• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
  1. Trang chủ
  2. Người Ai Cập - Quyền lực và Tình yêu - Tập 1
  3. Trang 6

Danh mục

Sách thứ baThebes náo nhiệt

1

Rất nhiều người, cả giàu sang lẫn thấp hèn, tụ tập quanh các tường thành của hoàng cung và cả bãi cấm bên sông cũng dày đặc ghe thuyền, những chiếc thuyền chèo tay bằng gỗ của người giàu và thuyền sậy quét hắc ín của người nghèo. Khi thấy chúng tôi, đám đông râm ran tiếng xì xào, nghe như tiếng nước rì rào xa xa và tin người khoan sọ hoàng gia đã đến lan ra, truyền từ người này sang người khác. Lúc đó mọi người giơ tay làm dấu để bày tỏ sự tiếc thương, tiếng la hét và tiếng than khóc vọng đến hoàng cung trước chúng tôi, bởi ai cũng biết rằng không pharaon nào sống thêm được ba ngày sau khi bị khoan sọ.

Từ cổng hoa huệ tây, chúng tôi được đưa tới các phòng trong hoàng cung, các triều thần phục vụ chúng tôi và cúi rạp mình sát đất trước Ptahor và tôi, vì chúng tôi nắm cái chết trong tay. Ở đó, một phòng khử trùng tạm thời đã được chuẩn bị sẵn cho chúng tôi, nhưng sau khi trao đổi đôi lời với ngự y riêng của Pharaon, Ptahor giơ tay biểu thị sự buồn rầu rồi lạnh lùng làm các bước khử trùng. Ngọn lửa thiêng được đưa đến theo sau chúng tôi khi chúng tôi đi qua các phòng tráng lệ của hoàng cung để bước vào cung thất của Pharaon.

Pharaon vĩ đại nằm trên giường dưới lọng vàng, các cột giường là các thần bảo vệ ngài và chiếc giường được đỡ bởi mấy con sư tử. Ngài nằm bất tỉnh trên giường, tất cả các vật biểu trưng quyền lực đã được cởi bỏ, thân thể ngài sưng phồng, trần trụi và tiều tụy; chiếc đầu già nua, teo tóp, ngoẹo sang một bên; ngài thở nặng nhọc và nước dãi từ khóe miệng nhễu ra. Quyền lực và hào quang trần thế như bóng mờ và dần dần biến mất như vậy, khiến ngài không khác gì một người già đang nằm chờ chết trong phòng chờ của Nhà Sống. Nhưng trên các bức tường của căn phòng, ngài vẫn ngồi trong những cỗ xe hoàng gia được những con ngựa có bờm kéo lao vun vút, bàn tay rắn chắc của ngài giương cung và những con sư tử trúng tên gục ngã dưới chân ngài. Các bức tường trong cung thất lập lòe đỏ, vàng và xanh nước biển, dưới sàn cá bơi lội tung tăng, đàn vịt vỗ cánh rào rào và những cây sậy đung đưa trong gió.

Chúng tôi cúi rạp mình trước Pharaon đang hấp hối và bất cứ ai từng nhìn thấy tử thần đều biết rằng tất cả tài năng của Ptahor đều vô ích. Nhưng từ trước đến nay, khoan sọ của pharaon là giải pháp cuối cùng nếu như ngài không chết theo cách tự nhiên, vì vậy đó là việc cần thực hiện lúc này và chúng tôi bắt đầu công việc. Tôi mở hộp gỗ mun, sát trùng khoan, dao mổ và kìm trên lửa một lần nữa rồi đưa con dao nhọn thần thánh cho Ptahor. Ngự y riêng của Pharaon đã cạo sạch tóc và rửa sạch cái đầu đang hấp hối của ngài, nên Ptahor lệnh cho người cầm máu đến ngồi cạnh giường và nâng đầu Pharaon vào lòng anh ta.

Lúc đó Hoàng hậu Teje bước đến gần giường và ngăn lại. Cho đến khi ấy, Hoàng hậu vẫn đứng bên tường, tay giơ cao tỏ nỗi đau buồn và bất động như một tượng thánh. Phía sau Hoàng hậu là Thái tử trẻ Amenhotep và chị gái của ngài, Công chúa Baketamon, nhưng cho đến lúc đó tôi không dám ngẩng lên nhìn họ. Bây giờ, khi trong phòng đang lộn xộn, tôi nhận ra họ từ những bức tranh ở trong đền. Thái tử Amenhotep trạc tuổi tôi nhưng cao hơn. Ngài ngẩng cao đầu, chiếc cằm dài, thẳng và mắt nhắm nghiền. Chân tay ngài khẳng khiu, yếu ớt, đôi lông mày và gò má rung rung. Công chúa Baketamon có những nét quý phái, xinh đẹp với cặp mắt hình trái xoan. Môi và má công chúa tô son hoe hoe đỏ, xiêm áo của công chúa là loại vải lanh hoàng tộc, để lộ ra sau lớp vải, chân tay công chúa như chân tay của thánh thần. Nhưng cả hai đều không oai nghi bằng Hoàng hậu Teje vĩ đại, mặc dù bà nhỏ người và đẫy đà vì tuổi tác. Da bà màu nâu sậm, gò má rộng và cao. Nghe đồn rằng bà có gốc gác thấp hèn và mang dòng máu người da đen, nhưng điều này tôi không dám chắc vì tôi chỉ nghe nói lại. Tôi chỉ biết mặc dù trong các ghi chép, cha mẹ của bà không thuộc dòng dõi quý phái nhưng bà rất cương nghị, sắc sảo, đôi mắt bà thông minh và dáng người bà toát lên vẻ oai vệ. Khi bà giơ tay và nhìn người cầm máu thì người này tựa như cát bụi dưới đôi bàn chân to bè, nâu sậm của bà. Tôi hiểu y vì y vốn chỉ là tay lái xe bò, con nhà thấp hèn, không biết đọc và không biết viết. Y đứng rụt cổ, hai tay thõng xuống, miệng mở hé và nét mặt đầy vẻ ngu đần. Y không tài cán hay sáng dạ, nhưng lại có khả năng chặn máu chảy bằng sự hiện diện của mình và nhờ vậy y được gọi vào ăn lương ở đền, bỏ lại sau những con bò và chiếc cày của mình. Dù có tắm rửa, kỳ cọ đến thế nào thì mùi phân bò vẫn bốc ra từ người y, nhưng y không thể giải thích tại sao mình có khả năng cầm máu. Nó không phải là năng lực, cũng không phải là một kỹ năng nhờ sự trau dồi mà có. Nó tiềm ẩn trong y giống như một viên đá quý có thể có trong đống sỏi và khả năng ấy không thể học hỏi hay qua tu luyện tâm linh mà có được.

- Ta không cho phép nó động vào thánh thể của quốc vương, - Hoàng hậu nói. - Ta sẽ giữ đầu quốc vương nếu cần thiết.

Ptahor không đồng ý và nói phẫu thuật sẽ làm máu bắn tứ tung rất gớm ghiếc. Mặc dù vậy, Hoàng hậu vẫn ngồi xuống mép giường và cẩn thận nâng đầu quân vương tôn kính của mình lên, đặt vào lòng mặc cho nước dãi của vua nhễu xuống tay mình.

- Thánh thượng là của ta, - Hoàng hậu nói. - Không ai khác được chạm vào ngài. Ngài sẽ đi vào cõi chết từ lòng ta.

- Thánh thượng là thần linh, sẽ lên thuyền của mặt trời quốc lão và lướt thẳng tới miền cực lạc. - Ptahor nói và dùng con dao mỏng mở lớp da đầu của Pharaon. - Ngài đã sinh ra từ mặt trời và ngài sẽ trở về mặt trời và thần dân sẽ muôn đời nhắc đến tên ngài. Nhân danh thần Seth và tất cả quỷ dữ, gã cầm máu còn lần chần gì thế?

Ông nói về những điều không liên quan đến ca phẫu thuật để hướng suy nghĩ của Hoàng hậu ra chỗ khác - như các danh y tài ba thường làm để giúp bệnh nhân của mình quên đi đau đớn. Nhưng đến câu cuối cùng, ông quát người cầm máu đang tựa vào khung cửa, mắt ngái ngủ nửa nhắm nửa mở vì máu từ đầu Pharaon bắt đầu chầm chậm chảy và nhỏ xuống người Hoàng hậu khiến bà co rúm lại, mặt trở nên tái nhợt. Gã cầm máu cũng giật mình bừng tỉnh. Có lẽ y đang nghĩ đến những con bò đực và mương tưới tiêu, nhưng bây giờ y đã nhớ ra việc của mình, bước lại gần hơn và nhìn Pharaon tay đang giơ cao. Máu lập tức ngừng chảy và tôi rửa rồi lau sạch đầu Pharaon.

- Xin lỗi, bà chị bé nhỏ của thần, - Ptahor nói và cầm lấy khoan từ tay tôi. - Dù thế nào ngài cũng sẽ đến với mặt trời quốc lão trên chiếc thuyền vàng và Amon sẽ phù hộ ngài.

Vừa nói ông vừa xoay mũi khoan giữa lòng bàn tay một cách nhanh và thành thạo nhất để nó rít ken két, xuyên vào xương. Lúc ấy, Thái tử mở mắt, bước về trước một bước và nói, cơ mặt rung rung:

- Không phải thần Amon mà thần Ra-Horakhty ban phước lành cho phụ vương và thần Aton là hiện thân của phụ vương.

Tôi đưa tay lên bày tỏ sự tôn kính mặc dù không hiểu ngài nói gì, bởi ai mà biết được hết hàng ngàn vị thần của Ai Cập, ít nhất là giáo sĩ của Amon, người có quá nhiều điều để nghĩ trong tam thành và cửu tháp thần thánh của thần.

- Aton linh thiêng, - Ptahor bình thản lầm bầm, - vì sao không phải là Aton, sao lưỡi tôi nhịu lại thế?

Ptahor lại cầm lấy con dao mổ và cái búa bằng gỗ mun rồi bắt đầu gỡ xương bằng những nhát gõ nhẹ.

- Đúng vậy thật, tôi nhớ ra rồi, bằng sự thông thái thần thánh của ngài, Pharaon đã lập đền thờ thần Aton, hình như ngay sau khi Thái tử chào đời, phải vậy không Teje xinh đẹp? Nào, một lát nữa thôi.

Ông liếc nhìn Thái tử đang đứng cạnh giường, vẻ phiền muộn, hai bàn tay nắm chặt và mặt đang run lên.

- Quả thật có lẽ một ngụm rượu nhỏ sẽ giúp vững tay hơn và cũng không hại cho Thái tử. Hơn nữa cũng nên phá xi gắn trên vò rượu của hoàng gia. Ôi chà!

Tôi đưa kìm cho ông và ông gắp ra một mẩu xương khiến cái đầu trên đùi Hoàng hậu động cựa.

- Rọi đèn vào, Sinuhe.

