trước cửa nhà người ta để chờ. Thợ may thấy thế đành dừng công việc trong tay chuyển sang may áo cho nó trước. Mãi đến khi áo trắng đã cầm trên tay, Tang Tang mới chịu về nhà, bấy giờ trời đã sụp tối, trong thôn đã sáng đèn. Về đến nhà, Tang Tang bị mẹ cầm đũa gõ lên đầu một cái: “Con thật là, như là chờ không được vậy.”
Hôm sau, khi Tang Tang đi ngang phòng giáo vụ chuẩn bị đến trường thì bị Ôn Ấu Cúc – đang đổ bã thuốc xuống hồ nước - phát hiện, cô kinh ngạc hỏi: “Ấy ấy, Tang Tang, em định làm gì thế kia?”
Lúc ấy, giáo viên đều đang chuẩn bị lên lớp, nhìn thấy một đứa ngày thường không hề thiếu sình lầy trên người thậm chí ngay cả mặt cũng không muốn rửa như Tang Tang, hôm nay đột nhiên ăn mặc chỉnh tề thì đều vây đến xem. Chu Hằng, cô giáo dạy môn Văn lớp Sáu hỏi: “Tang Tang, có người đến xem mắt sao?”
Tang Tang đáp lại: “Hớ.” Bản thân nó cũng cảm thấy áo trắng của nó quả thật là quá trắng rồi, bèn đi nhanh vào phòng học. Vào đến lớp, Tang Tang lại bị bạn bè cười trêu. Chẳng biết là ai đã kêu lên một tiếng “Bé áo trắng”, thế là toàn thể liền hùa nhau reo gọi một cách nhịp nhàng: “Bé áo trắng! Bé áo trắng!...”
Đến khi thấy Tang Tang như sắp nổi nóng thì chúng mới chịu ngưng lại.
Mười lăm phút trước khi vào giờ học, trong lúc lớp học ồn ào đến mức không nghe thấy rõ một câu nói của bất kỳ ai thì Tưởng Nhất Luân dẫn theo Chỉ Nguyệt xuất hiện ở cửa lớp. Cả lớp tức thì lặng thinh. Mọi người đều cùng nhìn về Chỉ Nguyệt: Chỉ Nguyệt mặc trên người chiếc áo màu tím đỏ có tay áo rộng, bên dưới là quần màu xanh với cặp ống hơi ngắn, ba lô màu xanh lục đậm có thêu hình hoa sen, đôi mắt nhìn mọi người trong lớp với vẻ sợ sệt.
“Đây là bạn mới của các em, tên là Chỉ Nguyệt.” Tưởng Nhất Luân nói.
“Chỉ Nguyệt? Bạn ấy tên là Chỉ Nguyệt.” Bọn trẻ trong lớp bắt đầu lẩm bẩm cái tên trong miệng.
Cũng chính từ hôm đó, Chỉ Nguyệt trở thành bạn học của Tang Tang, mãi cho đến đầu học kỳ hai của năm lớp sáu, khi Chỉ Nguyệt đột nhiên rời khỏi ngôi nhà tranh ấy.
Chỉ Nguyệt sau khi ổn định chỗ ngồi thì nhìn Tang Tang một cái, khi ấy Tang Tang đang nằm bò trên cửa sổ nhìn đàn bồ câu của nó.
Việc Chỉ Nguyệt đến học tại trường tiểu học Du Ma Địa đã khiến bọn trẻ ít nhiều cảm thấy lạ lùng: Vì sao bạn ấy phải chạy đến đây học nhỉ? Song chỉ vài ngày sau thì chúng không còn đặt tâm tư vào vấn đề này nữa, phảng phất như Chỉ Nguyệt vốn dĩ là một thành viên trong lớp của chúng vậy. Còn về phía Chỉ Nguyệt, sau vài ngày đầu nhút nhát, cô bé cũng dần hòa đồng với các bạn. Ban đầu thì nói chuyện với các bạn nữ, sau đó cũng bắt đầu nói chuyện với bạn nam, mọi thứ đều diễn ra rất bình thường. Duy chỉ có một điểm kỳ lạ: Chỉ Nguyệt vẫn chưa nói chuyện với người mà cô bé gặp đầu tiên, cũng tức là Tang Tang. Còn Tang Tang thì sao? Cũng không hề có ý định chủ động nói chuyện với Chỉ Nguyệt. Tuy nhiên, điều này cũng không phải vấn đề gì. Tóm lại là, Chỉ Nguyệt cảm thấy đi học ở trường Du Ma Địa rất vui, gương mặt vốn xanh xao của cô bé giờ đây luôn luôn ửng hồng.
Không lâu sau, mọi người còn biết được một điều: Hóa ra Chỉ Nguyệt rất giỏi. Chỉ Nguyệt viết chữ thư pháp có thể nói là đẹp nhất trong số học sinh của trường tiểu học Du Ma Địa. Thầy Tưởng Nhất Luân chỉ hận không thể vẽ vòng tròn màu đỏ lên tất cả các chữ trong vở luyện chữ của Chỉ Nguyệt.
Tang Kiều là người viết thư pháp giỏi nhất trong số giáo viên trong trường. Ông lật xem cuốn vở luyện chữ Tưởng Nhất Luân mang đến, không khỏi khen ngợi: “Chữ của con bé rất có nét, không kiêu không vội, có lai lịch đấy.” Sau đó ông bảo Tưởng Nhất Luân gọi Chỉ Nguyệt đến gặp mình rồi hỏi: “Ai dạy con viết chữ vậy?” Chỉ Nguyệt nói: “Không có người dạy.” Sau khi Chỉ Nguyệt rời khỏi, Tang Kiều cảm thấy kỳ lạ, ông nói với Tưởng Nhất Luân: “Đâu thể nào như vậy.” Một hôm, Tang Kiều đứng ở phía sau nhìn Chỉ Nguyệt viết chữ, ông quan sát cho đến khi Chỉ Nguyệt viết xong một trang giấy, trong lòng thầm nghĩ: “Đứa bé này từ tướng ngồi cho đến cách cầm bút, vận bút, đều vô cùng có quy tắc và cầu toàn, không thể nào là bẩm sinh.” Về sau, Tang Kiều nghe Tưởng Nhất Luân nói lại mới biết được thêm: Tiểu Chỉ Nguyệt này còn biết đọc rất nhiều thơ cổ. Những bài thơ trong sách Văn học hiện nay, cô bé sớm đã biết hết, hơn nữa còn đọc rất trôi chảy. Tưởng Nhất Luân còn mang bài tập làm văn của Chỉ Nguyệt cho Tang Kiều xem. Tang Kiều cảm thấy bài viết này tuy vẫn mang hơi hướng của trẻ con, nhưng đằng sau những dòng chữ này, lại có một linh khí và khí chất nho nhã mà những đứa trẻ bình thường khác không hề có. Tất cả những thứ này đều khiến Tang Kiều cảm thấy khó hiểu vô cùng. Ông từng hỏi thăm giáo viên của trường Bản Thương, song những giáo viên ở đó cũng không thể cho ông một lời giải đáp.
Dù vậy, trong lòng Tang Kiều vẫn đã thầm vui mừng: Trường Du Ma Địa đã nhận vào một cô bé rất khá.
Chỉ Nguyệt không hề kiêu ngạo. Thậm chí cô bé không cảm thấy mình có điểm nào hơn những bạn học khác, dáng vẻ sắc thái đều rất hòa nhã. Chỉ Nguyệt khiến cho toàn bộ giáo viên của trường Du Ma Địa cảm thấy, có lẽ đến hết cuộc đời này, Chỉ Nguyệt cũng sẽ là một cô gái thư sinh yếu ớt, ít lời, trong sáng và dịu dàng như thế.
Đối với Tang Tang, không thể nói là Chỉ Nguyệt không hề nói với nó một câu nào. Chẳng qua cô bé không nói bằng miệng, mà nói bằng ánh mắt thôi.
Ví dụ khi Tang Tang xếp bàn lên bàn, lại xếp bàn lên bàn, cuối cùng còn chồng lên đó một chiếc ghế rồi từ từ nhẹ nhàng leo lên đỉnh cao nhất tưởng tượng như mình đang biểu diễn xiếc, thì Chỉ Nguyệt sẽ ngửa mặt nhìn lên cao, hai tay nắm chặt đặt bên dưới cằm, đôi mắt mở to, nét mặt khẩn trương và lo lắng.
Lúc ấy, nếu như Tang Tang nhìn thấy cặp mắt ấy thì sẽ như nghe ra được lời nói bên trong đó, rằng: “Tang Tang, cậu mau xuống đi, mau bước xuống đi.”
Lại ví dụ như khi Tang Tang bẻ một củ cà rốt từ dưới ruộng lên, chà chà lên tay áo rồi đưa thẳng vào miệng nhai rồn rột, một khi Chỉ Nguyệt nhìn thấy, cặp chân mày sẽ nhíu lại một cách không dễ phát giác, miệng hơi hé mở và mắt thì nhìn Tang Tang. Khi ấy, nếu như Tang Tang nhìn thấy đôi mắt ấy, sẽ nghe thấy Chỉ Nguyệt nói: “Tang Tang, cà rốt chưa rửa sạch sẽ mà cũng ăn được sao?” Lại ví dụ những lúc Tang Tang dùng hết thời gian của mình để vui chơi, không kịp làm bài tập toán thầy giao về nhà, định lấy tập của bạn bên cạnh qua chép, một khi Chỉ Nguyệt nhìn thấy thì tròng đen mắt sẽ di chuyển về khóe mắt mà nhìn Tang Tang. Bấy giờ, nếu Tang Tang nhìn thấy cặp mắt ấy, chắc chắn sẽ nghe ra lời nói của Chỉ Nguyệt: “Tang Tang, chuyện như vậy mà cũng làm được sao?” Lấy thêm một ví dụ, khi Tang Tang chơi bóng rổ với người khác, tay bị đối phương cắn đến chảy máu mà cũng không buông lỏng quả bóng trong tay, còn kiên trì ném nó vào rổ, Chỉ Nguyệt nếu nhìn thấy, những chiếc răng trắng tinh nhỏ nhắn ấy sẽ bất giác cắn chặt bờ môi, và bên dưới đôi mắt cong tròn ấy, như đang nhún nhảy những đốm sáng dưới ánh mặt trời. Lúc này, nếu như Tang Tang nhìn thấy được đôi mắt ấy, ắt sẽ hiểu Chỉ Nguyệt đang nói: “Tang Tang, cậu thật là giỏi!”
