• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Người Ai Cập - Quyền lực và Tình yêu - Tập 1
  3. Trang 5

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 4
  • 5
  • 6
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 4
  • 5
  • 6
  • Sau

Sách thứ haiNhà sống

1

Vào thời ấy giáo dục bậc cao ở Thebes đều nằm trong tay các giáo sĩ Amon và nếu không có chứng nhận của các giáo sĩ thì không ai có thể học lên để giành được một địa vị cao hơn. Ai cũng biết rằng từ thời cổ đại, do tính năng của mình, Nhà Sống và Nhà Chết đều nằm bên trong tường thành của các giáo đường và trường thần học đào tạo các giáo sĩ bậc cao cũng vậy. Việc các khoa toán học và thiên văn được xem là thuộc lĩnh vực của các giáo sĩ cũng là điều dễ hiểu, nhưng khi các giáo sĩ giành lấy cả khoa luật và khoa thương mại thì sự nghi ngờ đã bắt đầu xuất hiện trong giới có học rằng các giáo sĩ đã can thiệp vào những lĩnh vực thuộc về pharaon và thuế vụ. Thật ra những ai muốn vào học ở khoa luật hoặc khoa thương mại không cần phải là giáo sĩ, nhưng thực tế là thần Amon nắm giữ ít nhất một phần năm đất đai của Ai Cập rồi cả thương chánh và quyền lực của các giáo sĩ là rất lớn trong mọi lĩnh vực của đời sống, thì những ai muốn trở thành thương gia hay gia nhập bộ máy hành chính đều thấy sẽ khôn ngoan hơn nếu có được chứng chỉ thầy tu bậc thấp và gia nhập vào đội ngũ bầy tôi trung thành của Amon.

Khoa lớn nhất dĩ nhiên là khoa luật, bởi vì nó đảm bảo năng lực và vị thế của người học cho mọi chức tước, cho dù chức tước đó liên quan đến thuế, hành chính hay quân đội. Một nhóm nhỏ những người học thiên văn học và toán học sống một cuộc đời mơ màng trong giảng đường của mình và coi thường những kẻ có tham vọng đang đổ xô đến các buổi giảng về địa chính và thương mại. Thế nhưng bên trong tường thành của thánh đường, Nhà Sống và Nhà Chết có cuộc sống của riêng mình và tất cả môn sinh khác trong khu đền đều cảm thấy kính trọng xen lẫn sợ hãi môn sinh của hai nơi đó.

Trước khi bước chân được vào Nhà Sống, tôi phải qua một cuộc khảo hạch dành cho bậc giáo sĩ thấp nhất ở khoa thần học. Việc học ở đây mất ba năm, vì đồng thời tôi được theo bố tôi đi thăm khám bệnh nhân để học hỏi kinh nghiệm của ông cho nghề nghiệp tương lai của mình. Tôi vẫn sống ở nhà nhưng hằng ngày phải có mặt trong một giờ học nào đó. Những ai muốn vào khoa luật thường chỉ mất vài tuần học và qua được cuộc khảo hạch dành cho tu sĩ bậc thấp nhất nếu họ có bạn bè và người đỡ đầu thuộc giới quyền quý. Nội dung khảo hạch gồm kỹ năng viết, đọc và phép tính sơ cấp; ngoài ra các thí sinh còn phải thuộc lòng các bài thánh kinh và các chuyện đọc về thần ba ngôi và thần chín ngôi linh thiêng, trong đó dĩ nhiên cao cả và linh thiêng nhất là thần Amon tối cao. Song mục đích của việc học thuộc lòng và ghi nhớ một cách máy móc như thế là nhằm ngăn học trò suy nghĩ độc lập và dạy họ tin vào ý nghĩa các bài học thuộc lòng một cách mù quáng. Chỉ sau khi mù quáng phục tùng quyền lực của Amon thì các học trò trẻ tuổi mới được công nhận là giáo sĩ bậc một. Tôi không biết người ta dạy những nhóm môn sinh ở bậc ba, bậc bốn và bậc năm, với số lượng ngày càng ít và độ tuổi ngày càng lớn hơn, như thế nào vì các giáo sĩ ở bậc cao hơn có các nghi lễ bí ẩn được canh giữ nghiêm cẩn. Các giáo sĩ bậc hai phải biết biến hóa cây gậy của mình thành con rắn trước đám đông. Họ cũng được thực hành các trò ảo thuật khác nữa trước sân của thánh đường, còn phải học nhịn ăn, thức đêm và giải mã các giấc mộng cũng như ảo giác. Chỉ những giáo sĩ từng học qua bậc này mới có hiểu biết chắc chắn về tất cả những điều này cũng như mục đích cuối cùng, còn những người khác thì không. Thi thoảng, những khi có biến động, các giáo sĩ bậc hai có thể xuất ngôn, nhưng tôi chưa bao giờ thấy các giáo sĩ bậc cao hơn tiết lộ những điều bí mật của thần linh cho những kẻ chưa được thụ phong.

Tôi đã dần quen với thánh đường; sự hùng vĩ và giàu có vô biên ở nơi đây đã tác động đến tâm hồn trẻ thơ của tôi. Ngay cả đám đông chen lấn nhau trước sân và trong hành lang của thánh đường từ sáng đến tối đã là một cảnh tượng đáng xem. Tất cả tầng lớp, tất cả các ngôn ngữ và màu da đến đây tạ ơn thần Amon, cầu xin thành công cho bản thân, cho gia đình và công việc của mình hoặc mang lễ vật đến cho thần Amon, những thứ mà thần rất xứng đáng được hưởng khi đã bảo vệ sức khỏe, công việc và những mưu kế thương trường. Mắt tôi mờ đi khi nhìn ngắm những báu vật, đồ dùng đắt tiền, những bức phù điêu bằng ngà voi và những hộp đựng bằng gỗ mun. Mũi tôi tịt lại vì ngửi những mùi hương và mùi nhựa thông đắt tiền. Tai tôi điếc đặc vì nghe những thứ tiếng xa lạ và cả những bài đọc thuộc lòng thiêng liêng mà người dân không bao giờ hiểu được. Sự vĩ đại của thần Amon đè nén, bóp nghẹt tôi khiến đêm đến tôi thường mơ thấy những giấc mộng khủng khiếp và rên rỉ trong đêm.

Sĩ tử vào học bậc thấp nhất được chia thành các nhóm theo ngành mà họ dự định theo đuổi sau này. Chúng tôi, những môn sinh vào học trong Nhà Sống, lập thành một nhóm riêng nhưng tôi không tìm được một bạn thân nào trong nhóm. Tôi ghi nhớ lời căn dặn thông thái của Ptahor và sống thu mình, ngoan ngoãn tuân thủ mọi mệnh lệnh và giả vờ ngây ngô khi các học trò khác trêu chọc hay báng bổ thần linh theo thói quen của các cậu bé. Trong nhóm chúng tôi có những cậu là con của các thầy thuốc danh giá mà việc thăm khám và chữa trị được trả bằng vàng. Cũng có những người là con của các thầy thuốc thường dân ở tỉnh lẻ, thường nhiều tuổi hơn chúng tôi và đã trưởng thành, là những đứa thô kệch, vụng về, da sạm nắng, cố giấu sự e dè của mình và chăm chỉ nhồi nhét các bài tập vào đầu. Cũng có những đứa sinh ra từ tầng lớp dưới, đương nhiên là khát khao kiến thức, cố gắng tìm kiếm một nghề khác với nghề nghiệp và đẳng cấp của cha mẹ, nhưng chúng bị đối xử khắt khe hơn và đòi hỏi nhiều hơn, bởi vì các giáo sĩ thường nghi ngờ những ai không bằng lòng với gia cảnh của mình.

Sự thận trọng đã có ích cho tôi vì tôi nhanh chóng nhận thấy các giáo sĩ có tay sai và tay trong của họ trong nhóm chúng tôi. Một từ thiếu cân nhắc, một lời nói để lộ sự ngờ vực hay một chuyện trêu chọc giữa bạn bè lập tức đến tai các giáo sĩ và sau đó kẻ phạm tội sẽ bị thẩm tra và trừng phạt. Có những đứa bị phạt bằng gậy và cũng có những đứa bị trục xuất khỏi thánh đường, từ đó vĩnh viễn không được vào lại Nhà Sống ở Thebes hay bất kỳ nơi nào khác trên khắp Ai Cập. Nếu có chí, chúng có thể tới các xứ phiên thuộc làm người phụ việc cho các lang y ở các châu, lộ hay tạo dựng cho mình một tương lai ở đất Kush hay Syria vì tiếng tăm của các danh y Ai Cập đã lan truyền khắp thế giới. Nhưng phần lớn bọn họ bị đánh bật ra khỏi quỹ đạo và trở thành những viên thư lại tầm thường nếu như đã kịp học đọc và học viết.

Khả năng viết và đọc cho phép tôi vượt lên trước các đồng môn, kể cả những người lớn tuổi hơn mình. Tôi nghĩ mình đã đủ trưởng thành để vào Nhà Sống, nhưng lễ thụ phong của tôi bị trì hoãn. Tôi không đủ can đảm để cật vấn họ lý do, vì như vậy sẽ bị coi là bướng bỉnh đối với thần Amon. Tôi đành phung phí thời gian vào việc chép lại các bài văn tế để người ta đem bán ở sân trước đền. Vì vậy trong thâm tâm, tôi thầm kháng cự và trở nên trầm uất. Một số bạn đồng môn dốt hơn tôi đã bắt đầu được nhận vào học ở Nhà Sống. Nhưng cũng có thể nhờ sự hướng dẫn của bố mình nên tôi mới có được học vấn ban đầu tốt hơn chúng. Sau này nghĩ lại, tôi thấy các giáo sĩ Amon thông thái hơn tôi. Họ nhìn thấu tâm can tôi, họ đoán được sự coi thường và nghi ngờ của tôi đối với họ, vì vậy họ thử thách tôi.

Nỗi buồn phiền của tôi cứ tăng lên, tôi ngủ không yên và chiều đến thường đi một mình ra sông Nile ngắm nhìn mặt trời lặn và các ngôi sao mọc. Tôi có cảm giác như mình bị ốm. Tiếng cười của các cô gái trên đường phố khiến tôi khó chịu và bực bội. Tôi không biết mình mong muốn điều gì và sự ngọt ngào, quyến rũ của những câu chuyện và bài thơ làm trào dâng trong tôi những suy tư khiến trái tim tôi mềm yếu và mắt tôi ứa lệ mỗi khi tôi chỉ có một mình. Bố tôi thỉnh thoảng nhìn tôi cười một mình, còn mẹ Kipa bắt đầu kể say sưa hơn trước những câu chuyện về những người đàn bà xảo trá hay dụ dỗ những chàng trai trẻ đẹp đến vui thú cùng họ khi người chồng đi vắng.

Cuối cùng người ta báo cho tôi là đến lượt tôi vào canh ở thánh đường. Tôi phải ở trong thánh đường một tuần liền và trong thời gian đó không được phép ra khỏi khu vực đền. Tôi phải ăn chay và giữ mình sạch sẽ, rồi bố tôi phải đến cắt mái tóc xoăn trẻ con của tôi và mời hàng xóm láng giềng đến dự một bữa tiệc vào ngày lễ trưởng thành của tôi. Kể từ đó trở đi tôi được coi là đã trưởng thành vì tôi đã đủ chín chắn để được thụ phong, mặc dù trong thực tế việc này thật đơn giản và phù phiếm. Mặc dù vậy, cũng nhờ nó mà tôi được đưa lên vị trí cao hơn so với bọn trẻ hàng xóm và những đứa cùng trang lứa.