Ptahor thở phào vì việc khó nhất đã xong. Tôi cũng thở phào theo bản năng và hình như cảm giác nhẹ nhõm đã truyền sang Pharaon đang bất tỉnh; các bộ phận thân thể ngài khẽ động đậy, hơi thở chậm lại, rồi ngài lại chìm vào trạng thái bất tỉnh sâu hơn. Dưới ánh sáng đèn rọi vào, Ptahor nhìn chằm chằm vào phần não của Pharaon đang nhô cao lên trong lỗ khoan qua vỏ não. Não màu xanh xám và phập phồng.

- Hừm! - Ptahor kêu lên và trầm ngâm. - Điều gì làm được, ta đã làm. Cuối cùng đành để Aton săn sóc ngài, bởi vì đây là việc của thần linh chứ không phải của con người.

Ông nhẹ nhàng và thận trọng để mẩu xương lại chỗ cũ, phết keo dán vào chỗ hở, kéo da đầu lại rồi băng kín vết thương. Hoàng hậu lại ngả cái đầu xuống súc gối đỡ gáy bằng gỗ đắt tiền được chạm khắc và nhìn Ptahor. Máu trên đùi Hoàng hậu đã khô, nhưng người không để ý đến nó. Ptahor đáp lại cái nhìn can đảm của Hoàng hậu rồi không cúi người, ông hạ thấp giọng và nói:

- Pharaon sẽ sống được đến sáng mai nếu thần của ngài chuẩn thuận.

Nói xong ông giơ tay làm dấu buồn rầu và tôi cũng làm theo. Nhưng động tác giơ tay của Ptahor biểu thị sự thương cảm còn tôi thì không dám, bởi vì tôi là ai mà dám thương xót bậc đế vương. Tôi tẩy sạch bộ đồ mổ trên lửa và xếp chúng vào hộp gỗ mun của Ptahor.

- Ông sẽ được nhận rất nhiều quà, - Hoàng hậu nói và đưa tay ra hiệu chúng tôi được ra về.

Chúng tôi được đãi một bữa ăn trong sảnh đường của hoàng cung và Ptahor mừng rỡ khi nhìn thấy nhiều vò rượu trên giá cạnh tường. Ông sai mở một vò trong số đó sau khi đã đọc kỹ các tấm xi gắn trên miệng vò rồi nô lệ giội nước lên tay chúng tôi. Tôi hỏi Ptahor sao ông dám nói với Hoàng hậu và Thái tử một cách thất lễ như thế.

- Pharaon đích thực là thần khi người còn sống, - Ptahor nói và nhăn mặt, nhìn giống như một con khỉ đầu chó già nua. - Quả thật người ta xây dựng những ngôi đền cho ngài và dâng cúng nhiều sản vật từ mọi miền đất nước nhưng là một danh y, ta thấy Pharaon chỉ là một con người, cũng chết như chúng ta. Hoàng hậu cũng là một con người và có tất cả những tính cách đặc trưng của đàn bà. Lời nói của ta chỉ như tiếng vo ve của ruồi trong tai của gia đình hoàng gia, và cho dù ta có vo ve như những con ruồi xung quanh họ thì họ cũng không buồn dỏng tai về phía ta. Nhưng bây giờ họ sẽ nói: “Ptahor kỳ cục nhưng là một người đàn ông đáng kính. Chúng ta hãy tha thứ cho sự nông nổi của ông ta vì ông ta đã có tuổi và vì ý định tốt đẹp của ông ta”. Và họ trao cho ta nhiều món quà quý giá và sẽ không quên ta. Hãy nhớ rằng nếu cháu muốn hoàng đế nghe mình, hãy nói với ngài những điều trái ngược với điều người khác nói, nói với ngài như với một người đàn ông, người giống như mình. Khi đó, hoặc ngài sẽ nghe lời cháu, hoặc cháu sẽ bị người ta lấy gậy đuổi ra khỏi cung điện, nhưng dù sao ngài cũng sẽ nhớ đến cháu. Và thật tuyệt vời nếu pharaon nhớ đến thuộc hạ của mình.

Ptahor uống rượu và trở nên vui nhộn. Người cầm máu lấy tay nhón miếng thịt tẩm mật ong đút vào miệng nhai nhồm nhoàm, mất hẳn vẻ ngái ngủ ngu đần. Gã nói: “Không còn ở lều đất nữa”.

Gã cũng uống rượu và uống như thể đó là bia, mắt mở to, mặt đỏ bừng. Gã nhắc lại lần nữa:

- Không còn ở lều đất nữa, không bao giờ, không, chào! - Người hầu rót nước cho gã rửa tay và gã vẩy nước khắp sảnh. Ptahor nhìn gã độ lượng, bảo nhân cơ hội này hãy đi xem các chuồng trại của Pharaon, vì chúng tôi không thể rời khỏi cung điện trước khi Pharaon trút hơi thở cuối cùng hoặc khi ngài khỏi bệnh. Đó là quốc phong. Nếu Pharaon băng hà, chúng tôi buộc phải chết theo ngài.

Người cầm máu tin lời Ptahor nói và buồn hẳn. Nhưng rồi gã thấy vui ngay trở lại khi nghĩ mình sẽ không bao giờ phải chết trong lều đất và gã đòi đi xem các chuồng ngựa của Pharaon, khi vẫn còn cơ hội. Ptahor gọi người hầu đến dẫn gã đi và dặn rằng tốt nhất hãy để cho gã ngủ trong chuồng ngựa, vì như thế gã sẽ thấy thân thuộc hơn.

Khi còn lại hai chúng tôi, tôi mạnh dạn hỏi Ptahor về Aton vì tôi thực sự không biết Amenhotep Đệ Tam đã xây đền cho một vị thần có tên như vậy ở Thebes. Ptahor giải thích, Ra-Horakhty là thần của dòng họ Amenhotep, vì Thomes Đệ Nhất, pharaon vĩ đại nhất trong các pharaon, trong một lần tới sa mạc và đứng bên cạnh một nhân sư đã mơ thấy vị thần này hiện về báo mộng rằng ngài sẽ đội trên đầu vương miện của cả hai vương quốc, mặc dù lúc đó Thomes chưa thấy cơ may nào trở thành quốc vương. Trước ngài còn có quá nhiều người khác có thể được kế vị. Điều đó là có thật, vì vào thời trai trẻ điên rồ của mình, Ptahor từng đến chỗ các kim tự tháp và tận mắt nhìn thấy ngôi đền đã được cho xây để tưởng nhớ câu chuyện về giấc mộng của Thomes qua biểu tượng những cái chân khổng lồ của nhân sư và cái bảng ghi lại lời kể của Hoàng đế về sự hiển linh của mình. Từ đó trở đi, dòng họ Amenhotep tôn sùng Ra-Horakhty, vị thần ở hạ lưu Heliopolis và hiển hiện trong hình tướng của Aton. Aton là vị thần cổ sơ, cổ hơn Amon nhưng đã bị lãng quên cho đến khi Hoàng hậu sinh hạ được con trai sau khi đến cầu tự thần này ở Heliopolis. Vì thế một ngôi đền được xây cho Aton ở Thebes mặc dù ngoài các thành viên của hoàng gia không ai thăm viếng đền này. Aton ở đây là con bò đực với mặt trời ngự giữa đôi sừng và thần Horus được tượng hình dưới dạng chim ưng.

- Theo đó Thái tử là con trai thần thánh của Aton, - Ptahor nói và nhấp một ngụm rượu. - Hoàng hậu đã nhận được sự hiển linh trong đền Ra-Horakhty và sau đó sinh được con trai. Cũng từ nơi đó bà đã mang theo về một giáo sĩ đầy tham vọng mà bà rất ưu ái. Tên ông ta là Eje và ông ta đã cho vợ mình về làm vú nuôi của Thái tử. Ông ta có một cô con gái tên là Nefritite, bú từ cùng một bầu sữa với Thái tử và khi còn bé, cô ta giống như chị hoặc em gái Thái tử, như thế thì cháu biết chuyện gì sẽ đến.

Ptahor uống thêm một hớp rượu rồi thở phào và nói:

- À, với một ông già thì không có gì tuyệt hơn là được uống rượu và lảm nhảm về những việc không liên quan gì đến mình. Ôi, Sinuhe, con trai của ta, giá mà cháu biết bao nhiêu điều bí ẩn bị chôn vùi sau vầng trán của một danh y khoan sọ già nua. Có thể trong đó có cả những bí mật của hoàng gia và nhiều người ngạc nhiên vì sao không bé trai nào sinh ra và sống sót nơi hậu cung, bởi điều này trái với mọi nguyên lý của y khoa. Và ngài, người hiện giờ đang nằm kia với hộp sọ bị khoan, từng không bỏ qua bất kỳ thú vui nào trong những ngày tháng vui vẻ và khỏe mạnh của mình. Ngài là một thợ săn vĩ đại và trong cuộc đời mình, ngài đã hạ cả ngàn con sư tử, mấy trăm con bò rừng, bao nhiêu thiếu nữ đã cùng ngài ân ái trên cái giường dưới lọng che thì khó có hoạn quan nào tính được, vậy mà ngài chỉ có duy nhất một con trai với Hoàng hậu Teje.

Bồn chồn vì cũng đã uống khá nhiều, tôi thở dài và nhìn viên đá xanh trên ngón tay mình. Nhưng Ptahor lại tiếp tục nói, không đoái hoài gì đến tôi:

- Ngài, người đang nằm đó, đã tìm thấy Hoàng hậu vĩ đại trong một chuyến đi săn. Người ta nói rằng Teje là con gái của một người săn chim trong rừng sậy ở lưu vực sông Nile, nhưng Hoàng đế đã phong bà lên ngang hàng với mình bởi vì trí thông minh của bà, ngài cũng coi trọng cha mẹ thường dân của bà và chất đầy mộ của họ những món quà quý giá nhất. Và Teje cũng không ngăn cản thú vui nào của ngài, miễn là không phi tần nào nơi hậu cung sinh con trai. Về điểm này, bà có may mắn kỳ lạ và thật khó có thể tin nếu điều đó thật sự đã không xảy ra. Và nếu như ngài, người nằm đó, nắm trong tay trượng và roi thì Hoàng hậu vĩ đại nắm giữ cánh tay và bàn tay. Khi nhà vua vì lợi ích quốc gia mà kết hôn với con gái của vua Mitanni để ra khỏi cuộc chiến kéo dài muôn đời ở Naharani, vùng đất nơi thượng nguồn, Teje đã thuyết phục ngài tin rằng Công chúa có móng dê ở nơi cánh đàn ông ham muốn và rằng nàng cũng có mùi dê, ít nhất như người ta đồn đại và công chúa này về sau hóa điên.

Ptahor liếc nhìn tôi và nhìn xung quanh rồi vội vàng nói:

- Nhưng, Sinuhe, đừng bao giờ tin những chuyện như thế vì đó chỉ là lời đồn đại của những người xấu xa và ai cũng biết đến Hoàng hậu bởi sự thông thái và ân cần, tài lựa chọn những người đàn ông có khả năng xung quanh mình và ngai vàng của mình. Thế đấy.

Ptahor nghiêng cốc cho một giọt rượu rơi xuống sàn và thành kính ngước mặt nhìn lên. Rồi ông liếc sang bên, cười phá lên và reo to:

- Chào người cầm vỉ ruồi, - ông reo to. - Phải anh đó không? Hãy đến ngồi xuống đây và uống cùng tôi một cốc. Đã lâu chúng ta chưa gặp nhau.