Những ngày tháng ấy, một Tang Tang ăn không có dáng ăn, đi không có dáng đi kia, bất chợt yên lặng một cách kỳ lạ, và dường như còn có thêm vài phần ôn hòa. Mẹ của Tang Tang cảm thấy khó hiểu, cuối cùng khi một lần nữa nhìn thấy Tang Tang nhà mình không còn ăn cơm trộn với canh, lại còn ăn đến hạt cơm cuối cùng mới buông đũa đi thăm đàn bồ câu thì bà cũng không cầm được lòng mà cảm thán với chồng mình: “Tang Tang nhà chúng ta sao lại trở nên lịch sự thế này?”
Lúc đó, Liễu Liễu em cậu đang ăn cơm trộn với canh quay qua nhìn mẹ và khoe to: “Anh hai không còn giành ăn bánh với con nữa.”
(3)
Một buổi chiều của đầu đông, gió Bắc ngày một mạnh hơn, đến gần giờ tan học thì bầu trời vụt tối sầm lại. Đàn bồ câu đang kiếm ăn ở bên ngoài nhà của Tang Tang kinh hoàng, tức tốc bay khỏi mặt đất lượn vòng trên bầu trời, chúng bị gió lớn thổi tung như những chiếc lá úa yếu ớt, lại hối hả bay trở về ngôi nhà tranh. Cây dương liễu phát ra tiếng sột soạt trong gió, sợi dây thừng lủng lẳng trên cột cờ không ngừng quật mạnh như đang đánh roi vào thân cột, phát ra âm thanh “bạch bạch”. Bọn trẻ ngồi trong lớp học vừa hưng phấn lại vừa sợ hãi, thầy cô giảng những gì chúng không còn chú ý lắng nghe nữa, trong lòng chỉ đang lo nghĩ: Về nhà bằng cách nào đây? Tang Kiều rời khỏi phòng làm việc, hớp phải vài ngụm gió Bắc thì liền nhanh tay cài lại nút áo, đưa mắt nhìn lên bầu trời như đang đè ngay trên đỉnh đầu, ông vội chạy đến từng lớp mà nói: “Tan học ngay!”
Chẳng mấy chốc, tất cả các lớp học đều đã mở cửa ra, bọn trẻ nhét đại sách vở và hộp bút vào cặp rồi kêu lên í ới, hoặc là sẽ gọi tên những người bạn về cùng đường rồi lũ lượt chạy ra khỏi trường, hệt như là đang trốn chạy kiếp nạn vậy.
Khi Chỉ Nguyệt thu dọn xong cặp xách thì trong lớp chỉ còn lại một mình cô. Cô bé nhìn ra ngoài, gương mặt đầy sợ hãi và bất an. Bởi vì Chỉ Nguyệt đã nghĩ đến một chuyện: Không kịp về đến nhà thì giữa đường mưa bão đã kéo đến rồi. Lúc ấy, phía trước không có thôn phía sau lại không có nhà, biết phải làm sao?
Mẹ của Tang Tang đang luồn lách qua lũ trẻ chạy hỗn loạn để đi về phía bên này, nhìn thấy Tang Tang đang đứng run cầm cập trong gió, bà hỏi: “Chỉ Nguyệt đâu?”
Tang Tang đáp: “Ở trong lớp.”
Mẹ của Tang Tang vội chạy nhanh về phía cửa lớp và gọi: “Chỉ Nguyệt.”
Chỉ Nguyệt nhìn thấy mẹ của Tang Tang, bèn học theo cách của bà ngoại mà gọi một tiếng: “Sư nương.”
“Hôm nay con đừng về nhà nữa.” “Nhưng bà ngoại đang chờ con.”
“Cô đã nhờ người báo với bà ngoại của con rồi. Theo cô về nhà mau. Trời sắp mưa to rồi.”
Chỉ Nguyệt nói: “Hay là để con về nhà vậy.”
Mẹ của Tang Tang nói: “Con sẽ bị mắc mưa ở giữa đường.” Dứt câu bà đã đến nắm lấy bàn tay mát lạnh của Chỉ Nguyệt, “Đi thôi, bà ngoại của con chắc chắn sẽ biết chuyện này.”
Khi cùng mẹ của Tang Tang rời khỏi phòng học, không hiểu vì sao, Chỉ Nguyệt lại cúi thấp đầu, khoang mắt đầy lệ.
Tang Tang, đứng ở gần đó từ nãy giờ vừa nhìn thấy mẹ mình dắt Chỉ Nguyệt đi về phía bên này thì lập tức quay người chạy về nhà trước. Chỉ Nguyệt vừa bước vào nhà Tang Tang không bao lâu thì trời đã đổ mưa, một cơn mưa tầm tã. Tang Tang nằm bò bên cửa sổ nhìn ra bên ngoài, chỉ nhìn thấy xung quanh toàn một màu trắng mơ màng, những ngôi nhà tranh của trường tiểu học Du Ma Địa cũng trở nên hư ảo, không rõ hình dáng.
Liễu Liễu nghe nói Chỉ Nguyệt sẽ ở lại nhà mình đêm nay thì hưng phấn lạ thường, nó nắm lấy tay Chỉ Nguyệt mãi không chịu buông, còn không ngừng lặp đi lặp lại với mẹ: “Con ngủ chung với chị Chỉ Nguyệt.”
Chỉ sau một lúc thì Chỉ Nguyệt đã không còn thấy xa lạ. Khi nói chuyện với Chỉ Nguyệt, Liễu Liễu cứ nắm tay cô bé đi lòng vòng trong nhà, Tang Tang ngồi ở một góc không ngừng đút cho hai con bồ câu ăn, bà Tang đang nấu bữa tối ở trong bếp nói với ra ngoài qua làn khói mờ: “Con muốn hai con bồ câu đó ăn bể bụng đúng không!”
Nghe vậy Tang Tang mới dừng tay. Nhưng nó lại không biết nên làm gì cho phải, thế là đành quay trở về bò trên khung cửa sổ nhìn thời tiết ở bên ngoài: Trời đã tối, bầu trời đen thui thủi, cơ hồ không thể nhìn thấy những ngôi nhà tranh kia nữa. Nhưng thông qua tiếng mưa lộp độp trên mái hiên, Tang Tang có thể phán đoán ra vị trí của hai ngôi nhà tranh ở gần nó nhất. Đôi tai của Tang Tang, ngoài nghe thấy tiếng mưa, thỉnh thoảng còn lọt vào vài tiếng nói cười của Liễu Liễu và Chỉ Nguyệt.
Bên dòng sông ở phía sau nhà, văng vẳng vọng lại tiếng hát pha lẫn chút bi thương của bác ngư dân vì cơn mưa bất chợt.
Quả nhiên, mẹ của Tang Tang đã sắp xếp cho Chỉ Nguyệt ngủ chung một giường với Liễu Liễu. Liễu Liễu nhanh nhẹn cởi dép và nhún nhảy trên giường. Bà Tang bèn nói: “Liễu Liễu không được phá.” Nhưng Liễu Liễu lại càng nhảy cao hơn.
Bà Tang đã dựng một lò than ở chính giữa nhà. Bên ngoài tuy đang mưa gió tung hoành, nhưng trong ngôi nhà tranh này, lại ngập tràn hơi ấm. Gò má của Liễu Liễu và Chỉ Nguyệt đều đỏ hồng vì lửa ấm.
Bà Tang lo sắp xếp cho bọn trẻ ngủ, thỉnh thoảng dừng mắt trên người Chỉ Nguyệt. Mỗi khi nhìn Chỉ Nguyệt, mắt của bà đều không thể buông bỏ nỗi niềm yêu thương ấy.
Tang Tang ngủ ở phòng trong, Chỉ Nguyệt và Liễu Liễu nằm ở phòng ngoài. Phòng trong và phòng ngoài, chỉ cách nhau một tấm vách được đan bằng những cây lau sậy. Vì vậy mà những lời Liễu Liễu và Chỉ Nguyệt nói với nhau, Tang Tang nghe thấy rất rõ ràng…
Chỉ Nguyệt dạy Liễu Liễu đọc từng câu một:
Một gốc hoa mai, mọc xanh tươi,
Sét đánh mưa rơi, sao giăng đầy.
Hòa thượng ba người, ngồi bốn góc,
Không nói không rằng, miệng đọc kinh.
Liễu Liễu vừa đọc theo vừa cười khanh khách. Học xong bài này, lại víu lấy Chỉ Nguyệt đòi học một bài nữa. Chỉ Nguyệt vui vẻ nhận lời:
Tháng giêng hoa mai thơm phưng phức,
Tháng hai mầm lan rót vào chậu.
Tháng ba đào hoa thập lý nở,
Tường vi tháng tư dựa góc tường.
Tháng năm thạch lựu đỏ tựa lửa,
Hoa sen tháng sáu nở đầy hồ.
Tháng bảy dành dành cài lên tóc,
Hoa quế tháng tám vàng đầy cây.
Tháng chín hoa cúc mới sơ khai,
Phù dung tháng mười dùng vừa khớp.
Mười một thủy tiên dâng các thày,
Mai đông trong tuyết trọn mười hai.