Mẹ Kipa đã cố gắng hết sức, nhưng tôi thấy bánh phết mật ong đắng ngắt trong miệng và sự vui vẻ cùng với những lời nói đùa tục tĩu của những người hàng xóm không làm tôi vui. Tối đến, sau khi hàng xóm đã về hết, nỗi buồn của tôi cũng lan sang Senmut và Kipa. Senmut bắt đầu kể cho tôi nghe về sự ra đời của tôi và Kipa giúp ông nhớ lại, còn tôi chăm chăm nhìn chiếc thuyền sậy treo phía trên giường của hai người. Những thân sậy đã thâm đen và mủn ra khiến tim tôi như quặn thắt. Tôi không có bố mẹ đẻ trên thế gian. Tôi cô đơn dưới bầu trời sao giữa thành phố rộng lớn này. Có thể tôi chỉ là một đứa trẻ ngoại lai tội nghiệp ở xứ Kemet. Có lẽ gốc gác của tôi là một bí mật đáng xấu hổ.

Tôi mang theo vết thương lòng khi trở lại thánh đường cùng với chiếc áo choàng cho ngày lễ thụ phong được mẹ Kipa kỳ công may thêu với tất cả tình thương yêu của mẹ.

2

Chúng tôi gồm hai mươi lăm chàng trai trẻ chuẩn bị làm lễ thụ phong. Tắm trong ao thánh đường và cạo nhẵn đầu xong, chúng tôi mặc lên người chiếc áo choàng bằng vải thô. Vị giáo sĩ thụ phong cho chúng tôi không phải là người quá kỹ tính. Theo tập quán cũ, ông ta có thể bắt chúng tôi thực hành các nghi lễ tầm thường gây khó chịu, nhưng trong nhóm chúng tôi có những người đã trưởng thành, một số thuộc tầng lớp trên, một số đã qua các khóa học về luật và đã có chứng chỉ, hạ mình phụng sự thần Amon để sự nghiệp của mình được đảm bảo. Họ có nhiều đồ ăn và tiếp rượu cho các giáo sĩ, một số còn trốn ra nhà vui suốt đêm vì lễ thụ phong không có ý nghĩa gì với họ. Tôi trằn trọc với vết thương lòng và những suy nghĩ buồn rầu. Tôi tự bằng lòng với một lát bánh mì và một cốc nước - thức ăn và đồ uống theo phong tục của chúng tôi - và chờ đợi với tâm trí tràn đầy hy vọng xen lẫn sự ngờ vực u uẩn về một điều gì đó sẽ đến.

Tôi còn quá trẻ và thực lòng rất muốn tin. Người ta nói thần Amon xuất hiện tại lễ thụ phong và xuất ngôn với từng người nên đối với tôi sẽ là một niềm an ủi không diễn tả thành lời nếu tôi được giải thoát khỏi bản thân mình và đoán được mục đích của tất cả những gì diễn ra phía sau đó. Nhưng trước các danh y, ngay đến pharaon cũng trần trụi. Hồi còn bé khi đi theo bố mình, tôi từng nhìn thấy những bệnh nhân và người chết, nhờ đó tôi có cái nhìn thấu đáo hơn những cậu bé cùng trang lứa. Đối với một danh y, không điều gì là quá thần thánh và danh y không chịu khuất phục trước điều gì ngoài cái chết, đó là lời dạy của bố tôi. Vì thế tôi có sự nghi ngờ và tất cả những điều tôi chứng kiến trong ba năm qua đã làm tăng thêm nỗi nghi ngờ của tôi.

Nhưng tôi nghĩ có lẽ trong bóng tối phía sau tấm màn của vị thần tối cao có một điều gì khác mà tôi không biết. Có lẽ thần Amon sẽ hiển hiện trước mắt tôi và đem lại sự bình yên cho trái tim tôi.

Tôi nghĩ về những điều này khi lang thang trong hành lang dành cho những người thế tục của ngôi đền. Tôi ngắm nhìn những bức tranh thánh thần màu sắc sặc sỡ và đọc những dòng chữ linh thiêng nói về vô số những vật phẩm mà các pharaon đã mang về từ các cuộc chiến cho thần Amon như chiến lợi phẩm. Khi ấy, một phụ nữ xinh đẹp trong bộ trang phục bằng lanh mỏng tang khiến ngực và eo lộ rõ đi về phía tôi. Chị ta có dáng người thon thả, môi, má và lông mày tô son, nhìn tôi với vẻ tò mò không chút ngượng ngùng.

- Cậu tên gì, chàng trai trẻ đẹp? - Chị ta hỏi, cặp mắt xanh lá cây nhìn vào tấm vải choàng màu xám trên vai tôi, cho biết tôi chuẩn bị làm lễ thụ phong.

- Sinuhe, - tôi bối rối đáp, không dám nhìn vào mắt người thiếu phụ. Nhưng chị ta thật đẹp và mùi hương kỳ lạ tỏa ra từ giọt dầu đọng trên trán chị ta khiến tôi mong được chị ta nhờ làm người chỉ dẫn trong thánh đường. Việc đó vẫn thường xảy ra với các môn sinh của thánh đường.

- Sinuhe, - chị ta trầm ngâm nhắc lại và nhìn tôi dò xét, - nếu vậy cậu sẽ đột nhiên hoảng sợ và chạy trốn nếu ai đó kể cho cậu nghe điều bí mật.

Chị ta ám chỉ câu chuyện về những cuộc phiêu lưu của Sinuhe khiến tôi bực mình, vì tôi đã bị trêu chọc quá đủ với câu chuyện đó khi còn ở trường. Thế nên tôi đứng thẳng người và nhìn vào mắt chị ta, ánh mắt của chị ta thật lạ lùng, trong sáng và hiếu kỳ, làm mặt tôi bắt đầu đỏ bừng lên và người tôi nóng ran như lửa.

- Sao tôi phải sợ? - Tôi nói. - Danh y tương lai không sợ bí mật nào.

- A hà! - Chị ta mỉm cười. - Chú gà con đã chiếp chiếp trước khi mổ vỡ vỏ trứng để chui ra. Nhưng trong nhóm của cậu có một anh chàng tên là Metufer phải không? Anh ta là con của kiến trúc sư hoàng gia.

Metufer là người đã tiếp rượu cho vị giáo sĩ và tặng ông ấy một chiếc vòng vàng làm quà nhân lễ thụ phong. Có gì đó khiến tôi nhói đau, nhưng tôi vẫn trả lời mình có biết cậu ta và sẵn sàng đi gọi cậu ta. Tôi nghĩ thiếu phụ này có thể là chị gái hoặc họ hàng của cậu ta. Ý nghĩ ấy làm tôi dễ chịu nên tôi bạo dạn nhìn thẳng vào mắt chị ta và mỉm cười.

- Nhưng tôi làm thế nào gọi được cậu ta khi tôi còn không biết tên chị cũng như không nói được ai đang cần gặp cậu ta? - Tôi mạnh bạo hỏi.

- Cậu ta biết mà, - chị ta nói và sốt ruột giẫm chiếc dép có đính đá sặc sỡ xuống nền đá, làm tôi phải nhìn đôi bàn chân nhỏ nhắn sạch bong với những móng chân đẹp sơn màu đỏ chót. - Cậu ta biết ai cần gặp cậu ta. Có thể cậu ta nợ tôi điều gì đó. Có thể chồng tôi đi vắng và tôi đợi cậu ta đến để làm tôi khuây khỏa.

Trái tim tôi lại nặng trĩu khi nghe chị ta đã có chồng, nhưng tôi can đảm nói:

- Tốt lắm, người vô danh ạ! Tôi sẽ gọi cậu ta. Tôi sẽ nói với cậu ta rằng một phụ nữ trẻ và đẹp hơn nữ thần mặt trăng cần gặp cậu ta. Khi đó cậu ta sẽ biết chị là ai, vì ai từng gặp chị một lần sẽ không bao giờ quên được chị.

Hoảng sợ với sự bạo dạn của mình, tôi quay người định đi nhưng chị ta chạm vào người tôi và dịu dàng nói:

- Sao cậu vội thế! Đợi đã nào, có lẽ hai chúng ta còn chuyện để nói.

Chị ta lại nhìn tôi khiến trái tim tôi như tan chảy trong lồng ngực và dạ dày tôi như rơi xuống tận đầu gối. Rồi chị ta giơ bàn tay treo đầy nhẫn và vòng vàng sờ vào chỏm đầu tôi và thân mật nói:

- Cái đầu đẹp bị cắt hết tóc xoăn trẻ con này có lạnh không? - Rồi chị ta nhẹ nhàng nói tiếp. - Cậu nói thật lòng chứ? Cậu nghĩ tôi đẹp à? Hãy nhìn tôi kỹ hơn.

Tôi nhìn chị ta, quần áo của chị ta là loại vải lanh đắt tiền và trong mắt tôi chị ta rất đẹp, đẹp hơn tất cả các cô gái tôi từng nhìn thấy và chị ta không làm gì để giấu đi vẻ đẹp của mình. Tôi ngắm nhìn chị ta và quên đi trái tim đang bị tổn thương của mình, quên đi thần Amon cũng như Nhà Sống và việc đứng sát chị ta khiến cơ thể tôi như bị lửa thiêu đốt.

- Cậu không nói gì, - chị ta nói vẻ buồn bã. - Mà cậu cũng không cần trả lời vì trong đôi mắt đẹp của cậu, tôi chắc hẳn là một phụ nữ già, xấu và chẳng còn hấp dẫn. Cậu hãy đi gọi anh chàng Metufer sắp được thụ phong, như vậy cậu sẽ thoát khỏi tôi.

Nhưng tôi không đi và cũng không biết nói gì mặc dù tôi hiểu rõ rằng chị ta đang chế giễu tôi bằng lời nói của mình. Bóng hoàng hôn đã len vào giữa các hàng cột khổng lồ của thánh đường. Mắt chị ta lấp lánh trong ánh nhập nhoạng lọt qua hàng rào mắt cá bằng đá ở phía xa xa và không ai nhìn thấy chúng tôi.

- Có lẽ cậu không cần gọi chàng ta nữa, - thiếu phụ nói và mỉm cười với tôi. - Có lẽ cậu ở lại và vui vẻ cùng tôi là đủ vì tôi không có ai để làm mình khuây khỏa.

Lúc đó tôi nhớ lại điều mẹ Kipa từng nói về những người đàn bà chào mời những chàng trai trẻ đến ân ái cùng mình. Tôi bất chợt nhớ ra điều đó nên thấy hoảng sợ và lùi lại một bước.

- Chẳng phải tôi đã nói là Sinuhe sợ ư, - chị ta nói và bước tới gần tôi. Nhưng tôi vội giơ tay ngăn lại và nói:

- Tôi đã biết chị là ai. Chồng chị thường đi vắng và trái tim lầm lạc của chị là một cái bẫy, còn vòng tay của chị bỏng rẫy hơn cả lửa.

Cho dù nói thế nhưng tôi không sao bỏ đi được. Chị ta hơi ngạc nhiên, nhưng lại mỉm cười và càng tiến lại gần tôi hơn.

- Cậu nghĩ vậy ư? - Chị ta dịu dàng nói. - Nhưng điều đó hoàn toàn không đúng. Vòng tay của tôi không hề bỏng rẫy mà trái lại người ta nói nó rất dịu êm. Cậu hãy thử xem! - Chị ta cầm lấy bàn tay đang cố cưỡng lại của tôi đặt lên ngực mình, tôi cảm nhận được vẻ đẹp của chị ta qua làn vải mỏng nên tay tôi bắt đầu run lên và má tôi nóng bừng.