Tôi đứng phắt dậy và cúi khom người, hai tay chạm sàn, bởi vì một bậc tôn kính, người cầm vương trượng bên phải nhà vua và giữ ấn triện của ngài, đang hạ cố đến gần chúng tôi. Ông đến một mình, trong tay ông là những biểu tượng quyền lực nhìn trang nghiêm buồn thảm. Khuôn mặt già nua của ông nhăn nhúm vì đau buồn và những giọt nước mắt lăn trên má. Đó là những giọt nước mắt đau khổ chân thành, ông khóc thương chính mình cũng như khóc cho Pharaon. Ông không hề liếc nhìn tôi bởi theo tập quán, đấng bề trên không cần nhìn kẻ bề dưới vốn chỉ như không khí xung quanh mình. Ông ta ngồi xuống, đặt ấn triện và vương trượng xuống, thở dài và cáu kỉnh nói:

- Này danh y khoan sọ, người ta đã tha thứ cho những lời đùa bỡn của ông, nhưng ông không nên cười cợt ở nơi lẽ ra phải đau buồn và than khóc. - Nói xong, ông đưa tay ra dấu muốn hỏi.

- Cho tới sáng, - Ptahor nói, - nhưng nhân lúc chúng ta không ở trong lều đất sét, như một người thông thái vừa mới nói đây, ông cũng nên uống với chúng tôi một cốc vì rượu thích hợp với niềm vui lẫn nỗi buồn. Nhưng tại sao ông chỉ có một mình và xuất hiện như một cái bóng, anh bạn của tôi? Tại sao những kẻ hầu hạ và đám thượng lưu không còn vây quanh ông như ruồi bu quanh chiếc bánh ngọt?

Quan chưởng ấn lau nước mắt trên má và mỉm cười buồn bã.

- Quyền lực giống như cây sậy trong tay con người, - ông nói. - Cây sậy bị gãy và con chim khôn ngoan kịp bay sang đung đưa trên ngọn sậy khác. Vì vậy, có lẽ ta sẽ uống một cốc với ông, Ptahor, mặc dù đó không phải là thói quen của ta, bởi vì ông nói đúng, rượu là thuốc bổ cho trái tim đau khổ.

- Lẽ nào nhanh đến như vậy? - Ptahor hỏi.

Quan chưởng ấn dang tay thể hiện sự bất lực.

- Tôi thậm chí còn không được vào thức canh bên ông chủ đang hấp hối của mình, - ông nói. - Có Amon chứng giám, thế gian trả ơn bằng sự vô ơn. Hoàng hậu vĩ đại đã đoạt lấy ấn triện của Pharaon và đám cận thần chỉ nghe lệnh của bà. Bên cạnh bà là giáo sĩ ngoại đạo và Thái tử, nói thật, Thái tử chỉ chăm chăm nhìn về phía trước, như con bê non để mặc người chăn dẫn đi đâu tùy ý.

- Nói về các giáo sĩ, - Ptahor nói và rót rượu vào cốc của quan chưởng ấn, vì mấy tên hầu đã bỏ đi khi ông đến, - như tôi vừa kể với anh bạn Sinuhe của tôi đây, một lần hồi còn trẻ bên các kim tự tháp tôi đã viết tên mình lên bàn chân của nhân sư khổng lồ như các lữ khách thường làm để tên tôi không bao giờ bị lãng quên.

Quan chưởng ấn lịch sự liếc nhìn nhưng không thấy tôi.

- À, Aton, - ông ta nói và thành kính đưa tay làm dấu biểu tượng Amon. - Các bản lề của cổng đền Aton đã bị hoen rỉ và quốc vương không còn bày tỏ lòng thành với thần đã nhiều năm nay. Ngài chẳng thà mời vị thần ngoại lai đến chữa trị cho mình. Đó là sự khác thường.

Ông ta lại liếc sang tôi lần nữa và chắc đã nhìn thấy tôi vì ông vội vàng nói thêm:

- Người ta cho thần linh được phép khác thường, bởi vì bản chất của thần linh là sự dị thường.

- Nhưng Thái tử lại nói về thần Aton, - Ptahor giải thích.

- Thái tử, - quan chưởng ấn nói với giọng coi thường thấy rõ, - Thái tử điên rồ và ốm yếu. Tôi dám nói, khi Pharaon còn chưa vào Nhà Chết, Hoàng hậu sẽ gắn bộ râu vào cằm mình, buộc đuôi sư tử vào hông rồi ngồi phán xử với vương miện trên đầu. Tất nhiên giáo sĩ đã xúi giục bà ấy, nhưng tôi cũng dám nói rằng Hoàng hậu phải liên minh với Amon nếu bà muốn trị vì Ai Cập.

Ông ta uống một ngụm rượu và mắt nhòe đi.

- Nói thật lòng, - ông nói tiếp, - các vị thần quả thật rất kỳ dị. Tôi đã hiến dâng đời mình cho thần Amon, tôi cúi đầu coi giáo sĩ tối cao của ngài như cha mình; là người kiến thiết tối cao, tôi đã dồn đất đai Ai Cập vào trong các ngôi đền của ngài nhưng không ai ngoài thần Seth với tất cả quỷ dữ của thần biết ơn tôi về điều đó.

Ông ta lại uống rượu và bắt đầu khóc.

- Tôi chỉ là một con chó già, - ông nức nở. - Tôi là con chó già và lưng tôi rụng hết lông, vì vậy mà tôi trần trụi. Ôi, tôi là chiếc ghế đẩu dưới chân đức vua của mình và ngài nhẹ nhàng ấn đầu tôi vào đất bụi trước mặt ngài.

Ông lại uống tiếp rồi ném cây roi vàng xuống sàn và xé bộ trang phục đắt tiền của mình.

- Những thứ phù phiếm, - ông ta nói, - nhưng tôi đã mất rất nhiều thứ để xây một ngôi mộ và họ không thể lấy nó đi được. Họ không thể tước đi nơi an nghỉ vĩnh hằng của tôi bên phải mộ của vua, mặc dù tôi chỉ là một con chó già trụi lông.

Ông ta gục đầu vào lòng hai bàn tay và khóc thảm thiết.

Ptahor vuốt đầu ông ấy dỗ dành, các ngón tay lần xoa những cục u trên đó.

- Ông có cái đầu thật hấp dẫn, - Ptahor nói. - Nói vui thế chứ tôi có thể mổ nó miễn phí cho ông.

Quan chưởng ấn liền nhấc đầu khỏi tay, ngước mặt lên với vẻ sợ hãi. Ptahor vờ hiểu sai phản ứng của quan chưởng ấn và nói theo kiểu lấy lòng.

- Thật đấy, hoàn toàn miễn phí, không cần đáp lại dù chỉ một món quà nhỏ; vì tình bằng hữu lâu năm, tôi sẵn sàng khoan sọ của ông, bởi vì ông có một hộp sọ hấp dẫn.

Quan chưởng ấn đứng lên nắm chặt cạnh bàn và giận dữ nhìn chằm chằm về phía trước, còn Ptahor giữ chặt cánh tay ông ta và khăng khăng thuyết phục:

- Chuyện đó nằm trong tầm tay mà. Tôi sẽ làm nhẹ nhàng, cẩn thận và biết đâu chỉ ngay hôm sau, ông có thể đi theo ông chủ của mình đến ngôi nhà ở miền tây.

- Ông đang nhạo báng tôi, - quan chưởng ấn nói, một lần nữa tỏ vẻ oai nghiêm rồi nhặt chiếc roi trên sàn nhà lên.

- Ông không tin vào Amon, - ông ta nói và thận trọng cúi người lần nữa để giữ chặt cái bàn.

- Thật tệ hại, quá tệ hại, - ông ta nói tiếp. - Nhưng tôi tha thứ cho sự ngu xuẩn của ông, bởi vì tôi không còn quyền trừng phạt nữa.

Ông ta bỏ đi với chiếc roi và cây trượng lủng lẳng bên tay trái, tấm lưng mệt mỏi và đầy phiền muộn. Sau khi ông ta đi khỏi, mấy tên hầu trở lại đại sảnh và đổ nước lên tay chúng tôi rồi xức cho chúng tôi một loại dầu thơm đắt tiền.

- Dắt ta đi, con trai ta Sinuhe, vì ta đã già rồi và đôi chân đã mỏi, - Ptahor nói.

Tôi đưa Ptahor ra để tận hưởng bầu không khí trong lành, màn đêm đã buông xuống và phía đông Thebes sáng rực, át cả ánh sáng đỏ trên bầu trời. Tôi đã uống rượu và cảm thấy tình yêu đối với Thebes lại dâng lên trong huyết quản. Những ngôi sao lấp lánh trên đầu tôi và khu vườn tràn ngập hương hoa thơm ngát.

- Bác Ptahor, - tôi cất lời, - cháu thèm khát tình yêu khi ánh sáng mờ ảo hiện lên trên bầu trời đêm của Thebes.

- Làm gì có tình yêu, - Ptahor nói một cách dứt khoát. - Người đàn ông sẽ trở nên buồn bã nếu anh ta không có một người đàn bà để ngủ cùng. Nhưng khi đã ăn nằm với một người đàn bà, anh ta sẽ càng buồn hơn. Xưa đã thế và sau này vẫn thế.

- Vì sao? - Tôi hỏi.

- Việc đó ngay cả thần linh cũng không giải thích được, - Ptahor đáp. - Đừng nói với ta về tình yêu trừ khi cháu muốn ta mổ sọ cháu. Ta sẽ làm miễn phí và không đòi hỏi ngay cả món quà nhỏ nhất vì làm như vậy, ta sẽ giải thoát cháu khỏi nỗi buồn.

Nghe đến đó tôi thấy tốt nhất là nên làm việc của nô lệ, bế ông vào lòng và đưa ông đến căn phòng dành cho chúng tôi. Ông nhỏ bé và già nua đến nỗi tôi không phải nặng nhọc thở hay gắng sức chút nào. Khi tôi đặt ông xuống giường, ông ngủ ngay lập tức sau vài lần cố với hũ rượu ở cạnh giường. Tôi đắp cho ông những tấm da lông mềm mại vì đêm lạnh rồi trở lên sân thượng đầy hoa, vì tôi còn trẻ và tuổi trẻ thì không muốn ngủ trong đêm Hoàng đế băng hà.

Lên đến sân thượng, tôi nghe thấy âm thanh trầm thấp của những người ngủ lại bên tường thành của cung điện, như tiếng gió xào xạc trong đám sậy xa xa.

2

Tôi thao thức trong mùi hoa thơm ngát khi ánh sáng đỏ rực của Thebes hừng lên trên bầu trời phía đông và nhớ đến đôi mắt màu xanh như nước sông Nile trong mùa hè nóng bỏng cho đến khi nhận ra không chỉ có một mình tôi trên sân thượng.