Tang Tang tròn xoe hai mắt, trong lòng thầm nhẩm theo.
Bà Tang sau khi đã thu dọn xong mọi thứ thì nói với vào trong: “Liễu Liễu, đừng làm phiền chị nữa, khuya rồi, ngủ đi.”
Kế đó, đèn trong nhà lần lượt tắt.
Hai cô bé nằm ngủ trong một chiếc chăn, đại khái là đụng trúng nhau chăng, thỉnh thoảng lại vang lên tiếng cười khúc khích.
Một lúc sau, Liễu Liễu nói: “Chị Chỉ Nguyệt, em ngủ cùng một đầu với chị được không?”
Chỉ Nguyệt nói: “Em qua đây đi.”
Liễu Liễu liền như một con mèo con vậy bò ra khỏi chăn tới bên đầu của Chỉ Nguyệt. Khi Liễu Liễu cuối cùng đã nằm trong lòng của Chỉ Nguyệt rồi thì hai cô gái lại một trận cười khanh khách.
Bà Tang bèn lên tiếng: “Liễu Liễu, điên quá rồi nhé.”
Liễu Liễu lập tức bụm miệng lại, chui vào lòng của Chỉ Nguyệt. Nhưng chỉ một lúc sau, Tang Tang lại nghe thấy Liễu Liễu nói chuyện với Chỉ Nguyệt. Lần này tiếng nói rất nhỏ, có vẻ như cả hai đã chui vào trong chăn. Nhưng Tang Tang vẫn đã thấp thoáng nghe thấy – Liễu Liễu đang nói xấu nó với Chỉ Nguyệt…
Liễu Liễu: “Rất nhiều năm trước, rất nhiều năm trước, anh hai của em…”
Chỉ Nguyệt: “Sao lại rất nhiều năm trước chứ?”
Liễu Liễu: “Nói chung là mấy năm trước rồi. Hôm đó, anh hai của em lấy cái nồi ở trong nhà ra sân vườn, lén lút đập cái nồi đó.”
Chỉ Nguyệt: “Đập cái nồi để làm gì?” Liễu Liễu: “Bán sắt vụn đó.”
Chỉ Nguyệt: “Bán sắt vụn làm gì?” Liễu Liễu: “Để đổi tiền.”
Chỉ Nguyệt: “Đổi tiền làm gì?”
Liễu Liễu: “Đổi tiền mua bồ câu ấy.” Chỉ Nguyệt: “Rồi sau đó?”
Liễu Liễu: “Sau đó mẹ nấu cơm, phát hiện bị mất cái nồi, bèn đi tìm, tìm khắp nơi cũng không thấy, thế là hỏi anh hai có thấy cái nồi đâu không? Anh hai nhìn vào mặt mẹ rồi từ từ rút lui. Mẹ liền hiểu ngay, thế là bắt lấy anh hai…”
Chỉ Nguyệt: “Vậy anh hai em có chạy không?” Liễu Liễu: “Có chạy.”
Chỉ Nguyệt: “Chạy đi đâu?”
Liễu Liễu: “Đúng lúc cửa lớn ngoài sân đang đóng, anh hai không chạy đi đâu được, thế là chui vào lồng heo.”
Chỉ Nguyệt: “Chui vào lồng heo sao?”
Liễu Liễu: “Anh hai trốn vào trong đó. Con heo nái trong đó ‘éc éc’ lên vài tiếng rồi nhào tới cắn anh hai…”
Chỉ Nguyệt có hơi khẩn trương: “Cắn được không?”
Liễu Liễu: “Anh hai đạp trúng một bãi cứt heo, liền bò ra lại…” Chỉ Nguyệt núp trong chăn bật cười.
Liễu Liễu: “Anh hai của em dơ lắm. Buổi sáng ngủ dậy anh ấy không rửa mặt mà đã ăn cơm!”
Tang Tang vừa nghe vừa nghiến răng ken két, chỉ muốn nhảy xuống giường lôi Liễu Liễu ra khỏi tấm chăn ấm áp ấy để đạp nó một cái.
May thay, không lâu sau thì Liễu Liễu dần thiếp đi, trong mơ hồ nó lại nói vài câu gì đó, rồi ôm lấy cổ của Chỉ Nguyệt chìm vào giấc ngủ.
Lại một lúc sau, Tang Tang nghe thấy tiếng thở nhè nhẹ từ hai cô gái ở bên ngoài phòng.
Ngoài cửa sổ, mưa vẫn rơi không ngừng nghỉ. Có con bồ câu kêu lên “cúc cúc”, hình như là đã bị mưa làm ướt bộ lông, tuy nhiên, chắc nó nghĩ đây cũng là một chuyện rất bình thường thôi, vì vậy chỉ sau hai tiếng kêu, nó đã im bặt.
Không lâu sau thì Tang Tang cũng say giấc.
Đến nửa đêm, gió ngưng, mưa cũng tạnh, vài áng mây đen bồng bềnh trôi qua rồi tản đi, lúc này mặt trăng bất ngờ ló dạng.
Bầy vịt hoang hoạt động về đêm cũng đã mệt lả, đậu hết xuống sông. Khi vừa đáp xuống mặt nước, đại khái do dưới nước có con cá to vì tò mò mà đớp đớp vào chân của chúng, khiến chúng kinh hoảng mà kêu lên “cạp cạp”.
Tang Tang thức dậy rồi. Suy nghĩ đầu tiên của Tang Tang chính là nó muốn đi tiểu. Nhưng lại không thể, bởi vì nó biết nếu muốn vào nhà vệ sinh, nó nhất định phải băng qua căn phòng bên ngoài để đi ra ngoài cửa, mà nếu đi ngang phòng ngoài kia, thì chắc chắn sẽ băng qua giường của Chỉ Nguyệt. Nó đành cố nín. Nó cảm giác cái bụng nhỏ của mình đang ngày càng căng lên. Nó bắt đầu thấy ân hận vì tối qua không nên uống quá nhiều xúp. Nhưng mà lúc đó, nó chỉ muốn cúi đầu húp mãi. May mà chỉ có bấy nhiêu nước xúp, nếu như có nhiều hơn thế là bây giờ sẽ càng tệ hại. Tang Tang không muốn mình cứ suy nghĩ việc đi tiểu, nên nó ép bản thân hãy nghĩ những chuyện khác.
Nó nghĩ đến bà cụ Tần sống ở trong trường: Hiện giờ, bà còn đang ngủ hay là đã thức? Nghe ba mẹ nói, bà cụ Tần đã sống một mình như thế cả đời. Đêm dài như vậy, chỉ có một mình bà, bà không cảm thấy cô đơn ư? Nó lại nghĩ đến Đỗ Tiểu Khang, con trai của gia đình giàu nhất ở Du Ma Địa. Nó nghĩ: Có gì mà đáng kiêu ngạo chứ? Cậu có gì mà đáng lên mặt chứ? Nhưng Tang Tang lại không thể không bi ai mà thừa nhận, bốn mùa quanh năm, một Đỗ Tiểu Khang lúc nào cũng mang đôi giày thể thao trắng tinh đích thật là chuyện mà những đứa trẻ khác không thể sánh bằng – gương mặt của Đỗ Tiểu Khang, thành tích của Đỗ Tiểu Khang, còn có rất nhiều phương diện khác nữa, đều là người khác không thể sánh bằng. Tang Tang đột nhiên cảm thấy, Đỗ Tiểu Khang kiêu ngạo cũng là có lý do. Nhưng Tang Tang vẫn không phục, thậm chí là tức giận…
Bụng căng đến phát đau, làm cắt ngang dòng suy nghĩ của Tang Tang.
Tang Tang bất chợt nghe thấy Chỉ Nguyệt thở dài trong giấc mơ. Thế là nó lại nghĩ đến Chỉ Nguyệt trong hỗn loạn: Gương mặt của Chỉ Nguyệt khi đi qua thửa ruộng, giọng của Chỉ Nguyệt khi đọc bài, chữ thư pháp của Chỉ Nguyệt, điệu múa của Chỉ Nguyệt trên sân khấu…
Và rồi, Tang Tang lại ngủ mất.
Sáng hôm sau, mẹ của Tang Tang khi sắp xếp lại giường của nó thì sờ phải gì đó ẩm ướt, giở ra xem, phát hiện Tang Tang đã tè dầm trong đêm, bà kinh ngạc vô cùng: Từ sau năm tuổi thì Tang Tang không tè dầm nữa, sao bây giờ mười tuổi rồi lại tè dầm? Bà vừa mang tấm chăn ra vườn phơi vừa mang thắc mắc trong lòng.
Ánh bình minh rạng ngời rọi xuống tấm chăn của Tang Tang. Ôn Ấu Cúc đi vào sân trường, nhìn thấy tấm chăn phơi trên dây thì hỏi: “Của ai thế?”
Bà Tang nói: “Của Tang Tang.”
Chỉ Nguyệt đúng lúc đeo cặp bước ra. Nhưng Chỉ Nguyệt chỉ nhìn tấm chăn ấy một cái thì đã đi khỏi.
Tang Tang chúi đầu chạy vào nhà.
Mười lăm phút sau, Tang Tang quay trở ra, thấy không có ai ngoài sân, nó giựt mạnh tấm chăn khỏi giàn phơi rồi vứt luôn xuống đất. Trên mặt đất lúc ấy, còn đọng lại nước mưa đêm qua.
Bà Tang đúng lúc bước ra thấy vậy, bèn quát Tang Tang đã đi ra khỏi nhà: “Muốn chết sao?”
Tang Tang quay phắt người lại nhìn vào mắt của mẹ mình, quệt nước mắt trên mặt rồi bỏ chạy.