- Chắc chắn là cậu không tin, - chị ta nói, ra vẻ thất vọng. - Chắc là lớp vải đang ngăn cậu, nhưng đừng sốt ruột, để tôi vén nó ra.

Rồi chị ta kéo vạt váy sang bên và đặt bàn tay tôi vào bầu vú trần của mình khiến tôi cảm nhận được nhịp đập của tim chị ta, trong khi bầu vú vẫn mềm và mát rượi dưới tay tôi.

- Đi nào, Sinuhe! - Chị ta nói rất khẽ. - Đi với tôi, chúng ta cùng uống rượu và vui vẻ với nhau.

- Tôi không được phép ra khỏi khu vực thánh đường, - tôi vội vàng nói và xấu hổ với sự nhút nhát của mình, nhưng vẫn vừa ham muốn vừa sợ chị ta như sợ cái chết. - Tôi cần giữ mình chay tịnh khi làm lễ thụ phong, nếu không tôi sẽ bị đuổi khỏi thánh đường và không bao giờ được vào Nhà Sống. Hãy tha cho tôi!

Tôi nói vậy vì biết rằng mình sẽ đi theo chị ta nếu như chị ta rủ rê tôi lần nữa. Nhưng chị ta là một thiếu phụ từng trải và hiểu nỗi sợ của tôi. Vì vậy chị ta nhìn xung quanh, ngẫm nghĩ. Chỉ có hai chúng tôi, nhưng gần đó có một toán khách và người hướng dẫn đang oang oang giới thiệu cảnh đẹp của thánh đường và thu thêm các vòng đồng của họ trước khi giới thiệu tiếp cho họ những điều kỳ lạ mới.

- Sinuhe, cậu là một chàng trai rất nhút nhát! - Chị ta nói. - Những người quyền thế và giàu có trao cho tôi vòng và vàng để được tôi gọi đến ân ái cùng. Nhưng cậu, Sinuhe, lại muốn giữ mình trinh trắng.

- Chắc chị muốn tôi gọi Metufer, - tôi tuyệt vọng nói, vì tôi biết rằng Metufer không ngần ngại trốn khỏi thánh đường cả đêm dù đến phiên cậu ta phải thức canh. Cậu ta có khả năng làm điều đó vì bố cậu ta là kiến trúc sư hoàng gia, nhưng tôi có thể giết cậu ta vì điều đó.

- Có lẽ tôi không muốn cậu gọi Metufer nữa đâu, - chị ta nói và giễu cợt nhìn vào mắt tôi. - Có lẽ tôi muốn chúng ta chia tay nhau như những người bạn, Sinuhe ạ. Vì thế, tôi cũng nói cho cậu biết tên tôi là Nefernefernefer, bởi vì người ta bảo tôi rất xinh đẹp và chưa ai từng nói tên tôi một lần mà không nhắc lại lần thứ hai và lần thứ ba. Nhưng cũng có một thông lệ là những người bạn khi chia tay trao cho nhau một món quà để khỏi quên nhau. Vậy nên tôi muốn có một món quà của cậu.

Lúc đó tôi lại cảm nhận sự nghèo khó của mình, bởi vì tôi không có gì để tặng chị ta, không có đến một đồ trang sức hay vòng đồng, mặc dù những thứ như thế dĩ nhiên không xứng để tặng chị ta. Tôi xấu hổ đến mức cúi đầu không nói được lời nào.

- Hãy tặng tôi một món quà để tâm hồn tôi được khuây khỏa, - chị ta nói và đưa ngón tay lên cổ tôi rồi ghé má mình lại gần má tôi. Khi tôi hiểu ra chị ta muốn gì, tôi liền chạm môi mình vào đôi môi mềm của chị ta. Chị ta thở nhẹ và nói:

- Cảm ơn cậu, Sinuhe, món quà thật đẹp. Tôi sẽ không quên nó. Nhưng cậu chắc chắn đến từ một xứ rất xa xôi, bởi vì cậu vẫn chưa biết cách hôn. Chứ làm sao mà các cô gái thành Thebes lại chưa dạy cho cậu kỹ thuật này, cho dù mái tóc xoăn trẻ con của cậu đã được cắt bỏ.

Nói xong, chị ta rút từ ngón tay cái ra một chiếc nhẫn bằng vàng và bạc, có gắn một viên đá màu ngọc bích chưa được chạm khắc và để vào tay tôi.

- Tôi cũng phải tặng cậu một món quà để cậu không quên tôi, Sinuhe, - chị ta nói. - Khi cậu được thụ phong và được nhận vào Nhà Sống, cậu có thể khắc dấu của mình vào viên đá này để chứng tỏ cậu ngang hàng với những người giàu có và quyền quý. Nhưng cậu cũng cần nhớ rằng nó màu xanh lá cây vì tên tôi là Nefernefernefer, và vì thỉnh thoảng người ta nói rằng mắt tôi xanh ngắt như nước sông Nile vào những ngày hè nóng nực.

- Tôi không thể lấy nhẫn của chị được, Nefer, - tôi nói và nhắc lại tên chị ta lần nữa, và việc nhắc lại này đã đem đến cho tôi niềm vui không thể diễn đạt bằng lời. - Tôi sẽ không bao giờ quên chị.

- Chàng trai khờ khạo, - chị ta nói, - hãy giữ lấy chiếc nhẫn vì tôi muốn thế. Giữ lấy nó theo ý thích dị thường của tôi, bởi vì nó sẽ mang đến cho tôi một món lợi lớn. - Chị ta đung đưa ngón tay thon nhỏ trước mắt tôi và ánh mắt chị ta cười khi chị ta nói thêm:

- Và hãy luôn nhớ đề phòng những phụ nữ mà vòng tay của họ nóng bỏng hơn cả lửa.

Rồi chị ta quay người bỏ đi, không cho tôi được tiễn. Từ cửa thánh đường tôi nhìn thấy chị ta bước lên một cái kiệu sặc sỡ ở ngoài sân. Một người chạy trước hô hoán dẹp đường, mọi người giãn ra hai bên, xì xào bàn tán và nhìn theo kiệu của chị ta. Khi chị ta đi khỏi, một cảm giác trống rỗng vô biên dâng tràn trong tôi, tựa như tôi đang đâm đầu xuống một vực thẳm tối tăm.

Mấy hôm sau, Metufer tình cờ trông thấy chiếc nhẫn trên ngón tay tôi, cậu ta cầm tay tôi và hoài nghi nhìn chiếc nhẫn.

- Ôi, lạy tất cả bốn mươi khỉ đầu chó công minh của thần Osiris! - Cậu ta kêu lên. - Nefernefernefer, phải không? Tôi không tin được cậu là người như thế.

Cậu ta nhìn tôi gần như thán phục dù tôi thường xuyên bị giáo sĩ bắt quét sàn và làm những việc tầm thường nhất trong thánh đường vì tôi không có gì để làm quà cho ông ta.

Lúc đó tôi tức điên Metufer và những lời cậu ta nói, kiểu cơn giận uất ức của một thanh niên chưa trưởng thành. Tôi rất muốn hỏi cậu ta về Nefer song tôi không muốn hạ mình làm thế. Vì vậy tôi chôn chặt điều bí mật trong lòng mình, bởi lời nói dối đáng yêu hơn sự thật và giấc mơ thì trong sáng hơn sự tiếp xúc trần tục. Tôi ngắm viên đá lục bích trên ngón tay mình, nhớ lại đôi mắt chị ta, bầu vú mát rượi của chị ta và vẫn còn nghe mùi dầu xức của chị ta trên ngón tay mình. Tôi níu giữ lấy chị ta và cảm giác đôi môi mềm của chị ta chạm vào môi tôi khiến tôi khuây khỏa, bởi vì thần Amon đã xuất hiện trước mắt tôi và đức tin của tôi đã sụp đổ.

Những khi nghĩ về chị ta, tôi thường thì thầm với chính mình, mặt nóng ran: “Em gái tôi”. Và ba từ đó như vuốt ve vòm miệng tôi, bởi vì từ thời cổ đại nó đã và sẽ mãi mãi có nghĩa là: Tình yêu của tôi.

3

Nhưng tôi kể thêm thần Amon đã xuất hiện trước mắt tôi như thế nào.

Vào đêm thứ tư, đến phiên tôi thức canh cho sự bình yên của thần. Chúng tôi gồm bảy chàng trai: Mata, Mose, Bek, Sinufer, Nefru, Ahmose và tôi, Sinuhe, con trai ông Senmut. Mose và Bek cũng dự định vào Nhà Sống nên tôi đã quen họ từ trước, còn những người khác thì tôi không quen.

Tất cả chúng tôi không cười, nét mặt nghiêm trang và đi theo vị giáo sĩ mà tôi không nhớ tên vào khu cấm của đền. Thần Amon dong thuyền về phía sau dãy núi phía tây, những người gác cổng đã thổi tù và bằng bạc và các cổng của thánh đường đã đóng kín. Tôi mệt lả vì nhịn ăn và hồi hộp, nhưng vị giáo sĩ dẫn chúng tôi đi đã ăn một bữa ngon với thịt gia súc hiến tế, hoa quả và bánh ngọt, dầu chảy dài trên mặt ông ta và hai má ông đỏ bừng vì rượu. Ông ta cười một mình và giơ tay vén tấm màn che cho chúng tôi nhìn vào chỗ linh thiêng nhất của đền. Thần Amon đứng trong cái am được đục ra từ một khối đá lớn, những viên đá quý trên mũ và cổ áo của thần lấp lánh ánh đỏ, xanh lá cây và xanh nước biển, sáng lấp lánh như những cặp mắt sống động dưới ngọn đèn thiêng. Buổi sáng, chúng tôi đã xức dầu thánh và mặc bộ trang phục mới cho thần dưới sự hướng dẫn của một giáo sĩ vì thần cần thay trang phục mới mỗi buổi sáng. Tôi đã từng nhìn thấy thần trước đó. Đó là vào dịp lễ hội mùa xuân khi thần được rước ra sân trên chiếc thuyền vàng và mọi người nằm rạp xuống đất trước mặt thần. Tôi cũng từng được nhìn thấy thần trên chiếc thuyền bằng gỗ tuyết tùng trong hồ thánh khi nước lũ dâng cao đến đỉnh điểm. Nhưng lúc đó tôi là một học trò nghèo nên chỉ được ngắm thần từ xa, bộ trang phục màu đỏ của thần không gây ấn tượng mạnh với tôi như bây giờ, dưới ánh sáng đèn trong sự tĩnh lặng vô biên của am thờ linh thiêng nhất. Chỉ thần Amon mới được dùng trang phục màu đỏ và tôi có cảm giác như sức nặng của những phiến đá đè xuống ngực mình khi nhìn vào khuôn mặt cao quý của thần.

- Hãy thức và cầu nguyện trước tấm màn che, - vị giáo sĩ vừa nói vừa níu lấy vạt màn, chắc vì ông ta đứng không vững. - Có thể thần gọi các con bởi lẽ thần thường xuất hiện với những ai sắp được thụ phong, gọi tên họ và xuất ngôn với họ, nếu họ xứng đáng.

Rồi ông làm dấu thánh rất nhanh và vừa lẩm nhẩm các tên linh thiêng của Amon vừa hất tấm màn che về lại chỗ cũ, không cúi người và cũng chẳng đặt tay lên đầu gối.

Sau đó ông ta bỏ đi, để mặc bảy đứa chúng tôi lại với nhau trong bóng tối của khu cấm trong đền, nơi những tảng đá lát nền tỏa cái lạnh rợn người lên bàn chân trần của chúng tôi. Nhưng khi ông ta vừa đi khỏi, Mose lấy chiếc đèn trong áo choàng của cậu ta ra, còn Ahmose thản nhiên đi đến chỗ linh thiêng nhất và lấy được ngọn lửa thiêng của thần Amon để chúng tôi thắp đèn.