Trăng lưỡi liềm mỏng mảnh và ánh sao nhấp nháy mờ mờ nên tôi không biết người đang đến gần là đàn ông hay phụ nữ. Nhưng ai đó đang lại gần và cố nhìn thẳng vào mặt tôi để nhận diện tôi. Tôi khẽ cựa mình và người đó nói với giọng the thé kiểu trẻ con đầy kẻ cả:

- Có phải ngươi đó không, Người Cô Đơn?

Tôi nhận ra Thái tử nhờ giọng nói và thân hình mảnh khảnh, èo uột và tôi cúi đầu sát đất trước mặt ngài mà không dám nói lời nào. Nhưng Thái tử sốt ruột đưa chân ẩn tôi và nói:

- Đứng thẳng lên và đừng ngốc thế! Không ai thấy chúng ta, vậy nên ngươi không cần phải cúi lạy ta. Hãy dành cái lạy ấy cho thần, người có con trai là ta đây, vì chỉ một thần tồn tại, còn tất cả những thần khác đều là hiển linh của ngài. Ngươi có biết điều đó không?

Không đợi câu trả lời của tôi, ngài ngẫm nghĩ một lát rồi nói thêm:

- Tất cả thần linh, trừ Amon, vị thần giả.

Tôi giơ tay làm cử chỉ ngăn lại và nói “Ồ!” để thể hiện rằng mình sợ lời nói như vậy.

- Thôi đi, - ngài nói, - ta thấy ngươi đứng cạnh giường phụ vương ta rồi đưa dao và búa cho Ptahor ngu xuẩn. Vì thế ta gọi ngươi là Người Cô Đơn. Còn mẹ ta đặt cho Ptahor cái tên Khỉ Đầu Chó. Các ngươi được đặt cho những cái tên này để phòng khi các ngươi buộc phải chết thay vì được rời khỏi cung điện. Nhưng tên của ngươi do ta tìm ra.

Tôi nghĩ ngài thật sự có bệnh và điên rồ khi nói những điều vô nghĩa đó, nhưng cả Ptahor cũng nói rằng nếu Pharaon băng hà thì chúng tôi sẽ phải chết và người cầm máu cũng đã tin điều đó. Vì thế những sợi tóc đang mọc trên đầu tôi bắt đầu ngứa ngáy và tôi giơ hai tay lên để chặn lại vì tôi không muốn chết.

Thái tử thở dốc và đứt quãng bên cạnh tôi, rồi vừa khua tay vừa lẩm bẩm một mình:

- Ta bồn chồn, và muốn được ở nơi nào khác nơi đây. Thần sẽ hiện ra với ta, ta biết điều đó, nhưng ta sợ. Hãy ở bên ta, Người Cô Đơn, bởi vì thần sẽ đè nát thân thể ta bằng sức mạnh của thần và lưỡi ta sẽ đau lắm khi thần hiển linh với ta.

Tôi rùng mình vì nghĩ rằng ngài đang ốm và mê sảng. Nhưng ngài nói như ra lệnh:

- Đi thôi!

Vì thế tôi theo ngài. Thái tử dẫn tôi rời sân thượng và đi qua hồ trong hoàng cung, tiếng rên rỉ, than vãn của dân chúng từ phía sau những bức tường vọng đến tai chúng tôi. Chúng tôi vòng qua chuồng ngựa và trại chó rồi ra ngoài qua cánh cổng dành cho người hầu mà không bị lính gác cản lại. Tôi vô cùng sợ hãi vì Ptahor đã nói rằng chúng tôi không được phép rời khỏi hoàng cung cho đến khi nhà vua lâm chung, nhưng tôi không thể cưỡng lại Thái tử.

Ngài bước thoăn thoắt, thân hình như săn lại khiến tôi phải lấy hết sức mới theo kịp. Ngài chỉ mặc một chiếc khố, ánh trăng chiếu lên làn da trắng mịn, đôi tay khẳng khiu và cặp đùi thon như đùi phụ nữ. Ánh trăng chiếu rõ đôi tai đang dỏng ra, khuôn mặt khổ đau và thể hiện sự cuồng tín như thể ngài đang dõi theo một ảo ảnh mà người khác không thể nhìn thấy.

Khi chúng tôi ra đến bờ sông, ngài nói:

- Chúng ta đi thuyền. Ta phải đi về phía đông để gặp cha ta.

Không lựa chọn thuyền, ngài lên chiếc thuyền sậy gần nhất, tôi đi theo và chúng tôi bắt đầu chèo qua sông mà không bị ai đuổi theo mặc dù chúng tôi đã trộm thuyền. Đêm lao xao, những chiếc thuyền ngang dọc trên sông và vùng sáng Thebes phản chiếu lên bầu trời càng đỏ thẫm hơn trước mặt chúng tôi. Khi chúng tôi đến bờ, ngài để mặc cho thuyền trôi rồi bước đi về phía trước, như thể đã từng đi như thế nhiều lần. Vì không thể làm khác, tôi đi theo ngài lòng đầy sợ hãi. Rất nhiều người đi lại trong đêm nhưng không ai trong chúng tôi bị lính canh hét gọi bởi Thebes đã biết nhà vua sẽ băng hà vào đêm hôm đó.

Ngài vẫn bước đi mặc đói khát và tôi kinh ngạc về sự dẻo dai trong cơ thể yếu ớt của ngài, bởi vì mồ hôi chảy dọc sống lưng tôi khi tôi cố theo kịp ngài mặc dù đêm rất lạnh. Các chùm sao đã đổi ngôi và trăng đã lặn nhưng ngài vẫn đi và chúng tôi rời thung lũng, đặt chân lên một vùng đất hoang vu, bỏ lại Thebes ở phía sau. Trên nền trời phía đông, ba ngọn núi - những vệ sĩ trấn giữ Thebes - hiện lên đen thẫm trước mắt chúng tôi. Tôi băn khoăn tự hỏi không biết từ đâu và bằng cách nào để có được một chiếc kiệu, vì tôi nghĩ ngài sẽ không thể đi bộ cả quãng đường dài tương tự khi chúng tôi quay về.

Cuối cùng ngài vừa thở hổn hển vừa ngồi xuống cát và sợ hãi nói:

- Hãy nắm lấy tay ta, Sinuhe, vì chúng đang run rẩy và tim ta đập mạnh. Thời khắc đã gần kề, bởi vì ở đây hoang vắng, không có ai khác ngoài ngươi và ta, nhưng ở nơi ấy, nơi ta sắp đến, ngươi không thể theo ta. Dù vậy, ta không muốn một mình.

Tôi nắm chặt cổ tay Thái tử, nhận thấy toàn thân ngài co giật và lạnh ướt mồ hôi. Thế giới vắng lặng quanh chúng tôi và ở nơi xa xa nào đó, chó hung sa mạc bắt đầu tru lên cái chết. Những ngôi sao chầm chậm mờ dần và không gian bao quanh chúng tôi ảm đạm màu chết chóc. Đột nhiên, ngài gỡ tay tôi ra rồi đứng dậy và ngước mặt về ngọn núi phía đông.

- Thần đang đến! - Ngài khẽ nói, khuôn mặt ốm yếu hừng lên vẻ sùng kính.

- Thần đang đến! - Ngài nhắc lại, cao giọng hơn.

- Thần đang đến! - Ngài hét to vào sa mạc và ánh sáng bừng lên xung quanh chúng tôi, những ngọn núi phía trước chúng tôi nhuốm màu vàng rực và mặt trời lên. Sau đó, ngài hét lên giọng the thé rồi ngã xuống đất bất tỉnh, chỉ có chân tay co giật và miệng cử động, rồi ngài đưa chân đá cát. Nhưng tôi không còn sợ nữa vì đã từng nghe tiếng hét tương tự như thế trong Nhà Sống và tôi biết phải làm gì. Không có miếng gỗ để đặt vào giữa hai hàm răng ngài nên tôi xé một mảnh khố của mình, cuộn tròn lại và nhét nó vào miệng ngài rồi bắt đầu vuốt chân tay ngài. Biết rằng khi tỉnh dậy ngài có thể bị ốm và lú lẫn, tôi nhìn xung quanh để tìm sự giúp đỡ, nhưng Thebes đã ở xa phía sau chúng tôi và quanh đây không thấy đến một căn lều nhỏ bé nào.

Đúng lúc đó, một con chim ưng bay ngang qua tôi và rít lên. Nó lao thẳng đến từ vùng tia nắng sáng rực của mặt trời đang lên và lượn một vòng cung trên cao quanh chúng tôi. Rồi nó lại sà xuống, như thể muốn đậu lên trán Thái tử. Tôi kinh ngạc và làm dấu thánh Amon theo bản năng. Có lẽ Thái tử muốn nói Horus là thần của mình và thần hiện hình trước chúng tôi trong hình dạng chim ưng. Thái tử rên rỉ và tôi cúi xuống săn sóc ngài. Khi ngẩng đầu lên, tôi thấy chim ưng đã biến thành người. Trước mặt tôi là một chàng trai trẻ đứng trong ánh mặt trời đang lên, đẹp tựa một vị thần. Anh ta cầm một cây giáo và khoác trên vai tấm vải thô của dân nghèo. Dù không tin vào thần linh nhưng để cho chắc, tôi quỳ rạp xuống sát đất trước anh ta.

- Có chuyện gì vậy, - anh ta hỏi bằng giọng người miền Hạ và chỉ vào Thái tử. - Cậu bé này bị ốm sao?

Tôi xấu hổ và đứng dậy quỳ gối chào theo cách thông thường.

- Nếu anh là một tên cướp, - tôi nói, - anh sẽ chẳng cướp được gì nhiều từ chúng tôi, nhưng anh chàng đi cùng tôi bị ốm, và các vị thần có thể sẽ ban phước cho anh nếu anh giúp chúng tôi.

Anh ta rít lên như chim ưng và từ trên không trung, chim ưng bất ngờ lao thẳng xuống như một hòn đá rơi và đậu lên vai anh ta. Tôi nghĩ có lẽ tốt nhất vẫn nên thận trọng vì biết đâu anh ta là thần, dù chỉ là một vị thần hèn mọn nào đó. Vì thế, với vẻ tôn kính và lịch sự, tôi hỏi anh ta là ai và đang đi đâu.

- Tôi là Horemheb, con trai chim ưng, - anh ta nói đầy kiêu hãnh. - Cha mẹ tôi chỉ là thợ làm pho mát, nhưng tôi đã được tiên đoán vào ngày chào đời rằng tôi sẽ trở thành vị chỉ huy của nhiều người. Chim ưng bay trước mặt tôi, vì thế tôi đến đây bởi tôi không tìm thấy một nơi để trú trong những ngôi nhà nơi thành phố. Người dân Thebes sợ ngọn giáo khi trời tối. Nhưng tôi muốn làm chiến binh của Pharaon, vì người ta nói Pharaon đang ốm và ngài cần những chiến binh dũng mãnh để bảo vệ ngai vàng của mình.

Anh ta tráng kiện như một con sư tử mới lớn và ánh mắt lóe sáng như một mũi tên bay. Tôi ghen tị nghĩ thầm chắc có nhiều phụ nữ nói với anh ta: “Anh chàng điển trai, chàng không muốn đến vui với em trong nỗi cô đơn của em ư?”.