(4)
Một hôm, Chỉ Nguyệt không đến lớp. Bà ngoại của Chỉ Nguyệt đến trường Du Ma Địa xin nghỉ phép cho cháu gái, rằng Chỉ Nguyệt đã bị bệnh. Sau đó, đến gần một tuần Chỉ Nguyệt cũng không vào trường. Tưởng Nhất Luân thấy Chỉ Nguyệt bị mất nhiều bài như vậy thì nói với Tang Tang: “Em đến Bản Thương một chuyến nhé, mang theo vở bài tập cho Chỉ Nguyệt, đưa cả những bài tập thầy giao về xem Chỉ Nguyệt có thể bổ sung không.”
Tang Tang gật đầu nhận lời, nhưng nó lại không muốn đi một mình, bèn kéo theo A Thứ cùng đi. Giữa đường thì bị mẹ của A Thứ bắt gặp, nói kiểu nào cũng không cho A Thứ đi, lý do là vịt nhà bà không biết đã bơi đi đâu rồi, bắt A Thứ đi tìm về. Tang Tang đứng lại chần chừ một hồi cuối cùng mới đành tự đến Bản Thương.
Tang Tang đang tưởng tượng nét mặt của Chỉ Nguyệt khi bị bệnh thì bầu trời chợt bay qua một đàn bồ câu, nó ngước mặt lên nhìn. Nó đếm từng con một, mỗi khi nhìn thấy bồ câu của người khác nó đều sẽ đếm như thế. Nếu như phát hiện đàn bồ câu của người khác nhiều hơn của nó, nó sẽ ganh tỵ; song nếu ngược lại, nó sẽ lại tự mình đắc ý. Và giờ đây, số lượng bồ câu trên đỉnh đầu nhỏ hơn con số mà nó nuôi, vậy nên nó cười, rồi vẫn chưa đủ, nó nhảy lên ngoắc cành cây ở trên cao, kết quả là làm rơi hết vở bài tập của Chỉ Nguyệt. Tang Tang cúi xuống nhặt lên, đồng thời lau hết bụi bẩn dính trên vở lên quần của nó. Bồ câu vẫn đang bay lượn trên đỉnh đầu, nó chìm đắm trong sự đắc ý của mình, sớm đã quên mất Chỉ Nguyệt.
Đến khi cách Bản Thương độ khoảng 500 mét thì có một con sông lớn. Bên cạnh dòng sông là một bìa rừng rộng, phía sâu trong rừng có một ngôi chùa cổ tên là Tẩm Nguyệt Tự. Bồ câu đã không còn trên bầu trời nơi nó đang đứng, Tang Tang vừa đi vừa nghĩ về ngôi chùa ấy. Nó từng có lần đi cùng mẹ đến đó. Tang Tang nghĩ: Mình sắp được nhìn thấy ngôi chùa cổ ấy rồi.
Tang Tang đi đến bờ sông, chẳng mấy chốc đã nhìn thấy khu rừng ấy. Không hiểu vì sao, nó không muốn gặp Chỉ Nguyệt ngay. Bởi vì nó không biết sau khi nhìn thấy Chỉ Nguyệt, nó sẽ thế nào. Tang Tang là một cậu bé dễ đỏ mặt khi nói chuyện với các bạn nữ. Bởi thế mà càng đến gần Bản Thương, bước chân của nó lại càng chậm chạp. Nó đi vào trong rừng, định bụng nhìn thấy Tẩm Nguyệt Tự rồi tính sau. Trong rừng có một con đường đá hẹp, quanh co uốn khúc, thoắt ẩn thoắt hiện, dẫn dắt bước chân của Tang Tang đi sâu vào bên trong.
Bấy giờ đang là mùa đông, ở trên con đường đá, bất kể là cây phong, dương liễu hay là bạch quả, đều có cùng một dáng vẻ – không một chiếc lá. Gió không lớn, nhưng cả khu rừng vẫn vang vọng âm thanh vù vù, nhuốm đầy vẻ tiêu điều của mùa đông. Vài con quạ gáy xám đậu trên cành cây đang đung đưa, đầu nghiêng qua một bên nhìn ông mặt trời đặc biệt của ngày đông.
Tẩm Nguyệt Tự được xây trên đồi.
Tang Tang chưa đến gần đã nghe thấy thanh âm vang vọng trong trẻo của chuông gió, ngay sau đó thì nhìn thấy một góc của ngôi chùa, tiếng chuông gió cũng ngày càng to hơn. Tang Tang cảm thấy tiếng chuông gió này rất thần bí, rất kỳ diệu, cũng rất hay. Nó nghĩ: Nếu như có một loại còi bồ câu có thể thổi ra âm thanh như thế này, vang vọng trên bầu trời, sẽ như thế nào nhỉ?
Rất nhiều những suy nghĩ kỳ lạ của Tang Tang khi đi đến cuối cùng đều sẽ hội tụ về đàn bồ câu của nó.
Rẽ qua một đoạn, Tẩm Nguyệt Tự xuất hiện trước mặt Tang Tang.
Đứng trước ngôi chùa, nhìn bốn cái góc cong cong, nó tưởng tượng như ngôi chùa có thể bay lên cùng với gió bất cứ lúc nào. Phía sau ngôi chùa vẫn là rừng, có hai ba gốc cây cao to, ló ra vài nhánh con ở sau lưng ngôi chùa. Phía trước chùa là hai gốc hòe già, nhánh cây rất ít, những nhánh hiếm hoi ấy dao động trong cơn gió nhẹ, trông già cỗi vô cùng. Chợt có một cơn gió mạnh hơn, chuông gió treo ở bốn góc cùng lúc vang lên những tiếng tính tính tang tang, càng làm cho khung cảnh xung quanh thêm yên ắng.
Một mình đi đến nơi này, Tang Tang chợt cảm thấy như bị một không khí trang nghiêm bao bọc lấy, nó bất giác rùng mình, cơ thể nhỏ bé ấy bất giác rúm lại, mắt nhìn về trước trong nỗi bất an, chân không dám tiến thêm một bước nào nữa.
“Quay về thôi, đến nhà Chỉ Nguyệt thôi.” Tang Tang tự nói với mình. Nhưng nó lại không đi ngược trở về mà trái lại còn đi tiếp. Chính trong lúc này, Tang Tang nghe thấy âm thanh phát ra từ dây đàn ở phía dưới gốc hòe già. Tang Tang biết loại nhạc cụ này. Người chơi tam huyền2 rất yên tĩnh, tam huyền nghe không ồn ào, còn rất đơn điệu. Nhưng với Tang Tang, âm thanh này không chỉ đơn điệu, mà còn lặp đi lặp lại. Song nó lại cảm thấy âm điệu thuần khiết và chậm rãi ấy rất êm tai, rất hay, hay như tiếng nước mưa đọng lại trên cành lá nhỏ xuống ao vậy. Tang Tang là tay chơi hồ cầm của đội văn nghệ trường tiểu học Du Ma Địa, nó ít nhiều cũng hiểu biết về âm nhạc.
2. Tam huyền hay còn gọi là đàn tam, đàn có 3 dây, được sử dụng phổ biến trong dàn nhạc chèo, phường bát âm, ban nhã nhạc.
Tiếng tam huyền ấy cứ vang mãi, phảng phất như từ rất nhiều rất nhiều năm trước, nó đã vang vọng như thế, chưa từng ngơi nghỉ. Và nó sẽ còn tiếp tục vang, vang mãi.
Cuối cùng Tang Tang cũng đã nhích chân bước vào chùa trong sợ sệt. Nó nhìn vào bên trong, trông thấy một tăng nhân ngồi bên dưới gốc cây hòe. Tiếng đàn như đã vang ra từ chiếc tam huyền được ông ôm trong tay.
Tang Tang biết, đấy là hòa thượng Tuệ Tư mà ba nó thường nhắc đến.
Nói đến thân thế của hòa thượng Tuệ Tư, cư dân quanh đây có rất nhiều cách kể. Nhưng ba của Tang Tang chỉ tin vào một câu chuyện trong số đó: Vị hòa thượng này trước kia là một giáo viên, còn là một giáo viên có học vấn rất cao, về sau không biết xuất phát từ lý do gì mà đột nhiên xuất gia làm hòa thượng.
Trên thực tế, ba của Tang Tang không có lý do gì ủng hộ cho niềm tin của mình, chỉ là sau vài lần gặp gỡ tăng nhân, trông thấy một bức thư pháp do hòa thượng viết, và cách nói chuyện dùng từ phong nhã, từ khí chất thư sinh lịch sự và cử chỉ dứt khoát của hòa thượng, ông đã tin ngay cách kể này trong vô số những câu chuyện khác. Có một khoảng thời gian ba của Tang Tang từng nghi ngờ hòa thượng là một người đã học rất cao. Dẫu cho là giáo viên, hay là học sinh, tóm lại, hòa thượng Tuệ Tư không phải một kẻ chân lấm tay bùn.
Tuệ Tư hiển nhiên là xuất thân từ Giang Nam, bởi vì chỉ có người của Giang Nam mới có gương mặt thanh tú như thế. Tuệ Tư hòa thượng đến Tẩm Nguyệt Tự này từ năm 1948. Nghe những người thời ấy nói, lúc đó Tuệ Tư còn chưa tròn 20 tuổi, tóc đen như lông vũ, nước da trắng trẻo như con gái, khiến dân làng ở đây cảm thấy đáng tiếc vô cùng. Sau này, hòa thượng ở đây người thì mất, người bỏ đi, cuối cùng chỉ còn mình ông ở lại trấn giữ ngôi chùa chẳng biết đã được xây nên từ thời nào.