- Thật dại dột nếu chúng ta chịu ngồi yên trong bóng tối, - Mose nói và chúng tôi cảm thấy an tâm hơn mặc dù ai cũng thấy hơi sờ sợ. Ahmose lấy bánh mì và thịt ra, còn Nefru và Mata bắt đầu chơi xúc xắc bằng những viên đá dưới nền, vừa ném vừa hét to tạo ra tiếng động vang dội trong sảnh thánh đường. Nhưng sau khi ăn xong, Ahmose quấn người trong áo choàng và sau khi chửi rủa độ cứng của những viên đá, cậu ta nằm xuống ngủ và một lát sau, Sinufer và Nefru cũng nằm xuống cạnh cậu ta để cả ba ngủ cùng nhau cho ấm hơn.

Nhưng tôi trẻ nhất trong bọn và sẽ thức canh, mặc dù tôi biết rõ là vị giáo sĩ đã nhận của Metufer một hũ rượu, đã gọi cậu ấy cùng một vài môn sinh con nhà quyền quý vào phòng mình và sẽ không theo dõi chúng tôi. Tôi vẫn thức dù biết qua lời kể của những người khác rằng những người sắp được thụ phong thường lén lút ăn, chơi và ngủ vào đêm trước. Mata bắt đầu kể về ngôi đền của thần Sekhmet đầu sư tử, nơi con gái thần thánh của Amon thường xuất hiện trước các vị quân vương và ôm ấp họ. Ngôi đền này nằm ở phía sau đền thần Amon nhưng không còn nổi tiếng như trước. Trong vòng hàng chục năm qua không pharaon nào đến đó và cỏ đã bắt đầu mọc lên giữa các tảng đá nơi sân trước. Nhưng Mata nói vào lúc này cậu ta sẽ không từ chối nếu phải canh ở đấy và ôm nữ thần trần truồng, còn Nefru vừa tung con xúc xắc trên lòng bàn tay vừa ngáp và lấy làm tiếc đã dại dột không mang theo rượu. Sau đó cả hai nằm xuống ngủ và chẳng mấy chốc chỉ còn mình tôi thức.

Đêm của tôi thật dài và trong khi các đồng môn ngủ, niềm khát khao và lòng sùng tín sâu sắc đã chế ngự tôi, bởi tôi nghĩ mình vẫn còn trẻ, cần giữ mình chay tịnh và tuân thủ tất cả các tập tục truyền thống để Amon có thể linh hiển trước tôi. Tôi lẩm nhẩm các tên linh thiêng của thần và lắng nghe từng tiếng động bằng sự cảnh giác của tất cả các giác quan, nhưng thánh đường vẫn trống vắng và lạnh lẽo. Tấm màn che chỗ linh thiêng nhất bắt đầu khẽ lay động khi bình minh lên, ngoài ra không có gì khác. Khi ánh sáng bắt đầu chiếu vào hành lang của thánh đường, tôi lặng lẽ thổi tắt đèn trong nỗi thất vọng vô biên và đánh thức các đồng môn.

Đội quân nhạc thổi tù và, lính canh đổi phiên trên các tường thành và âm thanh rì rầm khe khẽ như tiếng nước rơi trong gió ở xa bắt đầu vọng đến, cho chúng tôi biết rằng mọi công việc của một ngày mới đã bắt đầu trong khu thánh đường. Cuối cùng vị giáo sĩ vội vàng xuất hiện, theo sau là Metufer trước sự kinh ngạc của tôi. Họ vịn vào nhau, mùi rượu từ cả hai phả ra nồng nặc, một tay vị giáo sĩ đung đưa chùm chìa khóa của những chiếc hòm linh thiêng và lặp đi lặp lại những con số thần bí với sự trợ giúp của Metufer trước khi họ chào chúng tôi.

- Các môn sinh dự lễ thụ phong, Mata, Mose, Bek, Sinufer, Nefru, Ahmose và Sinuhe, - vị giáo sĩ cất tiếng. - Các con đã thức và cầu nguyện đúng như yêu cầu để có thể được thụ phong chứ?

- Chúng con đã thức và đã cầu nguyện ạ, - chúng tôi đồng thanh đáp.

- Thần Amon hiển linh trước các con như thần đã hứa không? - Vị giáo sĩ hỏi, rồi vừa ợ một tiếng vừa lơ đãng nhìn chúng tôi.

Chúng tôi nhìn nhau và lưỡng lự, cuối cùng Mose ngập ngừng nói:

- Thần đã hiển linh như đã hứa ạ.

Các môn sinh khác đều lần lượt nói:

- Thần đã hiển linh ạ.

Cuối cùng là Ahmose, nói một cách thành kính và dứt khoát:

- Quả thật, thần đã hiển linh ạ!

Cậu ta nhìn thẳng vào mắt vị giáo sĩ, nhưng tôi thì không nói lời nào và có cảm giác như tim mình bị bóp nghẹt vì tôi nghĩ những lời các đồng môn nói là báng bổ thần linh.

Metufer nói một cách trơ trẽn:

- Tôi cũng thức và cầu nguyện để được thụ phong, bởi vì đêm hôm sau tôi có việc khác cần làm hơn ở đây. Thần Amon cũng hiển linh với tôi và giáo sĩ đây có thể làm chứng. Thân hình thần tựa như một vò rượu to và thần nói với tôi về những điều linh thiêng mà tôi thấy không thích hợp để kể lại cho các cậu. Nhưng lời lẽ của thần ngọt ngào như rượu trong miệng khiến cơn khát được nghe của tôi kéo dài mãi cho đến khi bình minh lên.

Nghe thế, Mose lấy hết can đảm nói:

- Thần hiện về với tôi trong hình dáng con trai Horus của thần, ngồi trên vai tôi như một con chim ưng và nói: “Thần phù hộ con, Mose, thần phù hộ gia đình con, phù hộ những việc làm của con và con sẽ được sống trong ngôi nhà có hai cổng và ra lệnh cho các gia nhân”. Thần đã nói vậy.

Các môn sinh sắp được thụ phong khác cũng vội vàng kể thần Amon đã nói gì với mình và họ háo hức tranh nhau nói cùng lúc trong khi vị giáo sĩ lắng nghe, vừa cười vừa gật đầu. Tôi không biết liệu họ đang thật sự kể giấc mơ của mình hay họ nói dối. Tôi chỉ biết rằng mình đứng đó đơn độc và không nói gì.

Cuối cùng, vị giáo sĩ quay về phía tôi, chau mày và nghiêm giọng hỏi:

- Thế còn con, Sinuhe, con không xứng đáng để được thụ phong sao? Hay thần Amon cao cả không hiển linh với con trong bất cứ hình dạng nào? Con không nhìn thấy thần ngay cả trong hình thù của một con chuột nhỏ ư, bởi vì thần xuất hiện trong nhiều hình dạng khác nhau?

Việc vào Nhà Sống của tôi đang bị đe dọa, vì thế tôi lấy hết dũng khí và nói:

- Vào lúc sáng sớm con nhìn thấy tấm màn che linh thiêng đung đưa, ngoài ra không thấy gì khác và thần Amon cũng không nói gì với con ạ.

Tất cả phá lên cười, Metufer cười đến mức đập hai tay vào đầu gối và nói với vị giáo sĩ:

- Thằng bé ngu quá.

Rồi cậu ta giật tay áo đang ướt rượu của vị giáo sĩ và nói thầm với ông ta điều gì đó, mắt liếc nhìn tôi.

Vị giáo sĩ lại nghiêm khắc nhìn tôi và nói:

- Nếu như con không nghe được tiếng nói của thần Amon, ta không thể làm lễ thụ phong cho con được. Nhưng chuyện này có thể cho qua bởi vì ta muốn tin rằng con là đứa trẻ sùng tín và con rất thành tâm.

Nói xong, vị giáo sĩ đi về phía sau nơi linh thiêng nhất và biến mất. Metufer đi lại gần tôi, rồi nhìn vào vẻ mặt tội nghiệp của tôi, anh ta mỉm cười thân thiện và nói:

- Đừng sợ.

Nhưng một lát sau tất cả chúng tôi đều giật nảy mình, bởi vì một giọng nói siêu nhiên khác với tiếng của người thường vang lên trong bóng tối của thánh đường. Âm thanh như phát ra từ tất cả mọi nơi, từ trên mái, từ các bức tường và giữa các cột, khiến chúng tôi liên tục xoay người nhìn ra tứ phía để xem âm thanh vọng ra từ đâu. Âm thanh vang lên:

- Sinuhe, Sinuhe, kẻ khờ khạo kia, mi ở đâu? Hãy nhanh đến quỳ trước mặt ta bởi vì ta rất bận, không đợi mi cả ngày được.

Metufer kéo tấm màn che sang bên, đẩy tôi lên nơi linh thiêng nhất rồi nắm cổ tôi và ấn tôi cúi rạp xuống sàn, bắt tôi quỳ lạy theo nghi thức người ta thường làm với các thần linh và pharaon. Nhưng tôi ngẩng đầu lên ngay và nhìn thấy am thờ linh thiêng nhất sáng bừng lên và âm thanh đang phát ra từ miệng của thần Amon. Thần nói:

- Sinuhe, Sinuhe, con lợn và khỉ đầu chó kia! Có phải khi ta gọi thì mi đã say mèm và ngủ rồi không? Mi đáng bị ném xuống giếng bùn và ăn đất suốt đời. Nhưng vì tuổi trẻ của mi, ta tha cho mi, mặc dù mi ngu ngốc, lười nhác và bẩn thỉu, vì ta tha cho tất cả những kẻ tin ta, còn những kẻ khác, ta sẽ ném xuống địa ngục.

Vẫn còn nhiều điều nữa được phát ra cùng với tiếng gào, tiếng mắng nhiếc và chửi rủa. Nhưng tôi không còn nhớ được tất cả và cũng không muốn nhớ. Tôi chưa bao giờ thấy phẫn uất và bẽ bàng đến thế bởi khi cố lắng nghe, tôi nhận ra tiếng của vị giáo sĩ trong những âm thanh ầm ào thần bí và sự phát hiện này làm tôi căm phẫn, kinh hoàng đến mức tôi không thể nghe tiếp được nữa. Tôi vẫn nằm trước tượng thần Amon dù âm thanh đã lặng ngắt, cho đến khi vị giáo sĩ đến, đá tôi sang một bên và các đồng môn bắt đầu vội vàng mang hương, dầu thơm, thuốc xức và áo đỏ vào.

Mỗi người chúng tôi đã được giao việc từ trước nên chợt nhớ ra phần việc được giao của mình, tôi đi lấy một vò đầy nước thánh và khăn thánh từ sảnh trước thánh đường để chúng tôi rửa mặt, tay và chân của thần. Nhưng khi trở lại, tôi thấy giáo sĩ nhổ nước bọt vào mặt Amon và lau mặt thần bằng tay áo bẩn của ông ta. Sau đó Mose và Nefru tô môi, má và lông mày của thần. Metufer bôi dầu thơm cho thần trong khi cợt nhả xức dầu thánh cho cái mặt bóng láng mỡ của giáo sĩ và cả mặt mình. Cuối cùng chúng tôi cởi trang phục của thần, rửa và lau khô người như thể thần vừa đi vệ sinh xong, xoa dầu cho dương vật, mặc cho thần chiếc váy đỏ xếp ly đã được là, quấn xung quanh thần chiếc áo ngoài, quàng lên vai thần một tấm vải choàng và xỏ hai tay thần vào trong tay áo.