Có tiếng nức nở phát ra từ miệng Thái tử, rồi ngài giơ tay sờ mặt mình và vặn vẹo đôi chân. Tôi lấy miếng giẻ ra khỏi miệng ngài và ước giá như tôi có chút nước để làm ngài tỉnh táo lại. Horemheb tò mò nhìn ngài và lãnh đạm hỏi:

- Cậu ta sắp chết à?

- Anh ấy không chết, - tôi gắt gỏng đáp. - Anh ấy mắc chứng bệnh thần linh.

Horemheb nhìn tôi, tay nắm chặt ngọn giáo.

- Anh không cần phải khinh thường tôi, - anh ta nói. - Mặc dù tôi chỉ đi chân đất và vẫn còn nghèo. Tôi biết viết tàm tạm và đọc được các hình chữ, và tôi sẽ trở thành vị chỉ huy của nhiều người. Vị thần nào đã nhập vào anh ta?

Người ta nghĩ rằng thần linh cất tiếng nói qua miệng người mắc bệnh thần linh, do đó anh ta hỏi như thế.

- Anh ấy có thần của riêng mình, - tôi nói. - Tôi nghĩ rằng anh ấy hơi loạn trí. Khi anh ấy tỉnh lại, anh có thể giúp tôi khiêng anh ấy về thành phố không? Ở đó, chúng ta có thể tìm được một chiếc kiệu để đưa anh ấy về nhà.

- Anh ta bị lạnh, - Horemheb nói rồi cởi tấm vải choàng vai đắp cho Thái tử. - Thebes thường lạnh vào buổi sáng, nhưng tôi được dòng máu của mình sưởi ấm. Ngoài ra, tôi biết rất nhiều thần và tôi có thể kể cho anh tên của những thần luôn luôn có thiện ý với tôi. Nhưng vị thần của riêng tôi là Horus. Cậu bé chắc chắn là con nhà giàu vì nước da trắng mịn như thế và cũng không làm việc tay chân. Còn anh là ai?

Anh ta nói nhiều và hào hứng, bởi vì anh ta nghèo, đã vượt một chặng đường dài để đến Thebes và trên đường đi đã nếm trải sự thù địch và sỉ nhục.

- Tôi là một thầy thuốc, - tôi đáp. - Tôi cũng đã được thụ phong giáo sĩ bậc một trong đền thờ Amon ở Thebes.

- Chắc anh đang đưa anh ta vào hoang mạc để chữa trị? - Horemheb đoán. - Nhưng anh nên cho anh ta mặc ấm hơn.

Tôi nói thế không phải vì xem thường tài năng của các thầy thuốc, - anh ta lịch sự nói thêm.

Cát đỏ và lạnh, sáng rực dưới ánh bình minh, mũi giáo của anh ta cũng đỏ rực và chim ưng vừa kêu vừa lượn quanh đầu anh ta. Thái tử ngồi dậy, hai hàm răng rung lập cập, ngài rên nhè nhẹ và bối rối nhìn xung quanh.

- Ta đã thấy, - Thái tử nói, - khoảnh khắc ấy như một thế kỷ, ta không có tuổi, và ngài giơ cả ngàn bàn tay lên đầu ta để ban phước, mỗi bàn tay trao cho ta sự sống muôn đời. Lẽ nào ta không tin?

- Hy vọng ngài không cắn phải lưỡi, - tôi lo lắng nói. - Tôi cố bảo vệ ngài, nhưng tôi không có mảnh gỗ nào để nhét vào giữa hai hàm răng của ngài. Tiếng nói của tôi chỉ như tiếng ruồi vo ve bên tai ngài.

Thái tử nhìn Horemheb, đôi mắt mở to, sáng quắc, ngài đẹp lên khi mỉm cười và kinh ngạc.

- Anh có phải là người mà Aton, vị thần duy nhất, phái đến không? - Ngài ngạc nhiên hỏi.

- Chim ưng bay trước tôi và tôi đi theo chim ưng của mình, - Horemheb đáp, - vì thế nên tôi có mặt ở đây, còn những điều khác tôi không biết.

Thái tử nhìn cây giáo trong tay anh ta và nhăn trán.

- Anh có một cây giáo, - ngài nói với giọng trách móc.

Horemheb đưa cây giáo ra và nói:

- Cán của nó được làm bằng một loại gỗ tuyệt vời và lưỡi bằng đồng của nó khát khao lấy máu kẻ thù của Pharaon. Ngọn giáo của tôi đang khát và tên nó là Sát thủ Cứa Cổ.

- Đừng bao giờ là máu, - Thái tử nói. - Máu là thứ gớm ghiếc trước mặt Aton. Không có gì khủng khiếp hơn máu chảy.

Mặc dù tôi đã nhìn thấy Thái tử nhắm chặt mắt khi Ptahor thực hiện ca khoan sọ, nhưng tôi vẫn không biết rằng có những người phát ốm và có khi bị ngất khi nhìn thấy máu chảy.

- Máu thanh lọc các sắc tộc và làm cho họ mạnh mẽ, - Horemheb nói. - Máu nuôi béo các thần linh và làm họ hài lòng. Chừng nào còn chiến tranh, máu còn phải chảy.

- Sẽ không bao giờ có chiến tranh nữa, - Thái tử nói.

- Anh chàng thật ngớ ngẩn, - Horemheb bật cười. - Chiến tranh đã và sẽ luôn luôn xảy ra, bởi vì các dân tộc phải thử thách khả năng của nhau mới tồn tại được.

- Tất cả các dân tộc đều là con cháu của thần, tất cả các ngôn ngữ và màu da, xứ đất đen cũng như miền đất đỏ, - Thái tử nói và nhìn chằm chằm lên mặt trời. - Ta sẽ sai xây dựng đền thờ cho thần ở mọi vùng đất và sẽ gửi thánh giá sự sống tới các quốc vương của những vùng đất đó, vì ta đã thấy thần, ta được sinh ra từ thần và ta sẽ trở về với thần.

- Anh ta điên thật rồi, - Horemheb nói với tôi và lắc đầu tỏ vẻ thương hại. - Giờ tôi hiểu vì sao anh ta cần được chữa trị.

- Thần của ngài vừa hiện về với ngài, - tôi nghiêm trang nói để cảnh báo Horemheb, vì tôi đã cảm mến Thái tử. - Căn bệnh thần thánh cho ngài nhìn thấy thần linh và chúng ta không đủ khả năng để phán xét những gì thần nói với ngài. Mỗi người được ban phước với đức tin của riêng mình.

- Tôi tin vào cây giáo và chim ưng của mình, - Horemheb nói.

Nhưng Thái tử lại giơ tay chào mặt trời, khuôn mặt lại rạng ngời và đẹp lên như thể ngài đang nhìn thấy một thế giới khác với thế giới của chúng tôi. Chúng tôi để yên cho ngài cầu nguyện, sau đó dẫn ngài vào thành phố, còn ngài để mặc không phản đối. Cơn động kinh đã làm chân tay ngài rã rời, khiến ngài rên rỉ và bước loạng choạng. Vì thế cuối cùng chúng tôi mỗi người một bên, xốc nách Thái tử đi và chim ưng bay về phía trước.

Khi chúng tôi đến được rìa vùng đất canh tác, điểm cuối nơi các kênh tưới tiêu dẫn nước đến, chúng tôi thấy một chiếc kiệu hoàng gia đang chờ sẵn. Những người hầu cúi rạp xuống đất và từ trong kiệu một giáo sĩ cao lớn bước ra đón chúng tôi, đầu ông ta cạo trọc và khuôn mặt ngăm đen với vẻ đẹp u sầu. Tôi cúi đầu, để thẳng tay đến đầu gối trước mặt ông ta, vì tôi nghĩ ông ta là giáo sĩ Eje, người mà Ptahor đã nói đến. Nhưng ông ta không buồn để ý đến tôi. Ông phủ phục trước Thái tử và chào đón ngài như với một vị vua. Từ đó tôi biết Pharaon Amenhotep Đệ Tam đã băng hà. Sau đó, đám nô lệ chạy đến chăm sóc Pharaon mới. Họ rửa ráy, xoa bóp và xức dầu lên cơ thể ngài, mặc đồ vải lanh hoàng gia cho ngài và đội chiếc khăn hoàng đế lên đầu ngài.

Trong lúc đó, Eje nói chuyện với tôi:

- Thái tử gặp được thần không, Sinuhe? - Ông ta hỏi.

- Quốc vương đã gặp thần của ngài, - tôi nói. - Nhưng tôi đã bảo vệ ngài để không có chuyện xấu xảy ra với ngài. Sao ông biết tên tôi?

Ông ta mỉm cười, nói:

- Nhiệm vụ của ta là phải biết mọi việc xảy ra trong cung điện cho đến khi thời gian của ta điểm. Ta biết tên ngươi và biết ngươi là một thầy thuốc. Vì thế ta tin tưởng để Thái tử đi với ngươi. Ta cũng biết ngươi là giáo sĩ của Amon và đã tuyên thệ với thần ấy. - Ông ta cao giọng nói với vẻ đe dọa.

Nhưng tôi dang tay hỏi:

- Lời thề với Amon có ý nghĩa gì?

- Ngươi nói đúng, - ông ta nói, - và ngươi không cần phải hối tiếc. Vậy hãy hiểu rằng Thái tử luôn bứt rứt khi thần đến gần ngài. Lúc đó không gì có thể ngăn giữ ngài và ngài cũng không cho phép hầu cận đi theo. Nhưng ngài và ngươi đã được an toàn suốt đêm, không bị hiểm nguy nào đe dọa và như ngươi có thể thấy, chiếc kiệu đang đợi ngài. Còn người có cây giáo kia là ai?

Ông ta chỉ vào Horemheb đang đứng bên cạnh, tay thử lưỡi giáo, chim ưng đậu trên vai, rồi nói:

- Có lẽ tốt nhất là hắn chết đi, vì bí mật của Pharaon không được chia sẻ cho nhiều người.

- Anh ta đã lấy tấm vải choàng vai của mình đắp cho Pharaon khi trời lạnh, - tôi đáp. - Anh ta sẵn sàng giương giáo chống lại kẻ thù của Pharaon. Tôi nghĩ, anh ta sống sẽ có ích cho ông hơn là chết, thưa giáo sĩ Eje.

Eje tháo chiếc vòng vàng ở cổ tay mình rồi hờ hững ném cho Horemheb và nói:

- Một ngày nào đó ngươi hãy đến chào ta tại hoàng cung, giáo thủ ạ.

Nhưng Horemheb để chiếc vòng vàng rơi xuống đám cát ngay dưới chân mình và nhìn Eje với vẻ thách thức:

- Tôi chỉ tuân lệnh của Pharaon, - anh ta nói. - Và nếu tôi không nhầm, kia là Pharaon, người đội khăn hoàng đế. Chim ưng đã dẫn tôi đến chỗ ngài, thế là đủ.

Eje không tức giận.

- Vàng đáng giá và luôn cần thiết, - ông ta vừa nói vừa nhặt chiếc vòng vàng dưới cát lên và đeo lại vào cổ tay. - Hãy quỳ lạy Pharaon của ngươi, nhưng không được mang giáo đến gần ngài.