Thời đại thay đổi, Tẩm Nguyệt Tự sớm đã không còn khói hương nghi ngút như xưa, các hình thức tế lễ cơ bản cũng không còn làm nữa. Tẩm Nguyệt Tự quanh năm thanh tịnh. Nhưng không biết vì lý do gì, hòa thượng Tuệ Tư vẫn mãi ngồi lại đây. Có lẽ vì ông đã không còn chỗ khác để đi chăng, nên ngôi chùa cổ này mới trở thành ngôi nhà của ông. Ông kiên trì không hoàn tục, trải qua bao tháng ngày cô đơn, vẫn một lòng làm hòa thượng. Ông vẫn giống như xưa, một năm bốn mùa đều mặc áo tràng màu nâu. Thỉnh thoảng ông sẽ xuất hiện giữa ruộng đồng, hoặc đi ra tiểu trấn, điều này ít nhiều điểm xuyết cho thôn quê bình đạm không có gì đặc biệt này một nét vẽ mới lạ.
Hòa thượng ngồi bên dưới gốc hòe cảm nhận được có người đứng ở trước cửa, bèn ngước mặt lên nhìn.
Chính trong giây phút ấy, Tang Tang trông thấy một đôi mắt sâu thăm thẳm. Dẫu ánh mắt ấy ngập vẻ từ bi, song Tang Tang lại cảm giác như có một ngọn gió lạnh lướt qua người, bất giác rùng mình.
Hòa thượng Tuệ Tư khẽ đặt đàn xuống, hai tay giữ lấy áo rồi đứng dậy, tay buông ra, áo liền như một tấm rèm sân khấu được buông xuống. Ông lại khẽ phủi vài cái lên áo, cúi đầu hành lễ với Tang Tang rồi bước đến gần.
Tang Tang không dám nhìn vào mặt của hòa thượng, ánh mắt chỉ nhìn thẳng. Do sự chênh lệch về chiều cao, thứ xuất hiện trong tầm ngắm của Tang Tang bấy giờ chỉ là hai cái tay áo to rộng. Tay áo tràng rộng thênh thang ấy cuốn lên, để lộ một phần cánh tay trắng trẻo bên trong.
“Tiểu thí chủ, mời vào.”
Tang Tang lấy hết dũng khí ngẩng đầu lên. Hiện lên trước mặt nó là một gương mặt thư sinh, yên tĩnh và sáng sủa. Tang Tang tự nghĩ từ nhỏ đến lớn, nó chưa bao giờ nhìn thấy gương mặt nào như thế. Nó nhe răng cười với hòa thượng Tuệ Tư, song lại không rõ nó cười như vậy có ý gì, nó chỉ cảm thấy nó phải cười một cái.
Lão hòa thượng khẽ khom lưng, làm một động tác mời vào rất cung kính.
Tang Tang thấy không tự nhiên lắm. Vì… chưa bao giờ có ai có cử chỉ trang trọng như vậy với nó, một đứa chỉ mới vài năm trước còn là một thằng nhóc lấm lem nước mũi.
Tang Tang bước vào tăng viện trong sự gượng gạo.
Tuệ Tư hòa thượng nép sang một bên, đi trước một bước dẫn đường cho Tang Tang. Ông hỏi: “Tiểu thí chủ, có chuyện gì ư?”
Tang Tang thong thả đáp lại: “Đến chơi ạ.” Nhưng chỉ tích tắc sau nó liền nhận ra câu trả lời của mình thật hoang đường. Vì nơi này không phải là nơi để trẻ con đến đùa giỡn. Gương mặt của nó tức thì đỏ lên.
Tuy nhiên, hòa thượng đã không nói với nó “Đây không phải là chỗ để chơi”, mà đáp lại rất thân thiện: “Ồ, ồ…” Người vẫn tiếp tục đi phía trước dẫn đường.
Tang Tang không tiện rút lui ngay lúc này, bèn đâm đầu đi theo. Nó bước tới trước cửa điện, bên trong rất tối. Thoạt đưa mắt nhìn vào bên trong, Tang Tang chẳng nhìn ra được gì ở đó, chỉ cảm thấy trong bóng tối ấy có vài điểm sáng. Nó đứng trên gờ cửa cao ấy, định thần một lúc thì nhìn thấy tượng Phật trên đóa sen to. Thần thái của pho tượng Phật rất trang nghiêm song cũng rất từ bi. Phía trên tượng Phật là một mái che cong cong bằng vàng, thế là tượng Phật liền trở nên rất trang trọng.
Khi ngước lên nhìn tượng Phật, không hiểu vì sao, trong lòng Tang Tang chợt cảm thấy sợ hãi, nó bất giác lùi lại vài bước, quay người đi ra sân vườn.
Tuệ Tư hòa thượng vội đi ra theo.
Ngay khi Tang Tang chuẩn bị ra khỏi cửa chùa thì Tuệ Tư hòa thượng hỏi: “Tiểu thí chủ từ đâu đến?”
Tang Tang đáp: “Con đến từ Du Ma Địa.”
Hòa thượng lại hỏi: “Tiểu thí chủ muốn đi đâu?” Tang Tang đáp: “Đến Bản Thương.”
“Bản Thương?”
Tang Tang gật đầu nói: “Con đến Bản Thương tìm Chỉ Nguyệt.” “Chỉ Nguyệt?”
“Chỉ Nguyệt là bạn học của con.” “Con là Tang Tang?”
Tang Tang rất kinh ngạc: “Sao thầy lại biết con là Tang Tang?”
Hòa thượng khựng lại một lúc, sau đó cười đáp: “Từng nghe có người nói, hiệu trưởng Tang có một công tử tên là Tang Tang. Con nói con đến từ Du Ma Địa, nên ta mới nghĩ, lẽ nào con chính là Tang Tang.”
Tang Tang đi trở về ven theo con đường đá.
Không ngờ Tuệ Tư hòa thượng lại nhất mực đòi tiễn Tang Tang.
Tang Tang không thể chối từ, nó cũng không biết phải từ chối bằng cách nào, thế là ngơ ngơ ngác ngác để cho Tuệ Tư hòa thượng đưa nó đến bên bờ sông.
“Đi thong thả.” Hòa thượng nói.
Tang Tang quay lại nhìn Tuệ Tư. Khi ấy, mặt trời đang rọi xuống mặt nước, ánh sáng phản chiếu từ mặt sông lên gương mặt của hòa thượng Tuệ Tư khiến gương mặt ấy rõ ràng lạ thường. Hòa thượng cũng đang nhìn nó, mỉm cười với nó. Tang Tang nhìn hòa thượng, bằng trực giác của một đứa trẻ, nó bất giác cảm thấy, ánh mắt của ông dường như rất giống ánh mắt của một người, hay nói ngược lại, có một người dường như có đôi mắt rất giống của Tuệ Tư hòa thượng. Nhưng Tang Tang lại nhất thời không nghĩ ra người khác đó là ai, suy nghĩ này khiến nó rầu rĩ vô cùng.
Hòa thượng Tuệ Tư nói: “Tiểu thí chủ, đi qua con sông này sẽ đến Bản Thương, lên đường đi.”
Bấy giờ Tang Tang mới thu lại ánh mắt nghi hoặc, nó vẫy vẫy tay với hòa thượng, chào tạm biệt ông.
Tang Tang đi được một đoạn đường khá xa thì quay lại nhìn, kết quả trông thấy hòa thượng Tuệ Tư vẫn đang đứng trên bãi cỏ bên bờ sông. Gió từ dòng sông thổi đến khiến cho áo choàng của ông bay phất lên, hệt như áng mây phiêu bồng trên bầu trời.
(5)
Chỉ Nguyệt sau khi hết bệnh thì vẫn đến trường rồi về nhà. Nhưng rồi khoảng hai tuần sau, không hiểu vì nguyên nhân gì mà ngày nào Chỉ Nguyệt cũng đến muộn. Có khi tiết học đầu tiên của buổi sáng đã sắp kết thúc rồi, Chỉ Nguyệt mới thở hổn hển mà chạy vào lớp, tay giơ lên cao nói “Báo cáo.” Những lần đầu, Tưởng Nhất Luân cũng không nói gì, chỉ bảo: “Vào đi.” Nhưng sau nhiều lần như thế, Tưởng Nhất Luân có hơi nổi giận, anh gằn giọng: “Chỉ Nguyệt em làm gì vậy? Ngày nào cũng đi trễ vậy sao?”
Chỉ Nguyệt chỉ cúi thấp đầu.
“Sau này phải chú ý một chút. Vào chỗ ngồi đi!” Tưởng Nhất Luân nói.
Chỉ Nguyệt vẫn cúi thấp đầu. Sau khi ổn định chỗ, đầu cô bé vẫn cứ cúi gằm xuống bàn.
Có một lần, Tang Tang tình cờ liếc qua chỗ ngồi của Chỉ Nguyệt, chỉ thấy một dòng nước mắt lặng lẽ lăn trên mặt của Chỉ Nguyệt, rơi vào trang sách.
Hôm ấy, Tang Tang dậy rất sớm, nó nói với mẹ rằng đêm qua có một con bồ câu chưa về, e là bị đại bàng làm tổn thương đôi cánh rồi, nó phải ra ruộng tìm thử xem thế nào, dứt câu là chạy ra khỏi nhà. Tang Tang vừa rời khỏi nhà thì phóng ngay ra Bản Thương, nó muốn lặng lẽ tìm hiểu xem Chỉ Nguyệt đang gặp chuyện gì.
Khi Tang Tang chạy đến bên sông thì ông mặt trời cũng vừa ló dạng, mặt nước phủ đầy sương mù. Trên sông có một chiếc bè, hai đầu đều có dây buộc phân biệt được thắt vào hai bờ. Tang Tang nắm dây kéo chiếc bè đến gần bờ rồi nhảy lên đó, tiếp đó lại kéo đầu dây bên kia, chẳng mấy chốc thì nó đã qua đến bờ đối diện. Tang Tang leo lên bờ, bò lên đê, ở chỗ này, nó nhìn thấy được con đường đất thông đến Bản Thương. Nó ngồi xuống bên một gốc cây ở trên đê, lặng lẽ chờ đợi Chỉ Nguyệt.