Khi làm xong tất cả những việc này, vị giáo sĩ thu gom trang phục vừa thay ra rồi cất nước rửa và khăn lau đi, bởi vì những thứ này sẽ được xé ra nhiều mảnh và bán cho những du khách giàu có ở sân trước, còn nước thì bán cho những người bị chứng phát ban để họ làm thuốc chữa trị. Rồi chúng tôi được tự do đi ra sân đầy ánh nắng, và tôi bị nôn.

Đầu óc và tâm hồn tôi hoàn toàn trống rỗng, như cái dạ dày của tôi vậy, bởi vì tôi không còn tin vào thần linh nữa. Nhưng tròn một tuần sau, tôi được xức dầu thơm lên đầu và được thụ phong làm giáo sĩ của Amon. Tôi đọc lời thề của giáo sĩ và nhận giấy chứng nhận thụ phong, trên đó có dấu triện của đền Amon và cả tên của tôi, cho phép tôi vào học trong Nhà Sống.

Vậy là tôi và các đồng môn Mose, Bek được nhận vào Nhà Sống. Cổng Nhà Sống đã mở ra cho chúng tôi và tên tôi được ghi vào Sinh thư, giống như tên của bố tôi, Senmut, đã được ghi vào đó trước tôi và tên của ông tôi đã được ghi vào đó trước bố tôi. Nhưng tôi sẽ không bao giờ được hạnh phúc như xưa nữa.

4

Trên danh nghĩa, việc giảng dạy trong Nhà Sống của đại thánh đường Amon do các danh y hoàng gia thuộc các chuyên ngành đảm nhiệm. Nhưng chúng tôi không mấy khi thấy họ, vì họ có rất nhiều bệnh nhân, được nhận nhiều món quà quý từ những bệnh nhân giàu có và sống trong những ngôi nhà rộng lớn ở ngoại ô thành phố. Nhưng trong những trường hợp bệnh nhân đến Nhà Sống với căn bệnh khó chữa khiến các thầy thuốc nội trú ở đây lúng túng hoặc không dám mạo hiểm chữa trị thì danh y hoàng gia thuộc chuyên ngành đó đến và truyền dạy những kỹ năng tốt nhất của mình cho các học trò. Như vậy, bệnh nhân nghèo nhất cũng có thể được danh y hoàng gia chữa trị vì danh tiếng của Amon.

Thông thường thì bệnh nhân vào Nhà Sống phải nộp quà tùy theo tài lực của họ, nhưng nếu bệnh nhân có giấy chứng nhận của các thầy thuốc thành phố xác nhận rằng lương y thường không thể chữa trị được cho họ thì ngay cả bệnh nhân nghèo nhất cũng được đưa thẳng đến Nhà Sống mà không phải nộp quà gì. Tất cả những điều này là rất tốt và đúng đắn nhưng dù như thế, tôi vẫn không muốn ốm khi là một người nghèo, vì sẽ bị thử nghề bởi những thầy thuốc còn non tay. Các y sinh được phép chữa trị cho bệnh nhân nghèo để học hỏi và họ không được phát thuốc giảm đau, phải chịu đựng kìm, dao và lửa mà không có thuốc gây mê. Vì thế những tiếng hét, gào và rên rỉ thường xuyên vang lên từ các sảnh ngoài của Nhà Sống, nơi những người nghèo được chữa trị.

Thời gian học và thực hành nghề y khá dài với ngay cả những y sinh có tài. Chúng tôi phải học kỹ cách dùng thuốc và nhận biết các loại dược liệu, thu hoạch cây thuốc đúng thời điểm, phơi khô và chế xuất thảo dược vì thầy thuốc phải biết tự bào chế thuốc khi cần thiết. Tôi và nhiều đồng môn khác bất bình về điều này, bởi chúng tôi coi đó là việc không hữu ích vì các y sinh trong Nhà Sống có thể chép đơn của tất cả các loại thuốc quen thuộc đã được pha trộn và cân đong. Nhưng dù sao, như tôi sẽ kể sau đây, việc học môn này đem lại cho tôi nhiều điều hữu ích.

Chúng tôi phải học tên các bộ phận cơ thể con người cũng như chức năng và vai trò của từng bộ phận. Chúng tôi còn học cả cách dùng dao và kìm nhổ răng, song trước tiên chúng tôi phải học dùng tay chẩn đoán bệnh cho bệnh nhân cả trong các ngóc ngách trên cơ thể, học chẩn đoán bệnh qua da và mắt của bệnh nhân. Chúng tôi phải giúp đàn bà sinh nở trong những ca mà bà đỡ không thể làm được. Chúng tôi phải biết kích thích cơn đau hoặc làm giảm cơn đau khi cần thiết. Chúng tôi học cách phân biệt những cơn đau nhẹ với những cơn đau nặng, cơn đau tinh thần với cơn đau thể xác. Chúng tôi phải sàng lọc sự thật từ lời nói dối của bệnh nhân và biết đặt ra những câu hỏi cần thiết, cặn kẽ từ đầu đến chân để có được một bức tranh chính xác về căn bệnh.

Vậy nên càng học được nhiều, tôi càng hiểu rõ rằng hiểu biết của mình còn quá ít. Có lẽ người thầy thuốc chỉ sẵn sàng hành nghề khi họ khiêm nhường tự nhìn nhận với bản thân rằng mình thực sự chẳng biết gì. Điều này dĩ nhiên không thích hợp để nói ra vì việc bệnh nhân tin tưởng thầy thuốc và khả năng chữa khỏi của người đó là quan trọng nhất. Đây là nền tảng của mọi phương pháp chữa trị mà người ta trông cậy vào. Vì vậy, người thầy thuốc không bao giờ được phép mắc sai lầm bởi vì nếu mắc phải sai lầm, người thầy thuốc đánh mất danh tiếng của chính mình và làm giảm thanh danh của các đồng nghiệp. Cho nên các gia đình khá giả sau khi nghe thầy thuốc đầu tiên chẩn đoán bệnh thường mời thêm hai hay có khi đến ba thầy thuốc khác để giúp chẩn đoán căn bệnh khó. Song nếu người đầu tiên chẩn đoán sai, các đồng nghiệp thà che giấu lỗi lầm của anh ta hơn là tiết lộ điều đó để cả ngành y không phải xấu hổ. Thế nên người ta hay nói thầy thuốc cùng nhau chôn bệnh nhân của mình.

Nhưng ngày đó tôi còn chưa biết tất cả những điều này mà chỉ vào học trong Nhà Sống với tất cả sự sùng kính và tôi tin rằng mình sẽ tìm được ở đó tất cả sự thông thái và thiện lương trên trần gian. Những tuần đầu tiên ở đây thật vất vả vì những học trò vào sau cùng phải phục vụ tất cả những người khác, và ngay cả kẻ phục dịch thấp hèn nhất cũng có thể ra lệnh và bắt anh làm việc. Điều trước tiên cần phải học là cách giữ vệ sinh, bởi không có bất cứ việc bẩn thỉu nào mà người ta không bắt anh làm đến mức anh phát ốm vì kinh tởm và cuối cùng trở nên chai sạn. Nhưng chẳng mấy chốc trong giấc mơ anh cũng biết dao mổ chỉ sạch khi được hơ trên lửa và quần áo chỉ sạch khi được nấu trong nước kiềm.

Dù sao tất cả những gì thuộc về nghề y đều được ghi trong các cuốn sách khác, nên tôi không viết thêm nữa. Tôi chỉ kể những điều thuộc về tôi, những điều tôi nhìn thấy và những điều người khác chưa viết.

Sau một thời gian dài thực tập và sau khi đã thanh tịch mình bằng các nghi lễ thánh, tôi được khoác lên mình chiếc áo choàng trắng và được vào phòng tiếp bệnh nhân, học nhổ răng từ miệng những người đàn ông cường tráng, băng bó chỗ đau, chọc các mụn nhọt và bó nẹp chân tay. Những việc này đối với tôi không có gì mới, tôi tiến bộ nhanh vì đã được bố tôi dạy từ trước, nên tôi trở thành người hướng dẫn và chỉ bảo các đồng môn. Thỉnh thoảng tôi được tặng quà như các danh y thường được tặng và tôi cho người khắc tên tôi, Sinuhe, vào viên đá xanh, viên đá được Nefernefernefer tặng, để tôi có thể dùng nó đóng dấu ở cuối toa thuốc của mình.

Tôi được giao những việc ngày một khó hơn, được trực ở những phòng có các bệnh nhân không còn hy vọng, theo dõi các danh y chữa bệnh và mổ ở những phòng chỉ một trên mười bệnh nhân được cứu sống. Tôi cũng học để thấy rằng cái chết không có gì đáng sợ với thầy thuốc và cái chết nhiều khi là người bạn nhân từ của bệnh nhân, làm cho nét mặt họ trông hạnh phúc hơn những ngày sống khốn khó trong cuộc đời của họ.

Nhưng tôi mù và điếc cho đến một ngày tôi tỉnh ngộ, giống như khi các hình vẽ, từ và chữ bắt đầu sống dậy với tôi vào một ngày khi tôi còn nhỏ. Đã đến lúc mắt tôi mở to, và như vừa tỉnh dậy khỏi giấc mơ với tâm trạng tràn ngập niềm vui, tôi tự hỏi mình: “Vì sao?”. Bởi vì “Vì sao?” chính là chìa khóa đáng sợ mở ra mọi tri thức đúng đắn. Nó mạnh hơn cây bút của thần Thoth và bền vững hơn những lời được khắc trên đá.

Việc đó xảy ra như thế này: Một người đàn bà không có con và tin mình vô sinh vì đã ở độ tuổi tứ tuần. Khi biết mình đã tắt kinh, bà ta sợ và vội vàng đi đến Nhà Sống bởi bà nghi ngờ rằng linh hồn quỷ dữ đã nhập vào bà và đầu độc thể xác bà. Như đã được dạy, tôi lấy một ít hạt yến mạch và gieo xuống đất. Tôi tưới nước sông Nile lên một nửa số hạt, còn nửa số còn lại, tôi tưới bằng nước giải của người đàn bà. Tôi gieo hạt ở chỗ đất có nắng ấm và bảo bà ta mấy ngày sau hãy trở lại. Khi bà trở lại, tôi thấy các hạt mầm đã nhú lên. Những hạt được tưới bằng nước sông Nile nhú lên mầm rất nhỏ, còn những hạt khác vươn lên xanh tốt. Như vậy, điều được viết ra là đúng và tôi kinh ngạc nói với người đàn bà:

- Bà hãy vui lên, Amon linh thiêng với lòng nhân từ sẽ ban phước cho bà và bà sẽ có con như những người phụ nữ đã được ban phước khác.

Người đàn bà đáng thương mừng phát khóc và tặng cho tôi một chiếc vòng bạc nặng hai deben làm quà bởi trước đó bà đã hoàn toàn hết hy vọng. Và khi đã tin tưởng tôi, bà ta hỏi:

- Con trai phải không?

Vì bà ta nghĩ rằng tôi biết tất cả. Tôi lấy can đảm, nhìn vào mắt bà ta và nói:

- Con trai.

Bởi vì khả năng là như nhau mà thời đó tôi luôn may mắn trong cờ bạc. Người đàn bà càng mừng hơn và tặng tôi thêm một chiếc vòng bạc nặng hai deben nữa.

Nhưng khi bà ấy đi khỏi, tôi tự hỏi:

- Sao lại như thế được, sao một hạt yến mạch lại biết được điều mà không thầy thuốc nào có thể chẩn đoán, trước cả khi dấu hiệu có thai được nhận thấy bằng mắt?

Tôi đánh bạo đi hỏi vị giáo sư của mình nhưng ông ta nhìn tôi như nhìn một kẻ điên và chỉ nói:

- Người ta viết như vậy.