Thái tử lại gần chúng tôi. Khuôn mặt ngài tái nhợt và tiều tụy nhưng vẫn toát lên sự say mê kỳ lạ làm ấm lòng tôi.

- Hãy theo ta, - Thái tử nói, - tất cả hãy theo ta trên con đường mới, bởi sự thật đã sáng rõ với ta.

Chúng tôi đi theo Thái tử đến chỗ chiếc kiệu, mặc dù Horemheb lẩm bẩm một mình: “Sự thật nằm nơi ngọn giáo”. Nhưng anh vẫn chịu đưa cây giáo của mình cho tên hầu chạy phía trước và chúng tôi ngồi xuống càng để kiệu rời đi. Những người khênh kiệu ra sức chạy, một chiếc thuyền chờ sẵn trên bến và chúng tôi trở lại cung điện theo đường mình đã đi mà không mấy ai để ý, mặc dù dân chúng đứng trắng xung quanh các bức tường thành của hoàng cung.

Chúng tôi được vào cung thất của Thái tử và ngài cho chúng tôi xem những chiếc bình to xứ Crete, trên vỏ bình vẽ những con cá và động vật sống động. Giá mà Thotmes được nhìn thấy chúng vì chúng chứng tỏ rằng nghệ thuật cũng có thể khác, như ở Ai Cập. Khi đã đỡ mệt và bình tâm trở lại, Thái tử cư xử và nói chuyện điềm đạm như một thanh niên bình thường ở tầm tuổi chúng tôi, không yêu cầu chúng tôi phải quá lễ nghi hay tôn vinh ngài thái quá. Sau đó, người ta báo rằng Hoàng hậu sẽ đến thăm Thái tử và ngài tạm biệt, nói sẽ nhớ cả hai chúng tôi. Khi chúng tôi sắp rời đi, Horemheb nhìn tôi bối rối.

- Tôi đang lo, - anh ta nói, - vì không có nơi nào để đi.

- Cứ bình tâm ở lại đây, - tôi khuyên. - Thái tử đã nói sẽ nhớ đến anh, vì vậy tốt nhất là anh có mặt khi ngài nhớ đến. Các vị thần tính khí thất thường và nhanh quên.

- Ở lại đây để nhập bầy cùng những con ruồi này ư?

Horemheb nói và chỉ vào những triều thần đang rối rít vây quanh cánh cửa cung thái tử.

- Không, tôi có lý do để lo lắng, - anh ta nói tiếp với vẻ buồn rầu. - Ai Cập sẽ thế nào nếu Pharaon sợ máu và cho rằng tất cả các dân tộc, ngôn ngữ và màu da đều bình đẳng. Tôi sinh ra để làm một người lính và khả năng suy xét của người lính trong tôi nói rằng điều này không tốt cho chiến binh. Dù thế nào, tôi cũng đi lấy cây giáo đây. Nó vẫn đang ở chỗ đám dẫn đường.

Chúng tôi chia tay và tôi bảo anh ta hãy tìm tôi ở Nhà Sống nếu cần một người bạn.

Ptahor đợi tôi trong phòng dành cho chúng tôi, đôi mắt đỏ hoe và thái độ gắt gỏng.

- Cháu đã không có mặt khi Pharaon trút hơi thở cuối cùng vào lúc rạng sáng, - ông hét lên. - Cháu bỏ đi còn ta ngủ, vì thế cả hai chúng ta đều không thấy được linh hồn của Pharaon như chim bay thẳng từ mũi ngài về phía mặt trời như thế nào. Nhiều người chứng kiến điều đó. Ta cũng muốn được nhìn thấy bởi vì ta yêu những điều kỳ diệu như vậy, nhưng cháu đã bỏ đi và không đánh thức ta dậy. Cháu đã ngủ bên cô gái nào đêm qua?

Tôi kể cho ông ấy những gì đã xảy ra đêm qua. Ông ấy giơ tay bày tỏ sự kinh ngạc.

- Amon chứng giám, - ông nói, - Pharaon quả thật điên rồi.

- Cháu không nghĩ ngài điên, - tôi ấp úng nói, bởi vì lòng tôi đã ngả về chàng trai trẻ ốm yếu mà tôi đã bảo vệ, người cư xử nhã nhặn với tôi. - Cháu nghĩ rằng ngài có suy nghĩ riêng về một vị thần mới. Khi những suy nghĩ của Thái tử ngày càng chín với ngài, có lẽ chúng ta sẽ thấy phép màu xảy ra ở đất Kemet.

- Mong Amon che chở chúng ta khỏi điều đó, - Ptahor nói với vẻ kinh ngạc. - Tốt hơn hãy rót rượu cho ta, vì cổ họng ta khô như bụi trên đường cái.

Tên hầu dẫn người cầm máu từ khu trại ngựa về. Gã chưa hết ngạc nhiên và kể đàn ngựa của Pharaon uống nước từ những cái bồn dát đồng và vách ngăn chuồng của chúng được tô điểm bằng những bức tranh và vô số viên đá màu.

- Nhưng tôi không nhìn thấy bò đực, - gã nói, vẻ thất vọng. - Tôi e rằng Pharaon không có con bò đực nào cả. Thay vào đó, tôi thấy nhiều giấc mơ rất kỳ lạ khi nằm ngủ. Tôi thấy Sinuhe dắt ngựa trắng đến đền làm lễ hiến tế và mẹ tôi bằng xương bằng thịt bận rộn với việc bếp núc ở miền tây.

- Giấc mơ đó thật dễ hiểu, - Ptahor nói. - Ngươi là con ngựa trắng và mẹ ngươi nấu cho ngươi một bữa tiệc mừng ngươi trở về trong căn lều nơi địa ngục, bởi vì nếu ta không nhầm thì cả ba chúng ta đều sắp chết rồi.

Nhưng người cầm máu miên man với ý nghĩ của mình.

- Tôi nghĩ rằng ở miền tây có những con bò đực to và đẹp, - gã nói. - Vì khi mẹ tôi trò chuyện với tôi và nhắc tôi không làm bẩn áo choàng của mình, tôi như nghe thấy tiếng bò ọ trầm và sâu ở ngay gần mình. Tôi tỉnh dậy với âm thanh đó, thấy bụng mình sôi và nhận ra mình vừa đái dầm. Đó là vì rượu. Tôi không quen uống rượu mà thích bia hơn.

Gã còn huyên thuyên nhiều điều ngu ngốc khác cho tới khi chúng tôi được đưa đến công đường, nơi người giữ ấn triện già ngồi trên ghế quan tòa, trước mặt là bốn mươi cuộn da ghi các bộ luật. Quân túc vệ có vũ khí vây quanh chúng tôi nên chúng tôi không thể chạy trốn. Người giữ ấn triện đọc cho chúng tôi điều luật ghi trên tấm da và nói rằng chúng tôi phải chết vì Pharaon đã không tỉnh lại sau khi bị khoan sọ. Tôi nhìn Ptahor, nhưng ông ấy chỉ mỉm cười khi tay đao phủ cầm thanh kiếm bước lên.

- Hãy bắt đầu với người cầm máu, - ông ấy nói. - Hắn ta vội hơn chúng tôi, vì mẹ hắn đang nấu món cháo đậu ở miền tây.

Người cầm máu thân mật từ biệt chúng tôi, làm các dấu thánh thần Amon và ngoan ngoãn quỳ gối xuống sàn trước những tấm da. Đao phủ vung kiếm lên và vung nó thành vòng cung trên đầu nạn nhân thật nhanh, làm phát ra tiếng vút dài, rồi y dừng phắt cú chém lại, để lưỡi kiếm chỉ chạm nhẹ vào cổ của người cầm máu. Nhưng gã vẫn đổ gục xuống sàn và chúng tôi nghĩ gã ngất đi vì sợ bởi trên cổ gã chẳng hề có tí vết xước nào. Khi đến lượt mình, tôi quỳ xuống không chút sợ hãi, tay đao phủ bật cười và khẽ chạm nhẹ thanh kiếm vào cổ tôi, chẳng buồn dọa tôi sợ nữa. Ptahor nghĩ rằng ông ta quá thấp nên không cần phải quỳ và đao phủ cũng vung kiếm gần cổ ông. Chúng tôi đã chết như thế, bản án đã được thực thi và chúng tôi được đặt tên mới khắc trên những chiếc vòng vàng nặng nhất. Chiếc vòng của Ptahor quả thật được khắc “Ngài, người giống Khỉ Đầu Chó” và vòng của tôi được khắc “Ngài, Người Cô Đơn”. Sau đó, người ta cân vàng làm quà phẫu thuật cho Ptahor. Người ta cân vàng cho cả tôi. Chúng tôi được mặc quần áo mới và lần đầu tiên tôi mặc một chiếc váy gấp múi bằng vải lanh hoàng gia, cổ áo nặng bạc và đá quý. Nhưng khi đám người hầu cố gắng đỡ gã cầm máu đang nằm trên đất lên thì gã không tỉnh lại mà đã chết cứng như đá. Việc này chính mắt tôi nhìn thấy nên tôi có thể khẳng định đó là sự thật. Song tại sao người cầm máu chết thì tôi không thể hiểu được, trừ khi gã chết vì tin mình sẽ chết? Cho dù thật sự ngốc nghếch nhưng gã có khả năng cầm máu và người như thế không thể giống những người khác.

Giữa đại tang của Pharaon, tin về cái chết kỳ lạ của người cầm máu lan xa và những ai nghe thấy đều không thể nhịn được cười. Họ vỗ tay lên đầu gối và cười ha hả vì điều xảy ra quá điên rồ.

Tôi cũng chính thức bị coi là đã chết nên từ đó trở đi, tôi không thể chỉ ký tên Sinuhe vào các bản viết mà phải ghi thêm dòng chữ “Ngài, Người Cô Đơn”. Trong hoàng cung, tôi không được biết đến với cái tên nào khác.

3

Tôi trở về Nhà Sống với quần áo mới trên người và chiếc vòng vàng trên cổ tay, các giảng sư cúi mình và để hai tay ngang đầu gối trước mặt tôi. Nhưng tôi vẫn còn là một y sinh và tôi phải viết lại kỹ lưỡng, chi tiết về cuộc phẫu thuật sọ cùng với việc Pharaon băng hà và ghi tên mình bên dưới để xác nhận. Tôi dành rất nhiều thời gian cho việc này và kết thúc câu chuyện của mình bằng việc mô tả linh hồn của Pharaon như chim bay thẳng từ mũi ngài đến mặt trời. Nhiều người gặng hỏi tôi có phải Pharaon đã tỉnh lại vào những giây phút cuối, thở dài và nói “Amon ban phước lành” hay không, như nhiều nhân chứng khác khẳng định. Ban đầu tôi gắng nhớ lại cho thật chính xác, nhưng cuối cùng tôi nghĩ tốt nhất nên xác nhận điều này và thấy rất vui khi câu chuyện của mình ngày nào cũng được đọc nơi sân trước cho dân chúng nghe trong cả bảy mươi ngày - thời gian ngọc thể của Pharaon được chuẩn bị để trường tồn trong Nhà Chết. Trong suốt thời gian quốc tang này, những nơi vui chơi và các quán rượu bia trong thành phố Thebes đều phải đóng cửa, nên muốn mua rượu bia và nghe nhạc phải đi vào những nơi đó qua cửa sau.