Khi ông mặt trời đã dần cao hơn, khi mặt sông đã không còn sương mù, Tang Tang vẫn chưa nhìn thấy Chỉ Nguyệt, trái lại trông thấy ba đứa con trai trạc tuổi nó. Bọn chúng cứ lảng vảng trên con đường đất, không hề có ý đi khỏi mà giống như đang chờ ai đó.
Tang Tang không biết rằng ba người này đều là học sinh của trường tiểu học Bản Thương. Một trong ba đứa đó còn là cậu chủ kiêu căng có tiếng ở trong trường, tên là Lưu Nhất Thủy, biệt danh “Miệng rộng”. Hai người còn lại là cái đuôi của “Miệng rộng”, một đứa tên Châu Đức Phát, đứa còn lại tên Ngô Thiên Hằng. Tang Tang càng không biết, chúng đứng ở đó là để chờ Chỉ Nguyệt.
Một lúc sau, Tang Tang trông thấy Chỉ Nguyệt xuất hiện ở đầu thôn Bản Thương.
Chỉ Nguyệt đi từ từ sang đây. Hiển nhiên là đã nhìn thấy Lưu Nhất Thủy. Có một lúc Chỉ Nguyệt đã đứng yên một chỗ không dám tiến bước. Nhưng khi nhìn thấy mặt trời ở phía Đông, lại không thể không tiến bước.
Lưu Nhất Thủy ngang nhiên nằm dang rộng trên con đường, hai người còn lại thì ngồi ở hai bên.
Tang Tang hiểu rồi, chúng ở đây là để ức hiếp Chỉ Nguyệt. Tang Tang từng nghe ba mình nói (ba của nó cũng là nghe từ một giáo viên của trường Bản Thương kể lại), rằng trong trường có người rất thích ức hiếp Chỉ Nguyệt, trong đó tên cầm đầu được gọi là “Miệng rộng”. Nhiều lần nhà trường muốn quản thúc chúng, nhưng lại không có hiệu quả, bởi vì “Miệng rộng” là một cậu chủ kiêu căng vô pháp vô thiên. Tang Tang nghĩ: Chắc bọn chúng chính là “Miệng rộng” đây. Nghĩ đến đây thì Tang Tang đã hiểu ngay vì sao Chỉ Nguyệt cứ bị trễ giờ.
Chỉ Nguyệt đã đến rất gần bọn người Lưu Nhất Thủy rồi. Cô bé lại dừng bước, sau đó nhảy xuống ruộng lúa ở bên đường, muốn tránh khỏi Lưu Nhất Thủy.
Bọn người đó cũng không đuổi theo, vì trong mắt chúng, Chỉ Nguyệt muốn thoát khỏi là chuyện vô cùng khó khăn. Nhìn Chỉ Nguyệt lê chân khó khăn trong bùn lầy, chúng cười khà khà. Cười được một lúc thì lại rống cổ lên “hát”:
Ấy ấy ấy,
Ấy ấy ấy,
Có một đứa chui ra từ kẽ chân.
Không ai dìu, không ai bế,
Vừa bước ra đã nằm lăn như bã.
Đứa này không có nhà,
Mặt mũi lấm lem khóc oa oa…
Chúng vừa kêu vừa vỗ bành bạch vào mông đánh nhịp. Chỉ Nguyệt hiện giờ chỉ một lòng muốn nhanh chóng đến trường, không thèm để ý đến bọn chúng, cố vượt qua được một đoạn để chạy lên đê. Bọn người Lưu Nhất Thủy thấy Chỉ Nguyệt sắp chạy lên con đê thì nhanh chóng đứng dậy chạy sang đó.
Tang Tang không thể đứng nhìn nữa, nó gọi lớn với Chỉ Nguyệt: “Chỉ Nguyệt, chạy qua bên này! Chạy đến bên mình nè!” Chỉ Nguyệt đứng sững trong ruộng lúa, nhìn về phía Tang Tang đang ở trên con đê.
Tang Tang lại gọi: “Chạy nhanh lên! Chạy nhanh lên!” Bấy giờ Chỉ Nguyệt mới chạy nhanh về con đê.
Khi Chỉ Nguyệt chạy lên đê thì Tang Tang đã cầm lên tay một tảng đá rồi đi thẳng về phía bọn người Lưu Nhất Thủy.
Chỉ Nguyệt đã leo được lên đê.
Tang Tang quay đầu lại nói: “Cậu mau đến bờ sông đi,” rồi lại tiếp tục đi về phía Lưu Nhất Thủy.
Chỉ Nguyệt đứng yên bất động. Cô ngơ ngác nhìn bóng lưng của Tang Tang, vừa lo lắng vừa sợ hãi sẽ có một cuộc ẩu đả xảy ra. Chỉ Nguyệt muốn gọi Tang Tang đừng tiến lên nữa, nhưng lại không thể gọi. Vì Chỉ Nguyệt biết rằng, Tang Tang sẽ không chịu quay đầu.
Thật ra trong lòng Tang Tang cũng sợ hãi. Nó không phải người của Bản Thương, người mà nó sắp phải đối mặt lại là ba kẻ nhìn vào đã thấy lớn hơn nó và mạnh mẽ hơn nó. Nhưng Tang Tang rất vui lòng làm việc này, nó phải đánh một trận thật đã đời ở trước mặt Chỉ Nguyệt. Trong lòng nó kêu thét một giọng nói run rẩy: “Tới đây nào! Chúng mày tới đây nào!”, dẫu rằng đôi chân gầy yếu ấy đang run lên như nhánh cây yếu ớt giữa gió hàn. Nó thậm chí còn muốn bỏ gạch xuống đất để chạy tới phía sau gốc cây tiểu trước đã, vì… nó cảm thấy quần của nó đã có hơi ướt rồi.
“Tang Tang…” Cuối cùng Chỉ Nguyệt cũng gọi.
Tang Tang không quay đầu lại, hai tay mỗi tay cầm một tảng đá, đứng yên đấy chờ bọn người Lưu Nhất Thủy đi tới.
Lưu Nhất Thủy dẫn đầu chạy tới trước, nó nhìn Tang Tang và hỏi: “Mày là ai?”
“Tao là Tang Tang!”
“Tang Tang là cái thá gì?” Lưu Nhất Thủy nói xong thì quay sang nhìn Châu Đức Phát và Ngô Thiên Hằng cười chế giễu.
Tang Tang nắm chặt hai tảng đá trong tay, nó nói: “Bọn mày còn tiến thêm một bước thì tao sẽ đập chúng mày!”
Lưu Nhất Thủy nói: “Mày đập không trúng đâu.”
Tang Tang nói: “Tao đập là trúng.” Nó khoác lác, “Tao muốn đập vào mắt trái của mày thì chắc chắn sẽ không lệch qua mắt phải đâu.” Nhưng ngay sau đó nó đã cảm thấy câu khoác lác này thật tức cười, thế là hai chân dang rộng ra một chút, làm ra dáng vẻ thủ sẵn và có thể tấn công bất kỳ lúc nào.
Bọn người Lưu Nhất Thủy quàng vai nhau, căn bản chẳng xem Tang Tang ra gì, chúng đứng thành một hàng ngang, tiến lên trong hiên ngang.
Tang Tang giơ cao một tảng đá, đồng thời hơi nghiêng người, tư thế hệt như chuẩn bị ném đồ. Không biết vì thật sự sợ Tang Tang sẽ dùng đá chọi chúng, hay vì vẻ mặt hung tợn của Tang Tang, tóm lại nhóm Lưu Nhất Thủy đã bị dọa nên e ngại, tạm thời dừng lại.
Trong lúc này, Tang Tang trái lại đã từ từ lui ra sau. Nó suy tính: Ngay khi Chỉ Nguyệt bước lên bè thì nó sẽ chọi tảng đá này ra rồi cũng nhanh chóng nhảy lên bè, gỡ đầu dây của bờ bên này và nhanh chóng qua bờ bên kia.
Chỉ Nguyệt dường như cũng hiểu được ý đồ của Tang Tang, bèn chạy nhanh xuống đê phóng thẳng đến chiếc bè.
Tang Tang cứ thế giữ tảng đá trong tay, vừa trừng mắt nhìn bọn chúng vừa từ từ rút lui. Bọn người Lưu Nhất Thủy quả nhiên không dám manh động, chỉ tiến lên từng bước một và giữ khoảng cách nhất định.
Tang Tang quay nhanh lại lườm một cái. Khi nó thấy Chỉ Nguyệt đã sắp chạy đến bên sông thì nó đột nhiên chạy xông về phía trước, làm bọn người Lưu Nhất Thủy hoảng hồn chạy nhanh về hướng ngược lại. Còn Tang Tang chỉ sau vài bước hù dọa thì nó đã quay đầu xông xuống con đê. Tang Tang vừa phóng ra bờ sông vừa đắc ý vì sự xảo quyệt của mình.
Bọn Lưu Nhất Thủy cuối cùng cũng dừng chân, quay ngược lại đuổi theo.