Nhưng điều đó không trả lời được cho câu hỏi “Vì sao?” của tôi. Tôi lại lấy can đảm thêm một lần nữa, đi hỏi ngự y sản khoa làm việc trong nhà bảo sanh. Ông ta nói: “Amon là vị thần tối cao. Mắt thần nhìn thấu dạ con của người phụ nữ, nơi hạt rơi xuống. Nếu thần đã cho phép việc thụ thai thì tại sao lại không cho hạt yến mạch mọc trong đất chứ, khi mà nó được tưới bằng nước giải của một người đàn bà đã thụ thai?”.

Ông ta nhìn tôi như nhìn một kẻ điên, nhưng điều đó vẫn không trả lời được câu hỏi “Vì sao?” của tôi.

Lúc đó tôi chợt hiểu ra và nhận thấy các danh y của Nhà Sống chỉ biết những điều được viết ra và cách thức thực hiện, ngoài ra không biết gì hơn. Bởi vì nếu tôi hỏi vì sao một vết thương mưng mủ cần phải đốt, còn vết thương bình thường thì chỉ bôi thuốc mỡ và băng lại, hoặc vì sao nấm mốc và mạng nhện chữa được mụn nhọt thì câu trả lời sẽ là: “Từ trước đến giờ đều làm như thế”. Rồi người sử dụng dao mổ được quyền thực hiện một trăm tám mươi hai ca mổ và vết rạch, theo những điều đã được viết ra, ông ta làm theo kinh nghiệm hoặc tài năng của mình, có thể tốt hay tồi, nhanh hay chậm, gây đau ít hay nhiều nhưng không thể làm hơn thế, vì các việc này được viết ra và mô tả trong các sách, còn những việc khác trước đây chưa ai làm.

Có những người gầy rộc đi và mặt mày trắng bệch nhưng thầy thuốc không thể phát hiện liệu họ có bị bệnh hay tổn thương gì không. Dù thế nào, họ có thể lấy lại được sức và hồi phục nếu ăn gan tươi của vật hiến tế với giá đắt, nhưng vì sao lại như vậy thì không ai được phép hỏi. Có những người bị đau bụng, mặt và tay nóng bừng bừng. Họ được cho thuốc xổ và thuốc mê, một số đỡ đau, nhưng số khác lại chết mà danh y không thể nói trước rằng ai có thể khỏi, còn ai sẽ bị phù dạ dày mà chết. Nhưng vì sao người này khỏi, người kia chết thì không ai hỏi và cũng không được hỏi.

Tôi nhanh chóng nhận ra mình đã hỏi quá nhiều, bởi vì người ta bắt đầu nhìn tôi nghi ngờ và những môn sinh vào sau tôi đã vượt lên trước tôi và ra lệnh cho tôi. Tôi cởi bỏ chiếc áo choàng trắng, tắm rửa và rời khỏi Nhà Sống, mang theo hai chiếc vòng bạc nặng tổng cộng bốn deben.

5

Nhưng khi bước ra khỏi thánh đường vào giữa trưa - điều mà tôi không làm trong nhiều năm qua - tôi lại hiểu ra lần nữa khi nhận thấy Thebes đã đổi thay trong thời gian tôi học và làm việc ở Nhà Sống. Tôi nhận thấy điều đó khi đi trên Đại lộ Nhân Sư và qua các khu chợ, bởi khắp mọi nơi đều náo nhiệt, mới lạ, quần áo của người dân đắt tiền hơn và sang trọng hơn, đến nỗi không thể biết được ai là đàn ông, ai là đàn bà nếu chỉ dựa vào váy có nếp gấp và bộ tóc giả. Từ các quán rượu và nhà vui vọng ra tiếng nhạc Syria ầm ĩ, trên phố ngày càng nghe thấy nhiều từ nước ngoài hơn, những người Syria và người da đen giàu có chen vào nhóm người Ai Cập táo tợn hơn. Sự giàu có và hùng mạnh của Ai Cập là vô biên, hàng trăm năm qua không kẻ thù nào đặt chân tới được các thành phố của nó và những người đàn ông đã ở vào độ tuổi trung niên cũng chưa phải nếm mùi chiến tranh. Nhưng điều đó mang đến cho mọi người nhiều niềm vui hơn hay không, tôi nào biết bởi tôi nhìn thấy nỗi lo trong mắt họ và ai ai cũng vội vàng, ai ai cũng chờ đợi điều gì đó mới mẻ vì không hài lòng với ngày hôm nay.

Tôi đi dọc phố dài của Thebes một mình, trái tim trĩu nặng vì buồn và thất vọng. Tôi về nhà, thấy bố Senmut của tôi đã già, lưng còng xuống và ông không còn phân biệt được các con chữ trên trang giấy. Mẹ Kipa của tôi cũng đã già, thở hổn hển khi bước đi trong nhà và chỉ nói về nấm mồ của mình, vì bố tôi đã mua phần mộ cho cả hai trong thành phố của người chết ở mạn tây sông bằng tiền dành dụm được. Tôi đã được xem nó, một ngôi mộ đẹp được xây bằng gạch nung, thành mộ có tranh và dòng chữ khắc đơn giản. Bên cạnh và xung quanh mộ là hàng trăm, hàng ngàn ngôi mộ giống nhau mà các giáo sĩ của Amon đã bán cho những người lương thiện và có của dành dụm với giá đắt để họ có được sự bất tử. Tôi cũng chiều lòng mẹ, viết cho bố mẹ một cuốn Tử thư để chôn theo mộ, giúp họ không lạc lối trên hành trình dài. Đó là một cuốn Tử thư tuyệt đẹp được viết hết sức cẩn thận, mặc dù trong đó không có các tranh màu như trong các sách được bán ở quầy sách của đền Amon.

Mẹ tôi làm đồ ăn cho tôi, còn bố tôi hỏi tôi việc học hành, nhưng chúng tôi không còn gì để nói với nhau và ngôi nhà trở nên xa lạ đối với tôi, con phố và những người đi trên phố cũng xa lạ. Vì thế tôi càng buồn hơn, cho đến khi tôi nhớ đến ngôi đền Ptah và Thotmes, bạn tôi, người hẳn đã trở thành nghệ sĩ. Lúc đó tôi chợt nghĩ: “Mình có bốn deben bạc trong túi. Mình đi rủ cậu bạn Thotmes của mình cùng đi uống rượu giải khuây và vui chơi, bởi dù sao mình cũng không bao giờ nhận được câu trả lời cho câu hỏi của mình”.

Vì vậy tôi tạm biệt bố mẹ với lý do phải trở lại Nhà Sống và khi trời gần xẩm tối, tôi tìm thấy đền Ptah và hỏi người gác cổng về trường mỹ thuật, sau đó tôi đi vào và hỏi học trò tên Thotmes. Đến lúc ấy tôi mới biết cậu ấy đã bị đuổi khỏi trường khá lâu. Khi nghe tôi hỏi về Thotmes, các đồng môn của cậu ấy, tay lấm đất sét, nhổ nước bọt xuống đất trước mặt tôi. Song một trong số đó nói:

- Nếu tìm Thotmes, tốt nhất nên đến nhà vui hay tiệm bia.

Cậu thứ hai nói:

- Nếu nghe thấy ai đó nhục mạ thánh thần thì chắc chắn Thotmes đang ở gần đó.

Còn cậu thứ ba nói:

- Chỗ nào có đánh nhau đến bươu đầu, sứt trán thì chắc chắn cậu tìm được bạn Thotmes của mình ở đó.

Bọn họ nhổ nước bọt xuống đất trước mặt tôi vì tôi nói Thotmes là bạn của mình, nhưng họ làm thế chỉ vì thầy giáo đang ở đó, còn khi ông ấy quay đi thì họ bảo tôi đi đến tửu quán có tên là “Vò Rượu Syria”.

Tôi tìm thấy tửu quán Vò Rượu Syria nằm ở nơi giáp ranh giữa khu nghèo và khu giàu của thành phố, trên cửa ra vào có một dòng chữ ca tụng rượu từ đồi nho của thần Amon và rượu từ bến cảng. Tường bên trong quán có những bức tranh vui nhộn vẽ một con khỉ đầu chó mơn trớn các vũ nữ và một đàn dê thổi sáo. Phía dưới tường, các nghệ sĩ đang ngồi trên sàn chăm chú vẽ lên giấy và một ông già đang rầu rĩ nhìn cốc rượu cạn trơ trước mặt.

- Sinuhe à, xin bàn xoay thợ gốm chứng giám, - ai đó lên tiếng và đứng dậy chào tôi, tay giơ cao tỏ rõ sự kinh ngạc. Tôi nhận ra Thotmes, mặc dù chiếc áo choàng của cậu ấy bẩn và rách bươm, mắt cậu đỏ ngầu, trán nổi một cục to. Cậu ấy trông già và gầy đi, bên khóe miệng có nhiều nếp nhăn mặc dù cậu vẫn còn trẻ. Nhưng khi cậu nhìn tôi, mắt cậu vẫn còn ánh lên nét gì đó can đảm và tinh nghịch dễ lan sang người khác. Cậu cúi đầu gần hơn để chúng tôi chạm má vào nhau. Như thế, tôi biết chúng tôi vẫn là bạn.

- Lòng tớ trĩu nặng nỗi buồn và mọi thứ đều vô nghĩa, - tôi nói với cậu ấy. - Vì thế tớ tìm cậu để chúng ta cùng uống rượu cho khuây khỏa, bởi không ai trả lời cho tớ câu hỏi “Vì sao”.

Nhưng Thotmes giơ vạt áo trước lên, ra dấu rằng cậu không có gì để có thể mua rượu.

- Tớ có bốn deben bạc đeo ở cổ tay, - tôi hãnh diện nói.

Thotmes chỉ vào cái đầu vẫn còn trọc của tôi, đó là vì tôi muốn mọi người biết mình là giáo sĩ bậc một; chẳng là tôi không có điều gì khác để hãnh diện. Nhưng bây giờ tôi lại bực vì đã không để cho tóc mọc, nên tôi sốt ruột nói:

- Tớ là thầy thuốc chứ không phải là giáo sĩ. Tớ đọc ở cửa rằng ở đây cũng có rượu bến cảng. Chúng ta hãy uống thử nếu nó không đến nỗi nào.

Nói xong tôi lắc lắc chiếc vòng bạc trong tay và chủ quán vội vàng chạy đến trước tôi cúi đầu chào, hai tay thõng xuống ngang đầu gối.

- Quán tôi có rượu Sidon và Byblos vẫn còn nguyên xi và chúng ngọt mùi mộc dược, - gã nói, - cũng có rượu pha trong cốc sặc sỡ. Rượu sẽ bốc lên đầu nhanh như nụ cười của cô gái đẹp, khiến lòng ta lâng lâng.

Gã còn nói thêm nhiều nữa và kể lể một mạch không dứt khiến tôi bối rối và nhìn Thotmes dò hỏi. Thotmes gọi cho chúng tôi rượu pha, nô lệ đến giội nước lên tay chúng tôi và bê một đĩa hạt sen rang, đặt trên chiếc bàn thấp trước chúng tôi. Chủ quán mang những chiếc cốc sặc sỡ đến. Thotmes nâng cốc của mình lên rồi vừa nhỏ một giọt xuống sàn vừa nói:

- Nâng cốc mừng thợ gốm thần thánh! Hỡi dịch bệnh, hãy phá nát trường mỹ thuật và các ông thầy ở đó. - Cậu ấy đọc tên các thầy giáo mà cậu căm ghét nhất.

Tôi cũng nâng cốc của mình lên và nhỏ một giọt xuống sàn.