Sau bảy mươi ngày, tôi được báo là tôi đã trở thành một danh y và bắt đầu được phép hành nghề ở bất cứ nơi nào trong thành phố. Còn nếu tôi muốn tiếp tục học chuyên sâu vào một chuyên ngành nào đó, chẳng hạn như nha khoa hay sản khoa, hoặc trở thành một danh y xoa bóp, nhà phẫu thuật hay một danh y thuộc bất cứ ngành nào trong mười bốn lĩnh vực được giảng dạy trong Nhà Sống dưới sự hướng dẫn của những danh y giỏi nhất của từng chuyên khoa, tôi chỉ cần nói nguyện vọng của mình. Đây là một đặc ân cho thấy Amon hậu đãi bề tôi của thần tốt như thế nào.

Tôi còn trẻ và kiến thức trong Nhà Sống không còn hấp dẫn với tôi nữa. Tôi bị cuốn hút bởi sự náo nhiệt của Thebes; tôi muốn trở nên giàu có và nổi tiếng; và tôi cũng muốn tận dụng thời gian này khi ai ai cũng vẫn còn biết đến cái tên Sinuhe, Ngài, Người Cô Đơn. Tôi đã có vàng và đã mua một ngôi nhà nhỏ ở nơi giáp với khu thượng lưu, mua sắm đồ nội thất theo túi tiền của mình và một nô lệ làm người hầu. Đó là một lão già gầy gò và chột mắt nhưng dù sao cũng thích hợp với mục đích của tôi. Tên lão là Kaptah và lão cam đoan với tôi rằng việc lão bị chột mắt chỉ có tốt, bởi vì bây giờ lão có thể kể với các bệnh nhân tương lai ngồi chờ đến lượt khám rằng tôi mua lão khi lão bị mù cả hai mắt và đã chữa lành được một mắt cho lão. Vì thế tôi mua lão ta. Trong phòng chờ của bệnh nhân, tôi cho vẽ nhiều tranh. Một bức vẽ Imhotep thông thái, vị thần của các thầy thuốc, đang dạy tôi, Sihuhe. Tôi bé nhỏ trước thần theo thế thời lúc đó nhưng dưới bức tranh có ghi: “Học trò thông minh và tài giỏi nhất của ta là Sinuhe, con trai của Senmut, Ngài, Người Cô Đơn”. Bức tranh thứ hai vẽ tôi dâng lễ hiến tế cho Amon để Amon có được những gì thuộc về thần và các bệnh nhân sẽ tin tưởng tôi hơn. Còn trong bức tranh thứ ba, Pharaon Vĩ đại trong hình dạng con chim từ trên trời cao nhìn xuống tôi, trong khi những người hầu của ngài cân vàng và mặc quần áo mới cho tôi. Những bức tranh này tôi đặt Thotmes vẽ, mặc dù cậu ấy không được chính thức công nhận và tên cậu không được viết vào sách của đền Ptah. Nhưng cậu ấy là bạn tôi, vì thế tôi để cậu vẽ. Và vì quý trọng tình bạn của chúng tôi, cậu ấy đã vẽ tranh theo phong cách cũ, với tài nghệ tuyệt vời, khiến những bức tranh trông sặc sỡ màu đỏ và vàng, dù đó là những màu rẻ nhất trong các màu, khiến cho những ai lần đầu tiên nhìn thấy chúng đều giơ tay bày tỏ sự ngạc nhiên và nói: “Quả thật, Sinuhe, con trai của Senmut, Ngài, Người Cô Đơn đã làm ta tin tưởng bằng tài năng chữa bệnh của mình”.

Khi tất cả đã sẵn sàng, tôi ngồi đợi bệnh nhân đến để chữa cho họ. Tôi đợi khá lâu nhưng không có bệnh nhân nào đến. Buổi tối, tôi tìm đến một quán rượu để giải khuây, vì tôi vẫn còn một ít vàng và bạc từ những món quà của Pharaon. Tôi còn trẻ và nghĩ mình là thầy thuốc giỏi nên không lo lắng gì về tương lai. Tôi vui vẻ uống rượu cùng Thotmes và chúng tôi thao thao bàn về đại sự của cả hai vương quốc bởi vì trong thời gian này tất cả mọi người dân, ở chợ, trước nhà các thương gia, trong các quán rượu và nhà vui, đâu đâu người ta cũng cao giọng nói về các vấn đề của cả hai vương quốc.

Mọi việc xảy ra đúng như vị chưởng ấn già đã dự đoán. Khi ngọc thể Pharaon đã được tẩm ướp để vào cõi trường sinh, được đưa đến ngôi mộ trong Thung lũng các hoàng đế và các cánh cửa mộ được niêm phong bằng ấn triện hoàng gia, Hoàng thái hậu lên nhiếp chính, roi da và trượng trong tay, bộ râu hoàng đế trên cằm và đuôi sư tử hoàng gia thắt quanh eo. Hoàng thái tử vẫn chưa đăng quang, nghe nói ngài muốn để tâm thanh tịch và cầu nguyện thần linh trước khi lên ngôi. Nhưng khi Hoàng thái hậu phế chức vị quan giữ ấn triện già và phong giáo sĩ vô danh Eje lên ngồi bên phải mình để vị này đứng trên tất cả triều thần của Ai Cập, ngồi trong công đường của triều đình trước bốn mươi cuốn sách luật bằng da và cử quan thu thuế và quan xây dựng cho Pharaon thì lập tức cả khu đền Amon ầm ĩ như ong vỡ, bao nhiêu tiên đoán xấu và những lần hiến tế của hoàng gia đều không mang lại kết quả. Người ta đã mơ thấy nhiều hung mộng huyền bí và tìm đến các giáo sĩ để nhờ họ lý giải. Những đợt gió di chuyển theo các hướng trái với mọi quy luật tự nhiên dẫn đến mưa liên tục hai ngày liền trên đất Ai Cập, khiến các kho hàng gần bến cảng tan hoang và những đống ngũ cốc bị thối rữa. Nước trong mấy cái ao ở ngoài Thebes chuyển thành màu đỏ như máu và dân chúng đổ đến đó xem. Nhưng người ta vẫn chưa thấy sợ vì điều như thế đã từng xảy ra mỗi khi các giáo sĩ giận dữ.

Mặc dù có những sự việc lộn xộn và lời nói xúc xiểm, quân thường trực của Pharaon trong các doanh trại - người Ai Cập, người Syria, người da đen và người Shardana - đều đã được Hoàng thái hậu cho rất nhiều quà; từ ban công cung điện, người ta ban phát biết bao vòng vàng, trọng thưởng cho các cai đội và kỷ cương vẫn được giữ. Sự hùng mạnh của Ai Cập không bị đe dọa vì các đội quân đồn trú ở Syria vẫn giữ nghiêm khuôn phép, các vị hoàng thân của Byblos, Simyra, Sidon và Gaza, những người đã sống cả thời thơ ấu quanh Pharaon và được dạy dỗ trong hoàng cung, than khóc về cái chết của ngài như thể vừa mất đi cha đẻ. Họ viết thư cho Hoàng thái hậu cam đoan rằng họ chỉ là cát bụi dưới chân bà. Nhưng ở đất Kush nơi giáp giới giữa Nubia và Sudan, từ muôn đời nay, cứ sau mỗi lần một pharaon băng hà là xảy ra chiến tranh, như thể dân da đen muốn thử tính kiên nhẫn của tân vương. Vì thế, ngay sau khi hay tin Pharaon băng hà, tổng trấn của các xứ ở phía nam, những người thống lĩnh các nơi ấy, đã lệnh cho các đội quân của mình di chuyển, vượt qua biên giới, đốt trụi nhiều làng xóm, mang về nhiều gia súc, nô lệ, đuôi sư tử và lông đà điểu làm chiến lợi phẩm, nhờ vậy mọi con đường dẫn đến Kush đều an toàn và các toán cướp đều lớn tiếng than khóc việc Pharaon tạ thế khi nhìn thấy đầu thủ lĩnh của họ bị treo ngược trên các tường thành nơi biên ải.

Cả trên các đảo xa giữa biển, dân chúng cũng than khóc và đau buồn trước tin Pharaon Đại đế băng hà, quốc vương Babylon và quốc vương xứ Hatti của người Hittite gửi cho Hoàng thái hậu những tấm bảng viết đất sét, tỏ lòng thương tiếc Pharaon và xin vàng để đúc tượng ngài trong các đền thờ của họ vì Pharaon đối với họ như phụ vương hay huynh trưởng. Còn quốc vương xứ Mitanni ở Naharani gửi con gái mình sang làm tân vương phi như hoàng thượng trong vương triều trước từng làm và cũng theo giao ước giữa ngài với Pharaon Đại đế trước khi ngài băng hà. Công chúa tên là Tadukhipa, nàng đến Thebes cùng với rất nhiều nô tỳ, người hầu và đàn lừa thồ trên lưng những hàng hóa đắt tiền và nàng vẫn còn là một đứa trẻ, chỉ vừa tròn sáu tuổi. Thái tử cưới nàng làm phi vì đất nước Mitanni là bức tường thành ngăn giữa Syria giàu có với các vương quốc phương bắc, bảo vệ tất cả các con đường lữ hành từ đất nước Lưỡng Hà tới tận bờ đại dương. Điều này khiến cho các giáo sĩ của nữ thần Sekhmet đầu sư tử, con gái của Amon thần thánh, mất hết niềm vui, để mặc then cửa đền của thần han gỉ, dính chặt vào nhau.

Thotmes và tôi ầm ĩ bàn luận về những việc trên, mượn rượu để trải lòng, nghe nhạc Syria và ngắm nhìn các vũ nữ uốn mình. Niềm đam mê Thebes ngày càng ăn sâu vào máu tôi. Sáng ra, lão hầu một mắt của tôi bước đến bên giường tôi, hai tay buông xuống tận đầu gối trước mặt tôi, đưa cho tôi miếng bánh mì với con cá muối và rót bia vào bát của tôi. Tôi rửa ráy rồi ngồi đợi tiếp bệnh nhân, lắng nghe họ thở than và chữa bệnh cho họ.