Tang Tang kêu lớn với Chỉ Nguyệt: “Mau lên bè! Mau lên bè!” Chỉ Nguyệt vội vàng nhảy lên bè. Tang Tang đã lui ra đến bờ sông. Khi nhìn thấy bọn Lưu Nhất Thủy đã rượt đến trước mặt, trong lòng nó nghĩ: “Tao không sợ sẽ chọi bể đầu chúng bây!” Nghĩ thế nó liền ném thẳng một tảng đá ra. Song, dùng lực quá mạnh, tảng đá rơi ngay phía sau bọn Lưu Nhất Thủy. Tuy nhiên hành động này cũng đã khiến bọn chúng sợ đến suýt mất hồn. Thừa lúc này, Tang Tang nhanh trí nhảy lên bè. Khi nó thấy bọn Lưu Nhất Thủy định kéo sợi dây thắt trên gốc cây thì nó lại ném tiếp tảng đá còn lại. Lần này tảng đá rơi trúng chân của Ngô Thiên Hằng, nó đau đến mức ngồi lăn dưới đất kêu “ây da ây da”. Ngay khi Tang Tang định gỡ dây ra thì Lưu Nhất Thủy lại nắm chặt đầu dây, làm chiếc bè đang được Chỉ Nguyệt kéo sang đầu bên kia bị kéo ngược trở về. Gút thắt quá chặt, Tang Tang mất rất nhiều công sức mới có thể gỡ nó ra được, nhưng lúc này, bè đã cơ hồ gần đến bên bờ. Lưu Nhất Thủy chạy nhanh xuống, không màng sự cản trở của Tang Tang mà phóng một bước lớn lên chiếc bè.
Chỉ Nguyệt dùng sức kéo bè qua bờ bên kia. Lưu Nhất Thủy vồ tới bên Chỉ Nguyệt muốn giật lại sợi dây. Tang Tang dùng hết hai tay giữ chặt eo của Lưu Nhất Thủy, cả hai đánh nhau trên bè. Tang Tang căn bản không phải là đối thủ của Lưu Nhất Thủy, chỉ miễn cưỡng giữ chân đối phương được một lúc thì đã bị đánh nằm bẹp, bị Lưu Nhất Thủy leo trên người. Lưu Nhất Thủy quệt đi mồ hôi trên mặt, nó nhìn Tang Tang nói: “Từ đâu lòi ra thằng Tang Tang này!” nói xong là đánh thẳng một cú vào mặt Tang Tang.
Tang Tang cảm thấy sống mũi của mình đau ghê gớm, ngay sau đó, máu mũi đã chảy ra. Tang Tang nhìn thấy một gương mặt hung hăng. Nó muốn đánh lại Lưu Nhất Thủy, nhưng nó lại không thể nhúc nhích. Lưu Nhất Thủy lại cho Tang Tang thêm vài đấm. Chỉ Nguyệt buông dây ra, vừa khóc vừa kêu: “Đừng đánh bạn ấy nữa, đừng đánh bạn ấy nữa…”
Lưu Nhất Thủy thấy bè đã gần cập vào bờ bên kia, quyết định thả Tang Tang ra rồi chạy tới đầu chiếc bè, xắn tay áo lên, cúi người xuống dùng tay chèo về phía ngược lại.
Tang Tang nằm yên phăng phắc trên đó, nó trừng mắt nhìn bầu trời của mùa đông. Nó dường như chưa bao giờ nhìn bầu trời dưới góc độ kỳ lạ thế này. Bầu trời trong mắt nó hiện giờ, đặc biệt cao, đặc biệt rộng. Nó nghĩ: Nếu như bây giờ, bồ câu của nó bay lượn ở trên trời, chắc chắn sẽ rất đẹp. Có gió thoảng qua, chiếc bè lay động, bầu trời của Tang Tang cũng lay động. Tang Tang cảm thấy choáng, một cảm giác chóng mặt khó diễn đạt.
Chỉ Nguyệt ngồi đấy, để yên cho Lưu Nhất Thủy bơi chiếc bè về bên kia bờ.
Tang Tang nhìn thấy một áng mây trôi gấp gáp trên bầu trời, áng mây ấy bất chợt khiến Tang Tang cảm thấy khẩn trương. Nó từ từ ngồi dậy, bò về phía Lưu Nhất Thủy. Khi chiếc bè chỉ còn cách bờ mười mấy mét thì Tang Tang đột nhiên ủi đầu sang đó. Ngay tức thì, nó và Chỉ Nguyệt nghe thấy “tủm” một tiếng. Nó nằm xòa trên bè, nhìn những đóa hoa nước lan rộng trên mặt sông trong nỗi hưng phấn.
Một lúc sau, Lưu Nhất Thủy giằng co trồi lên mặt nước. Tang Tang đứng dậy, dùng tay quệt đi máu ở bên dưới lỗ mũi, cúi nhìn Lưu Nhất Thủy quạt tay bơi đầy khó nhọc trong dòng nước lạnh băng của mùa đông.
Chỉ Nguyệt nhanh chóng giữ dây kéo chiếc bè qua bờ đối diện. Đến khi Lưu Nhất Thủy bơi vào bờ, đứng nhảy tưng tưng run rẩy vì quá lạnh thì Tang Tang và Chỉ Nguyệt đã đứng trên bãi cỏ mềm mại ở bờ bên kia.
(6)
Lưu Nhất Thủy chạy về nhà thay quần áo, vào đến gần trưa thì cảm thấy toàn thân lạnh run, bờ môi run cầm cập, hết giờ học thì miễn cưỡng đi về nhà. Lưu Nhất Thủy bị cảm lạnh ngã bệnh rồi. Phụ huynh của Lưu Nhất Thủy chạy tới trường tiểu học Du Ma Địa kiếm chuyện, thậm chí còn tới nhà của Tang Kiều. Thế là sự việc bị làm to lên, sự việc bị vạch to trái lại sẽ dễ xử lý. Đâu đâu cũng có học sinh của Tang Kiều. Tang Kiều sau khi xin lỗi thì liên hiệp với trường tiểu học Bản Thương, thậm chí liên hiệp với cơ quan địa phương, cùng ra mặt tập hợp nhóm học sinh quậy phá như Lưu Nhất Thủy và phụ huynh của chúng, đồng loạt đưa ra lời cảnh cáo nghiêm trọng: Nếu như sau này còn có bất kỳ hành vi ức hiếp Chỉ Nguyệt, nhà trường và cơ quan địa phương sẽ xử lý nghiêm ngặt không khoan nhượng với nhóm Lưu Nhất Thủy và phụ huynh của chúng.
Sau đó, Tang Kiều tìm đến và nói với Chỉ Nguyệt: “Chỉ Nguyệt, phía bên Bản Thương đã không còn ai dám hiếp đáp con nữa, con về đó học đi.” Chỉ Nguyệt cúi đầu, không nói một lời.
“Con hãy về thương lượng với bà ngoại.” Chỉ Nguyệt gật đầu, đi về lớp học.
Mẹ của Tang Tang nói: “Cứ để con bé học ở đây đi.”
Tang Kiều nói: “Đó không phải là vấn đề, tôi chỉ sợ con bé chạy đường xa quá không tốt cho sức khỏe.”
Hôm ấy, Chỉ Nguyệt ngồi trong lớp học, không có chút tâm trí nghe giảng, ánh mắt trống rỗng.
Sáng hôm sau, Chỉ Nguyệt và bà ngoại cùng xuất hiện ở trước cửa nhà Tang Tang.
Bà ngoại nói với Tang Kiều: “Con bé chỉ muốn học ở Du Ma Địa thôi. Xin thầy cho nó ở lại đây.”
Tang Kiều nhìn Chỉ Nguyệt: “Con quyết định rồi chứ?” Chỉ Nguyệt không đáp, chỉ gật đầu.
Tang Tang ngồi ở bên cạnh cho bồ câu ăn, im lặng lắng nghe. Chờ sau khi bà ngoại và Chỉ Nguyệt rời khỏi, nó đuổi hết bồ câu lên trời, đàn bồ câu hứng khởi đập cánh “bạch bạch”, nghe như tiếng vỗ tay trong trẻo vậy.
Mọi thứ, đều diễn ra như bình thường.
Nhưng không lâu sau, Tang Tang cảm thấy có vài đứa trẻ nhìn nó và Chỉ Nguyệt bằng ánh mắt kỳ lạ. Hơn nữa còn ngày càng trắng trợn. Ví dụ như trong giờ thể dục, khi nó và Chỉ Nguyệt trùng hợp bị chia vào chung một đội, thì nhóm người do Chu Tiểu Cổ đứng đầu sẽ tự nhiên kêu lên “ố ồ”. Tang Tang nổi giận vì thẹn thùng, liền nắm cổ áo của một đứa trong nhóm lôi ra rừng trúc phía sau nhà rồi cho nó một cú đấm. Song, phản ứng của Tang Tang càng kích thích bọn Chu Tiểu Cổ.
Thật ra chúng không có ác ý, nhưng lại cảm thấy đồng loạt kêu lên như thế rất là thú vị. Trong nhóm người ấy thậm chí còn có bạn thân nhất của Tang Tang.
Đứa trẻ như Tang Tang, từ nhỏ đã định sẵn phải trở thành đối tượng cho người ta làm trò cười.
Đó là một buổi chiều của tiết Tập làm văn, đây là môn học mà Tang Tang luôn được Tưởng Nhất Luân khen ngợi. Trong bài làm văn lần trước, nó viết đặc biệt hay, cả bài văn cơ hồ được Tưởng Nhất Luân khoanh tròn hết. Trong buổi học ấy, Tưởng Nhất Luân đã bảo Tang Tang đọc to bài viết của nó, và đây là việc đã được thông báo trước. Tiếng chuông vào tiết vừa vang lên, Tưởng Nhất Luân bước lên bục giảng nói: “Hôm nay, chúng ta sẽ mời Tang Tang lên đọc bài tập làm văn ‘Chúng ta cùng ra ruộng lúa’ của bạn.”
Nhưng Tang Tang lại đổ mồ hôi hột vì lục tìm trong cặp: Vở tập làm văn của nó mất rồi.
Tưởng Nhất Luân nói: “Đừng vội, từ từ tìm.”
Từ từ cách mấy cũng tìm không ra. Tang Tang thất vọng, đứng tại chỗ giựt giựt lỗ tai.
Tưởng Nhất Luân nhìn Tang Tang rồi tặc lưỡi một cái, hỏi: “Có ai nhìn thấy vở tập làm văn của Tang Tang không?”