- Nhân danh Amon, - tôi nói, - hãy để thuyền của ông ta rò rỉ mãi mãi, hãy chọc thủng dạ dày các giáo sĩ của ông ta và dịch bệnh hãy đưa các thầy giáo dốt nát trong Nhà Sống đi. - Nhưng khi nói câu này, tôi nhỏ giọng và ngoái nhìn chung quanh vì sợ người lạ nghe thấy.

- Đừng sợ! - Thotmes trấn an. - Trong quán này rất nhiều tai mắt của Amon đã bị chọc thủng nên họ ngán nghe rồi. Chúng ta, những người đến đây dù sao cũng coi như bị bỏ rơi. Tớ còn không có đến cả bánh mì và bia nếu không nghĩ ra việc vẽ truyện tranh cho con cái nhà giàu.

Cậu ấy cho tôi xem cuộn giấy trong đó có các bức tranh cậu vừa vẽ xong khi tôi đến, và tôi buộc phải cười phá lên vì cậu ấy vẽ một pháo đài có các tường thành được bảo vệ bởi một con mèo đang run lên vì sợ hãi, chống lại đàn chuột đang tấn công, và cậu còn vẽ một con hà mã đang hát trên ngọn cây trong khi một con bồ câu đang mệt mỏi trèo lên cây bằng cái thang dài.

Thotmes nhìn tôi và đôi mắt nâu của cậu mỉm cười. Nhưng rồi cậu mở tiếp cuộn giấy và tôi không cười nữa, vì tiếp theo là một bức tranh trong đó một giáo sĩ nhỏ bé với cái đầu trọc kéo một pharaon to lớn trong cuộn dây thừng như kéo một con vật hiến tế đến đền. Cậu còn cho xem một tranh nữa vẽ một pharaon nhỏ thó cúi đầu trước bức tượng to lớn của thần Amon. Tôi nhìn cậu dò hỏi và cậu gật đầu nói:

- Không phải vậy ư? Cả người lớn cũng cười các bức tranh, vì chúng thật điên rồ. Thật nực cười khi nhìn con chuột tấn công con mèo và cũng hệt như thế khi một giáo sĩ kéo một pharaon. Nhưng những người biết thì bắt đầu nghĩ về đủ mọi điều. Vì vậy tớ có đủ bánh mì và bia cho đến khi các giáo sĩ cho lính gác nện tớ chết nơi góc phố. Điều như thế đã từng xảy ra.

- Chúng ta uống nào, - tôi nói và chúng tôi nâng cốc nhưng lòng tôi không thấy vui lên chút nào.

- Có phải hỏi “Vì sao” là sai không? - Tôi hỏi.

- Tất nhiên là sai, - Thotmes đáp, - bởi vì người dám hỏi “Vì sao” sẽ không có nhà, không có lều, không có chỗ ở trên đất Kemet. Mọi thứ đều phải như trước, cậu biết đấy. Tớ run lên vì vui sướng và hãnh diện khi được vào trường mỹ thuật, hẳn cậu còn nhớ chứ, Sinuhe? Tớ giống như kẻ khát gặp được nguồn nước. Tớ giống như kẻ đói gặp được bánh mì. Và tớ đã học được nhiều điều hay. Tớ học được người nghệ sĩ cần cầm bút vẽ thế nào, cầm đục ra sao và đổ mẫu vào khuôn sáp như thế nào trước khi đục vào đá, học đánh bóng đá như thế nào, phối màu đá ra sao và vẽ trên thạch cao tuyết hoa như thế nào. Nhưng khi tớ khao khát làm việc và thực hiện những điều mình mơ ước cho thỏa nguyện thì một bức tường chắn ngay trước mặt tớ và người ta bắt tớ nhào đất sét cho đứa khác nặn. Bởi vì trước tiên phải là khuôn mẫu. Nghệ thuật cũng giống như những con chữ được viết theo hình mẫu, ai làm khác sẽ bị nguyền rủa. Vì vậy mọi thứ đều có mẫu và ai làm khác mẫu sẽ không được coi là nghệ sĩ. Từ xưa đến nay đã có quy định vẽ người ngồi và người đứng như thế nào. Từ xưa đến nay đã có quy định ngựa chồm chân lên như thế nào và bò phải kéo xe ra sao. Từ xưa đến nay đã có quy định nghệ sĩ phải làm việc như thế nào và ai làm khác đi sẽ bị cấm vào đền, cấm động đến đá và đục. Sinuhe, bạn ơi, tớ cũng đã hỏi “Vì sao?”. Tớ đã hỏi “Vì sao?” quá nhiều lần. Chính vì thế tớ ngồi đây với những cái u trên đầu.

Chúng tôi uống rượu và đầu chúng tôi nhẹ bỗng, tâm chúng tôi bớt ưu phiền, cứ như ung nhọt đã bị chọc thủng, bởi vì chúng tôi không còn cô đơn nữa. Thotmes nói:

- Sinuhe, bạn à, chúng ta sinh ra vào cái thời thật oái oăm. Mọi thứ đều vận động và thay hình đổi dạng giống như đất sét trên bàn xoay của thợ gốm. Quần áo thay đổi, từ ngữ, tập quán thay đổi và con người không còn tin vào thần linh, mặc dù họ vẫn sợ thần linh. Sinuhe, bạn của tôi ạ, có lẽ chúng ta sinh vào thời lụi tàn của thế giới, bởi thế giới đã già ngay từ khi kim tự tháp được xây một, hai ngàn năm trước. Khi nghĩ về điều đó, tớ muốn gục đầu xuống cánh tay mà khóc như đứa trẻ.

Nhưng cậu ấy không khóc, vì chúng tôi đã uống rượu pha từ những chiếc cốc sặc sỡ và mỗi lần rót đầy cốc cho chúng tôi, chủ quán Vò Rượu Syria lại cúi đầu và để hai tay ngang đầu gối trước chúng tôi. Thỉnh thoảng một nô lệ lại chạy đến đổ nước lên tay chúng tôi. Lòng tôi nhẹ bẫng và lao vút như chim én trước ngưỡng cửa mùa đông, tôi muốn ngâm vang các bài thơ và ôm trọn cả thế giới xung quanh mình.

- Chúng ta đến nhà vui đi, - Thotmes cười, nói. - Chúng ta đi nghe nhạc và ngắm nhìn các cô gái nhảy để tâm hồn được khuây khỏa, để không còn hỏi “Vì sao” cũng như không đòi rượu phải đầy cốc nữa.

Tôi trả tiền rượu bằng một chiếc vòng và bảo chủ quán cầm cẩn thận vì nó vẫn còn dính nước tiểu của người đàn bà có mang. Ý nghĩ đó khiến tôi thấy rất nực cười, chủ quán cũng cười và trả lại một vốc bạc đã được đóng dấu nên tôi có thể cho tên nô lệ một đồng bạc. Hắn cúi người sát đất trước mặt tôi, còn chủ quán tiễn chúng tôi ra đến cửa và dặn tôi hãy nhớ quán Vò Rượu Syria. Gã còn nói mình quen vô số thiếu nữ trẻ trung và phóng túng, sẽ vui lòng làm quen họ với tôi nếu tôi đến chỗ họ, ôm theo hũ rượu mua từ quán của gã. Nhưng Thotmes nói rằng ông của cậu từng ăn nằm với những cô gái Syria như thế, rằng nên gọi các cô ấy là bà thì tốt hơn là em. Chúng tôi bỡn cợt như vậy vì hơi men đã bốc lên đầu.

Chúng tôi đi dọc các phố, mặt trời đã lặn và tôi học làm quen với Thebes, nơi không bao giờ có đêm, bởi vì những người dạo chơi ban đêm đã làm cho khu phố của họ sáng bừng lên như ban ngày. Đuốc sáng rực trước các nhà vui và đèn thắp sáng trên đỉnh các cột nơi góc phố. Tiếng các nô lệ khênh kiệu chạy, tiếng hét của người dẫn đường, tiếng nhạc vọng ra từ các ngôi nhà hòa lẫn với tiếng la hét om sòm của những người say rượu. Chúng tôi ngó vào trong cửa một quán rượu của người Kush, thấy những người da đen dùng tay và dùi gỗ gõ trống, tiếng thập thùng sợ hãi của trống lan xa khắp vùng. Hòa cùng với nó là tiếng nhạc Syria cổ sơ leng keng. Sự lạ lẫm của loại nhạc này có thể làm tai đau nhức, nhưng nhịp điệu của nó dễ nhớ và dễ khiến máu nóng bốc lên.

Tôi chưa bao giờ bước chân vào nhà vui nên hơi sợ, nhưng Thotmes kéo tôi vào một nhà có tên “Con mèo và chùm nho”. Đó là một ngôi nhà nhỏ và sạch sẽ, những tấm thảm mềm được dùng làm chỗ ngồi, ánh sáng vàng đẹp và những cô gái trẻ, theo tôi là đẹp, đang vỗ những bàn tay tô son đỏ theo nhịp tiếng sáo và đàn dây. Khi tiếng nhạc dứt, họ ngồi xuống cạnh chúng tôi và bảo tôi gọi rượu cho họ vì cổ họ khô như rơm. Nhạc lại nổi lên và hai vũ nữ khỏa thân trình diễn một điệu nhảy khó đòi hỏi kỹ năng cao khiến tôi rất thích thú theo dõi. Là thầy thuốc, tôi đã quen nhìn thân thể trần truồng của các cô gái, nhưng đôi vú trên những thân thể ấy không rung rinh, những cái bụng nhỏ và mông không lắc lư khêu gợi như thế này.

Nhưng tiếng nhạc lại làm tôi buồn và tôi bắt đầu nhớ mà không biết nhớ gì. Một cô gái xinh đẹp đặt tay lên tay tôi, ép sát người vào người tôi và nói rằng tôi có cặp mắt của một nhà thông thái. Nhưng mắt của cô ấy không xanh như nước sông Nile vào những ngày hè nắng gắt nhất và áo váy của cô không phải là vải lanh hoàng gia, cho dù nó làm hở lộ bầu vú của cô. Vì vậy tôi uống rượu mà không nhìn vào mắt cô, cũng không có ham muốn gì để gọi cô là em gái và bảo cô tiêu khiển cùng tôi. Thế nên điều tôi nhớ đến sau cùng về nhà vui là cú đá giận dữ của một tên da đen vào mông và cái u trên đầu khi tôi ngã từ cầu thang xuống. Điều đó xảy ra với tôi hệt như mẹ Kipa từng cảnh báo. Tôi nằm nơi góc phố, trong túi không một cắc bạc, tấm khoác vai rách bươm và đầu sưng vù cho đến khi Thotmes nâng cánh tay tôi lên đôi vai chắc nịch của cậu và dìu tôi ra bến cảng, uống nước sông Nile cho đỡ háo và rửa mặt mũi chân tay.

Sáng hôm ấy tôi trở lại Nhà Sống với đôi mắt sưng vù, chỗ u trên đầu đau nhói, tấm vải choàng vai đầy vết bẩn và không còn mảy may hứng thú hỏi “Vì sao?”. Tôi phải đến trực ở phòng có các bệnh nhân điếc và mắc bệnh về tai, nên tôi vội vàng lau người và mặc bộ đồ trắng của thầy thuốc rồi đi đến đấy. Nhưng thầy giáo và là người hướng dẫn tôi gặp tôi ở hành lang, nhìn vào mặt tôi và bắt đầu trách mắng tôi bằng những lời tôi vẫn thường đọc trong sách và đã thuộc lòng.

- Cậu sẽ trở thành ai nếu hằng đêm cậu cứ chạy bên các tường thành và uống rượu không ngớt như thế? - Ông ta nói. - Cậu sẽ trở thành ai khi cậu tiêu phí thời gian ở các nhà vui và lấy gậy đập vào các vò rượu làm người ta sợ hãi? Cậu sẽ trở thành ai khi cậu gây ra các vết thương và chạy trốn người bảo vệ?

Nhưng sau khi nói như thế vì trách nhiệm, ông ta mỉm cười một mình và thở phào nhẹ nhõm rồi kéo tôi vào phòng mình, cho tôi uống một thứ nước mà ông nói là để làm sạch bụng tôi. Tôi cảm thấy tâm trạng sảng khoái hơn và hiểu ra rằng rượu và nhà vui cũng được chấp nhận ở Nhà Sống, chỉ cần không hỏi “Vì sao?”.

6

Vậy là tôi cũng đã nhiễm sự náo nhiệt của Thebes và bắt đầu thích đêm hơn ngày, thích ánh sáng bập bùng của những ngọn đuốc hơn ánh sáng mặt trời, thích âm nhạc Syria hơn tiếng rên rỉ của người ốm, thích tiếng thỏ thẻ của các cô gái đẹp hơn những chữ viết cổ trên giấy ố vàng. Nhưng không ai trách mắng tôi về điều đó, miễn là tôi làm việc của mình ở Nhà Sống, vượt qua các cuộc sát hạch và không đánh mất sự chuẩn xác của đôi tay. Cuộc sống của người được thụ giáo là tất cả những điều đó, hiếm có môn sinh nào có đủ tiền để mua được nhà và lấy vợ trong thời gian đang học. Vì vậy những người thầy của tôi đã giúp tôi hiểu rằng tốt nhất tôi cần giải thoát đầu mình, giải thoát thân xác mình, và để cho tâm hồn được sảng khoái. Nhưng tôi vẫn chưa nếm mùi đàn bà, mặc dù tôi nghĩ mình biết vòng tay của họ không bỏng rẫy như lửa.

Đó là khoảng thời gian có nhiều biến động và Pharaon vĩ đại ngọc thể bất an. Tôi đã thấy khuôn mặt già nua, khô héo của ngài khi ngài ngự giá đến đền dự lễ mùa thu, trên người đầy vàng và đá quý, bất động như một bức tượng thánh và đầu như lọt thỏm dưới sức nặng của vương miện hai tầng. Ngài khó ở và thuốc của các thái y không giúp ngài khỏi bệnh nên người ta đồn rằng thời của ngài đã hết và Thái tử sẽ lên ngôi pharaon. Nhưng Thái tử đang còn trẻ, như tôi.

Người ta làm lễ hiến tế, quỳ lạy trong đền Amon nhưng Amon không giúp được con trai thần thánh của ngài, mặc dù Pharaon Amenhotep Đệ Tam đã xây dựng cho thần ngôi đền vĩ đại nhất từ xưa đến nay. Người ta còn nói rằng nhà vua giận các thần linh Ai Cập và đã phái sứ giả đi gặp quốc trượng của mình là vua Mitanni của xứ Naharani để xin người gửi nữ thần Ishtar từ Nineveh tới làm phép lạ, chữa cho ngài. Nhưng đó là điều sỉ nhục với thần Amon nên người ta chỉ dám xì xào trong khu vực đền và trong Nhà Sống.

Khi tượng Ishtar được gửi đến, tôi thấy các giáo sĩ với bộ râu xoăn, khăn trùm đầu lạ lùng và những áo khoác bông dày, đầm đìa mồ hôi khiêng tượng qua Thebes trong âm thanh lanh lảnh của những chiếc kèn đồng và tiếng bùng bục của dàn trống con. Nhưng ngay cả thần linh của xứ khác cũng không giúp được Pharaon, các giáo sĩ rất mừng vì điều đó, vì thế khi nước sông bắt đầu lên, danh y khoan sọ hoàng gia được vời đến cung điện.

Tôi chưa nhìn thấy Ptahor lần nào từ khi đến Nhà Sống vì ít khi có ca khoan sọ và trong suốt thời gian học của mình, tôi không được theo dõi các ca mổ hay chữa trị ở các chuyên khoa đặc biệt. Bây giờ, Ptahor đang được người ta vội vàng rước từ dinh thự của ông tới Nhà Sống. Ông rửa ráy trong phòng khử trùng và tôi làm mọi cách để được ở cạnh ông. Ông vẫn hói và mặt đầy nếp nhăn, hai má sệ xuống hai bên khóe miệng già nua, buồn bã, chán chường. Ông nhận ra tôi, mỉm cười và hỏi:

- Cháu đấy à, Sinuhe? Cháu đã tiến xa thế này ư, con trai Senmut?

Ông chìa cho tôi hộp gỗ mun đựng đồ mổ của mình và bảo tôi đi theo ông. Điều này là một vinh dự mà tôi chưa xứng đáng được nhận, có lẽ cả các danh y hoàng gia cũng phải ghen tị, nên tôi xử sự rất khiêm nhường.

- Trước tiên, ta muốn kiểm tra sự chuẩn xác của đôi tay mình, - Ptahor nói. - Ở đây chúng ta sẽ khoan vài ba sọ trước để xem mọi việc có suôn sẻ không.

Mắt ông nhòe ướt và tay hơi run. Chúng tôi đi vào phòng có những người bệnh hết hy vọng, những người bị bại liệt và bị bệnh về não. Ptahor xem xét sọ của vài người và chọn một ông già mà cái chết là sự giải thoát và một nô lệ to khỏe bị mất khả năng nói, không thể cử động được chân tay vì bị đá ném vào đầu trong một cuộc ẩu đả trên đường phố. Họ được cho uống thuốc gây tê rồi được đưa sang phòng mổ và lau rửa. Ptahor tự rửa bộ đồ mổ và hơ chúng trên lửa để tẩy trùng.

Việc của tôi là cắt tóc cho hai bệnh nhân bằng dao cạo tốt, sau đó tẩy sạch đầu, rửa một lần nữa rồi bôi dầu giảm đau lên da và Ptahor đã sẵn sàng làm việc của ông. Trước tiên, ông rạch da đầu ông già và mở da sang hai bên mặc cho máu chảy nhiều. Sau đó, với động tác rất nhanh, ông khoan một lỗ vào mảng xương lộ ra bằng mũi khoan rỗng ở giữa và nhấc ra một mẩu xương. Ông già bắt đầu thở hổn hển, mặt trở nên tái mét.

- Ta không thấy sọ của ông ta bị tổn thương gì, - Ptahor nói và để mẩu xương vào chỗ cũ rồi khâu mấy mũi để da đầu kín lại và băng đầu, ông già tắt thở ngay sau đó.

- Tay ta hơi run, - Ptahor nói. - Có lẽ cậu nào đó mang cho ta cút rượu.

Ngoài các giảng sư của Nhà Sống, toàn bộ nhóm nghiên cứu sọ tương lai cũng theo dõi chúng tôi. Ptahor cầm lấy cút rượu rồi nhìn về phía gã nô lệ đã bị trói ngồi vào ghế, gườm gườm nhìn dù đã uống thuốc tê. Ptahor bảo buộc y chặt hơn và buộc chặt đầu y vào giá giữ sọ để ngay cả người khổng lồ cũng không thể nhúc nhích. Ptahor mở da đầu của y và lần này ông cẩn trọng hơn với việc chảy máu. Các tĩnh mạch hai bên da đầu được đốt kín lại và ông cho dùng thuốc để cầm máu. Ptahor để việc này cho các danh y khác làm vì ông muốn đôi tay mình được nghỉ ngơi. Thực ra trong Nhà Sống thường có một người cầm máu, một người không được học hành gì, mà chỉ cần sự hiện diện của anh ta đã khiến máu đông trong mấy giây, nhưng Ptahor muốn vừa làm vừa giảng giải để dành sức cho ca mổ Pharaon.

Sau khi rửa bề mặt sọ, Ptahor cho mọi người xem chỗ xương bị lõm vào trong. Rồi dùng khoan, cưa và kìm, ông tách ra từ vỏ xương đầu mỗi lần một mẩu cỡ bằng lòng bàn tay rồi chỉ cho tất cả xem máu tụ lại như thế nào giữa các lớp trắng của não. Với sự cẩn thận cao độ, ông lấy từng tí máu ra và gỡ ra mẩu xương đâm vào não. Ca mổ diễn ra khá lâu nên tất cả các học trò đều kịp thấy các thao tác của ông và ghi nhớ bề ngoài của bộ não người sống. Sau đó Ptahor bít lỗ khoan lại bằng một miếng bạc vừa được làm theo hình mẩu xương được lấy ra lúc nãy và đã được sát trùng bằng lửa, rồi ông dính chặt nó vào vỏ sọ bằng những cái ghim nhỏ. Sau khi khâu da đầu lại như cũ và băng vết thương, ông nói: “Hãy thức hắn dậy”, vì bệnh nhân đã bất tỉnh khá lâu.

Người ta cởi trói cho gã nô lệ, đổ rượu vào họng y và cho y ngửi một loại thuốc có mùi gắt nồng. Một lát sau, y ngồi dậy và bắt đầu chửi rủa. Thật kỳ diệu, không ai có thể tin nếu không tận mắt chứng kiến bởi vì trước ca mổ, y không nói được và cũng không thể cử động tay chân. Lần này tôi không cần phải đặt câu hỏi “Vì sao” vì Ptahor đã giải thích rằng mẩu xương đâm vào trong và máu tụ lại trên bề mặt não đã gây nên các triệu chứng như đã thấy.

- Nếu hắn không chết trong vòng ba ngày tới thì coi như hắn đã được chữa khỏi, - Ptahor nói, - và sau hai tuần hắn có thể đánh nhau với kẻ đã ném đá vào đầu mình. Ta không nghĩ hắn sẽ chết.

Sau đó ông vui vẻ cảm ơn tất cả những người đã giúp đỡ ông, nhắc cả tên tôi, mặc dù tôi chỉ đưa cho ông những dụng cụ mổ mà ông cần. Nhưng tôi không hề đoán được mục đích của ông khi cho tôi làm việc ấy vì khi đưa tôi cầm hộp gỗ mun của mình, ông đã chọn tôi làm người phụ tá cho ông trong cung điện của Pharaon. Bây giờ tôi đã hai lần đưa đồ mổ cho ông và như thế, tôi đã thành chuyên gia, giúp ông nhiều hơn so với các danh y hoàng gia khi nói đến việc mổ sọ. Nhưng tôi không hiểu điều này nên hết sức ngạc nhiên khi ông nói:

- Có lẽ chúng ta đã thuần thục để đương đầu với não của quốc vương. Cháu đã sẵn sàng chưa, Sinuhe?

Thế là với chiếc áo choàng thầy thuốc giản đơn của mình, tôi đã bước lên ngồi bên cạnh Ptahor trên chiếc kiệu hoàng gia. Người cầm máu bằng lòng ngồi trên đòn kiệu và nô lệ của Pharaon đưa chúng tôi đến bến cảng bằng những bước chạy nhịp nhàng sao cho kiệu không hề đung đưa. Thuyền hoàng gia của Pharaon đã đợi chúng tôi trên bến cảng, các tay chèo được tuyển lựa từ đám nô lệ, chèo nhịp nhàng đến mức tôi có cảm giác như thuyền đang bay chứ không phải đang bơi trên mặt nước. Từ bến đỗ thuyền của Pharaon, người ta vội vàng đưa chúng tôi về nhà vàng và tôi không thấy ngạc nhiên, bởi vì binh lính diễu hành trên đường phố Thebes, các cổng thành đóng kín và những người buôn bán dọn hàng hóa vào kho, đóng các cửa lớn và cửa sổ lại. Những điều đó cho biết Pharaon Đại đế sắp băng hà.