Cả lớp đều lập tức nhìn vào hộc tủ của mình, rồi lật tìm trong cặp. Một lúc sau, lần lượt có người báo cáo: “Em không có.” “Em không có.”
Khi Chỉ Nguyệt lấy hết sách vở trong cặp ra kiểm tra thì gương mặt tức thì đỏ lên: Bên dưới vở tập làm văn của Chỉ Nguyệt, là vở của Tang Tang.
Vài người nhìn thấy vở của Tang Tang, liền dừng mắt trên mặt của Chỉ Nguyệt.
Chỉ Nguyệt đành rút tập của Tang Tang ra, sau đó đứng lên: “Báo cáo, vở tập làm văn của Tang Tang ở chỗ của em.” Chỉ Nguyệt mang quyển vở ấy đưa lên cho thầy giáo.
Chu Tiểu Cổ lại dẫn đầu “ố ồ” một tiếng, ngay sau đó, cơ hồ là cả lớp đều cùng nhau “ố ồ”.
Tưởng Nhất Luân cầm đồ lau bảng gõ lên bàn: “Yên lặng!”
Tưởng Nhất Luân cầm vở tập làm văn mà Chỉ Nguyệt mang lên đưa đến cho Tang Tang.
Tang Tang bắt đầu đọc bài viết của mình, nhưng nó cứ bị lẹo lưỡi, tựa như bài văn đó không phải do nó viết mà là chép từ người khác vậy.
Một bài viết khá hay, nhưng mà dưới cách đọc “ờ… ờ…” của Tang Tang, chẳng ai cảm nhận được cái hay nữa, cả lớp xào xáo cả lên. Tưởng Nhất Luân chau mày, cố kiên trì chờ đến khi Tang Tang đọc hết bài văn của mình.
Sau khi tan học, Chu Tiểu Cổ nhìn Tang Tang rồi cười một cách thần bí.
Tang Tang mặc kệ Chu Tiểu Cổ, nó khom xuống thắt lại dây giày, nhưng mắt vẫn lườm Chu Tiểu Cổ. Khi nhìn thấy Chu Tiểu Cổ đi tới bên bờ ao định giựt một cành cây chơi đùa thì nó đột nhiên đứng phắt dậy xông qua đó, giơ hai tay ra đẩy Chu Tiểu Cổ một cái. Trong ao vừa mọc củ sen, không có nước mà chỉ có sình lầy. Chu Tiểu Cổ chúi đầu xuống đó, chờ khi nó ra khỏi đống lầy thì ngoài đôi mắt sáng sủa đang chớp chớp ra, những chỗ khác đều đã bị một màu xám đen che phủ. Nó giận lắm, tiện tay bốc lên hai nắm sình rồi bò dậy.
Tang Tang không bỏ chạy.
Chu Tiểu Cổ chạy tới, ném hai nắm sình ấy lên người Tang Tang.
Tang Tang bỏ cặp xuống, nhảy xuống ao sình lầy kia, tay cũng bốc lên hai nắm sình, nó cứ đứng yên trong đó, vứt thẳng sình lên người Chu Tiểu Cổ.
Chu Tiểu Cổ đưa tay lau lên mặt một cái rồi cũng nhảy xuống ao.
Bọn trẻ đứng nép sang một bên, nhìn cuộc chiến sình lầy này trong hưng phấn.
Chỉ Nguyệt đứng trong phòng học, lẻn nhìn ra ngoài qua khe cửa.
Chẳng mấy chốc thì trên người Tang Tang và Chu Tiểu Cổ đều đã không còn một mảng sạch sẽ.
Giáo viên đứng ở trên bờ bảo hãy dừng lại, nhưng khi nhìn thấy hai con “khỉ sình” thì lại không nhịn được cười.
Bọn trẻ thì đứng ở một bên chẳng quan tâm gì, chỉ không ngừng vỗ tay.
Cuối cùng Tưởng Nhất Luân cũng nghiêm mặt gắt: “Tang Tang, Chu Tiểu Cổ, hai em dừng tay lại ngay cho tôi!”
Hai đứa cũng không còn hơi sức nữa, miễn cưỡng chọi thêm vài nắm sình vào đối phương rồi khom lưng tự mình đi tìm giày và vớ trong lầy lội. Những đứa trẻ khác đến gần nhìn, vừa nhìn vừa chỉ vào một chỗ nào đó bên trong ao và kêu lên: “Ở chỗ kia! Ở chỗ kia!”
Tang Tang leo lên bờ, rất tự nhiên mà nhìn lướt qua phòng học, rồi nó đã tình cờ nhìn thấy đôi mắt ẩn sau cánh cửa của Chỉ Nguyệt.
Hai hôm sau, trận tuyết lớn nhất từ lúc lập đông đến nay đã rơi xuống.
Ở sâu trong cánh rừng phía sau phòng học, chim sẻ đang trú đông kêu lên inh ỏi, khiến bọn trẻ chẳng nghe được bài giảng của giáo viên. Chỉ trong vòng một tiết học, khi cánh cửa phòng một lần nữa mở ra thì bên ngoài đã bị lấp lên lớp tuyết dày những một thước. Đến khi tan học, ruộng lúa ở bên ngoài sớm đã bị tuyết che phủ, không còn thấy ruộng, buông mắt nhìn ra chỉ có một mảng đất tuyết bằng phẳng. Và trên trời, tuyết vẫn còn tiếp tục rơi.
Bọn trẻ dời bước khó khăn đi ra khỏi trường, sau đó thì biến thành những chấm đen rơi rụng trên đất tuyết trắng xóa.
Mẹ của Tang Tang đứng trước cửa nhà chờ Chỉ Nguyệt. Trưa nay bà đã nói với Chỉ Nguyệt đêm nay không cần về nhà, tan học cứ đến thẳng đây là được. Đến khi trông thấy sân trường chẳng còn lại bao nhiêu người nữa, bà bèn đi vào khu vực dạy học. Trên đường đi bà bắt gặp Tang Tang, “Chỉ Nguyệt đâu?”
Tang Tang chỉ về một chấm đen ở phía rất xa và nói: “Về nhà rồi.”
“Con không giữ bạn lại sao?”
Tang Tang đứng đó không động đậy, chỉ nhìn về phía chấm đen đang từ từ di chuyển – trên mảnh đất tuyết rộng mênh mông giờ đây chỉ còn mỗi một chấm đen kia.
Mẹ của Tang Tang vỗ cái chát lên đầu Tang Tang: “Chắc chắn là con đã ức hiếp con bé.”
Tang Tang bất chợt bật khóc: “Con không có ăn hiếp bạn ấy, không có ăn hiếp bạn ấy...” dứt câu thì quay đầu chạy về nhà.
Mẹ của Tang Tang đi theo Tang Tang vào nhà: “Con không ăn hiếp bạn thì sao Chỉ Nguyệt lại đi về?”
Tang Tang vừa lau nước mắt vừa giẫm chân vừa hét lớn về phía mẹ: “Con không có ăn hiếp bạn ấy! Con không có ăn hiếp bạn ấy! Con ăn hiếp bạn ấy hồi nào đâu chứ?!...”
Nó bốc hai nắm tuyết lên, vò chúng lại thật chắc chắn rồi chạy tới lồng bồ câu, dùng hết sức ném thật mạnh vào những con bồ câu đang rúc cổ nghỉ ngơi dưới mái nhà.
Đàn bồ câu bị sự công kích đột ngột làm sững sờ, cả đàn khựng lại vài giây rồi cùng lúc tung bay trong hoang mang. Những con đã chui vào trong lồng thì ló đầu ra nhìn nhìn, không bay lên ngay. Tang Tang thấy vậy, lại vò thêm hai nắm tuyết chọi thẳng tới đó. Chiếc lồng vang lên một tiếng “tung” thật lớn, những con cuối cùng định là không bay ra ngoài cũng bị hoảng hồn đến mức không thể không bay vào trong gió tuyết.
Đàn bồ câu bay giữa đất trời trong gian nan. Chúng không chịu bay xa, chỉ lượn lờ phía trên ngôi nhà tranh, cứ muốn được đậu xuống ngay.
Nhưng Tang Tang lại cứ nhìn thấy gì là cầm cái đó ném lên trời, kiểu nào cũng không cho chúng đậu xuống.
Bồ câu thấy không cách nào đậu xuống đất được, bèn đậu hết trên mái nhà, càng khiến Tang Tang tức giận. Nó lập tức chạy ra khỏi sân nhà, rượt theo những con bồ câu muốn đậu lên mái nhà khác.
Bà mẹ thấy Tang Tang chạy đến không kịp thở như vậy thì quát: “Điên rồi sao?”
Tang Tang nghiêng đầu: “Con không có ăn hiếp bạn ấy! Con đâu có ăn hiếp bạn ấy!” Nó vừa nói, vừa dùng mu bàn tay lau đi nước mắt trên mặt.
“Vậy chứ sao kiếm chuyện với bồ câu!”
“Con thích ném đấy! Con thích chọi đấy!” Nó cầm một cây trúc khô lên, rượt đuổi theo quơ quẩy cây trúc về phía những con bồ câu đang bay trên không, miệng vẫn không ngừng nói: “Con đâu có ăn hiếp bạn ấy! Con đâu có ăn hiếp bạn ấy!...”
Cuối cùng, đàn bồ câu như đã hiểu ra chúng không thể nào đậu xuống mái nhà trong lúc này nữa, đành mạo hiểm bay vào trong gió tuyết rét buốt.
Tang Tang đứng đấy, nhìn chúng dần đi xa, dần dần biến thành cùng một màu với hạt tuyết, cuối cùng không còn phân biệt được nữa.
Nó lại nhìn ra xa hơn, qua đôi mắt mông lung vì sóng sánh lệ, chấm đen kia đã hoàn toàn biến mất dưới hoa tuyết dày đặc của buổi hoàng hôn…