Thế nhưng tôi không giàu lên được, bởi thi thoảng tôi mới có bệnh nhân và những người tìm đến tôi lại nghèo khó, nên tốt hơn cả là tôi chữa ngay cho họ chứ không khiến họ tốn kém bằng loại thuốc thang đắt tiền và vô hại. Tôi nhổ răng, băng bó, khử trùng các vết thương, chữa các bệnh dạ dày và làm hạ sốt. Cả những người đàn bà cũng tìm đến tôi nhờ chữa bệnh vô sinh, họ nhìn thẳng vào mắt tôi không e thẹn. Họ mở toang váy áo trước mặt tôi, nhưng tôi bảo họ hãy đến đền thần Amon và xin các giáo sĩ lời khuyên, bởi việc thụ thai thuộc thẩm quyền của giáo sĩ. Lại có các bà mẹ khăn trùm kín mặt đến gặp tôi, cầu xin tôi giúp con gái họ vì đã lỡ mang cái thai của thủy thủ hay lính ngoại bang. Nhưng tôi không thể giúp được, bởi họ không giàu đến mức có thể đền bù những thiệt hại mà tôi có thể gặp phải nếu như tôi bị xóa tên khỏi sách của Nhà Sống và bị đuổi khỏi Thebes. Còn những người đàn bà đến gặp tôi với mong muốn lấy lại nhan sắc ngày xưa của mình, tôi pha chế những thuốc uống không gây hại cho họ. Khi những người đàn bà đến gặp tôi và than thở rằng chồng họ lười nhác hay lãnh đạm, thờ ơ với họ, tôi cho họ các loại quả thuốc để họ bí mật pha vào đồ uống của chồng. Những người này thường trở lại, mang cho tôi quà tùy theo gia sản của họ, nhưng cũng có những người trở lại than vãn rằng chồng họ vẫn đi tìm thú vui nơi khác. Nhưng trong việc này tôi làm sao giúp được, vì cho dù một danh y có thể đánh thức tình yêu khiến người đàn ông nói lời yêu đương với người đàn bà và vuốt ve họ, nhưng khi người đàn ông cần thỏa mãn ham muốn, việc họ tìm đến ai thì làm sao thầy thuốc có thể nói trước. Nhưng theo suy đoán của tôi, đàn ông sẽ chọn người đàn bà ở gần họ nhất vào lúc ấy. Và tôi đoán đúng, vì thường xuyên có người mang quà đến cho tôi và ít khi có ai đến để trách móc.

Đôi khi các bà mẹ đưa con đến gặp tôi, mẹ thì gầy gò, con thì hom hem, nhăn nheo, đầy vết chân chim quanh vầng mắt. Những lúc ấy tôi bảo Kaptah mua thịt và trái cây để tôi cho họ, nhưng như thế tôi không thể giàu lên được và nếu tôi làm thế, vào ngày hôm sau sẽ có dăm bảy người mẹ đưa con đến đứng chờ trước nhà tôi. Khi đó, vì không thể cho họ vào nên tôi phải bảo Kaptah đóng cửa lại và khuyên họ hãy đến đền, miếu, nơi người ta phân phát thịt cho dân trong các ngày lễ hiến tế lớn vì các giáo sĩ không thể ăn hết.

Tên tôi sẽ được xướng lên ở sân trước đền trong bảy mươi ngày và tôi cứ nghĩ việc này sẽ đưa đến cho tôi những bệnh nhân giàu có, nhưng tôi đã nhầm. Quả là có những vị khách nằm trên kiệu cho người khênh đến trước cửa nhà để gặp tôi, nhưng họ đến vì nghe danh tiếng tôi là phụ tá của danh y khoan sọ và họ hứa sẽ cho tôi rất nhiều quà nếu với tư cách một danh y, tôi khoan sọ những ai cản trở họ nhận thừa kế một gia sản lớn. Nhưng tôi bảo họ đến gặp Ptahor, danh y khoan sọ hoàng gia. Còn với những người bệnh được khênh đến nhà tôi trong tình trạng vô phương cứu chữa và cuộc sống với họ chỉ là đau đớn, tôi tìm cách giảm đau cho họ rồi bảo đưa họ đến Nhà Sống.

Đêm đêm, đèn và đuốc sáng rực trên đường phố Thebes, nhạc ngân vang trong các quán rượu và nhà vui, bầu trời phía trên Thebes phản chiếu ánh sáng đỏ. Tôi muốn uống rượu để lòng khuây khỏa, nhưng rượu không giúp tôi vui lên được và của cải cũng dần cạn đến độ tôi buộc phải thế chấp nhà của mình, vay vàng từ đền để có thể ăn mặc đúng kiểu và uống rượu giải khuây.

4

Mùa lũ lại đến, nước dâng lên đến tận chân tường thành, đền đài và khi nước rút, mặt đất khoác lên mình màu xanh nõn nà, chim làm tổ, sen nở trong ao hồ và các bụi keo tỏa ngát hương. Vào một ngày, Horemheb đến nhà và chào tôi. Anh ta mặc đồ lanh hoàng gia, cổ đeo vòng vàng và tay cầm roi - đúng dáng vẻ của một võ quan hoàng gia. Nhưng anh ta không còn cây giáo mang theo bên mình. Tôi giơ tay lên cao biểu lộ niềm vui, anh ta cũng giơ tay và cười với tôi.

- Tôi đến xin anh lời khuyên đây Sinuhe, Người Cô Đơn. - Anh ta nói.

- Tôi không hiểu, - tôi đáp, - anh khỏe như bò tót và dũng mãnh như sư tử. Tôi chỉ là thầy thuốc, làm sao có thể giúp được anh?

- Tôi xin anh lời khuyên với tư cách là bạn chứ không phải là danh y, - anh ta nói và ngồi xuống. Gã hầu chột mắt Kaptah đổ nước lên tay anh ta và tôi mời anh nếm bánh nướng do mẹ Kipa của tôi làm cùng với rượu đắt tiền mua từ bến cảng, bởi tôi thật sự rất vui khi gặp anh ta.

- Anh được lên chức rồi, - tôi nói. - Anh đã là một vị quan của hoàng gia và chắc hẳn nhiều phụ nữ cười với anh lắm.

Nghe vậy anh ta sầm mặt và nói:

- Toàn rác rưởi cả!

Rồi anh ta hăng lên, mặt chuyển sang đỏ và nói tiếp:

- Cung điện toàn một lũ ruồi, chúng ỉa lên đầu tôi. Những con phố của Thebes cứng quá làm chân tôi đau, còn dép chỉ làm ngón chân tôi thêm nhức nhối. - Anh ta đá đôi dép ra khỏi chân, lấy tay xoa các ngón rồi nói tiếp. - Tôi là quan cấm vệ, nhưng đám quan quyền ở đó lại là những thằng bé còn ít tuổi, đầu vẫn đầy tóc máu và cứ cậy gia thế quyền quý để nhạo báng và cười cợt tôi. Cánh tay chúng không đủ sức giương cung, còn cây kiếm trong tay chúng là đồ chơi được giát vàng giát bạc, chỉ đủ tốt để cắt thịt nướng chứ sao có thể làm đổ máu kẻ thù được. Chúng đi trên những cỗ chiến xa nhưng không biết điều khiển, chỉ làm rối tung dây cương và khiến bánh xe của chúng xát vào bánh xe của những chiến xa bên cạnh. Lũ lính thì uống rượu và ăn nằm với nữ tỳ, nô lệ của hoàng cung và là một lũ bất tuân lệnh. Trong các trường võ bị, người ta dạy chúng đọc những sách cũ mèm, mà bọn ấy cũng chưa từng trải qua trận mạc, chưa từng nếm trải đói khát hay sợ hãi trước kẻ thù.

Anh ta giận dữ lắc lắc chiếc vòng vàng đeo ở cổ và nói tiếp:

- Vòng vàng với mề đay có nghĩa lý gì khi chỉ cần biết cúi rạp mình trước pharaon là có được, chứ không phải kinh qua trận mạc. Hoàng thái hậu đã buộc râu vào cằm và treo đuôi sư tử nơi eo hông mình, nhưng một người lính sao có thể kính trọng, coi đàn bà là đế vương được?

- Tôi biết, tôi biết, - anh ta nói và vung tay lên khi tôi cố nhắc anh ta nhớ đến việc Nữ hoàng vĩ đại đã phái thuyền chiến đến xứ Punt, rồi nói tiếp. - Trước đây thế nào thì bây giờ cũng phải thế. Nhưng tôi muốn nói vào thời các pharaon vĩ đại, người lính chưa bao giờ bị khinh miệt như bây giờ. Trong suy nghĩ của người dân Thebes, nghề lính là nghề đáng khinh nhất trong các nghề nên hễ thấy lính là họ đóng chặt cửa. Thời gian của tôi, tuổi xuân và sức mạnh của tôi sẽ trôi qua hoài phí nếu tôi phải học binh pháp từ những kẻ hễ nghe tiếng hét xung trận của dân da đen là la lên và cắm đầu bỏ chạy. Nói thật, chúng sẽ ngất xỉu vì sợ khi mũi tên của lính hoang mạc bay vèo qua tai chúng hay khi vừa nghe thấy tiếng lọc xọc, rầm rầm của những cỗ chiến xa của kẻ thù lao tới. Thề có chim ưng của tôi, binh pháp chỉ có thể học được qua trận mạc và trong tiếng vũ khí chạm nhau người ta biết được người đàn ông thế nào. Vậy nên tôi muốn bỏ đi.

Anh ta quất mạnh roi xuống bàn khiến cái cốc rơi xuống, lão hầu của tôi chạy ra ngoài, hét lên vì sợ.

- Chắc chắn là anh ốm rồi, bạn Horemheb của tôi ạ, - tôi nói. - Mắt anh đỏ bừng như đang sốt mà người lại toát mồ hôi.

- Tôi chẳng phải là đàn ông sao, - anh ta đáp rồi đứng dậy, tay đấm thùm thụp vào ngực. - Tôi có thể hai tay nhấc hai tên nô lệ to béo lên cao và đập sọ chúng vào nhau đến nát bét. Tôi có thể mang vác những vật nặng như một người lính, chạy qua những chặng đường dài không hề thở gấp, không sợ đói, không sợ khát và cũng không sợ nắng chói chang nơi sa mạc. Nhưng họ chỉ xem tất cả những việc này là đáng hổ thẹn và phụ nữ trong cung chỉ ngưỡng mộ những người đàn ông có bộ râu dài. Họ thán phục những người đàn ông có cánh tay khẳng khiu, bộ ngực không lông lá và hông eo ót như của thiếu nữ. Họ ngưỡng mộ những người đàn ông dùng ô che nắng, môi tô đỏ, cặp mắt hiền lành và líu lo như chim đậu trên cành. Họ khinh bỉ tôi vì tôi cường tráng, vì mặt trời làm da tôi rám lại, và nhìn bàn tay tôi, họ biết tôi có khả năng làm việc bằng đôi tay.

Anh ta im lặng, nhìn chằm chằm về phía trước một lúc lâu rồi uống rượu.

- Anh là người cô đơn, Sinuhe, - anh ta nói, - nhưng tôi cũng là người cô đơn, cô đơn hơn tất cả, bởi tôi đoán được điều gì sẽ đến; tôi biết mình sinh ra để ra lệnh cho nhiều người và rồi sẽ đến một ngày, cả hai vương quốc đều cần đến tôi. Chính vì vậy tôi cô đơn hơn tất cả, nhưng tôi không còn chịu nổi sự cô đơn, Sinuhe ạ, vì lòng tôi như lửa đốt, cổ tôi nghẹn lại và đêm tôi không ngủ được.

Tôi là thầy thuốc và nghĩ mình có biết chút ít về đàn ông và đàn bà. Thế nên tôi nói:

- Người ấy chắc chắn là đã có chồng và chồng nàng giữ nàng rất kỹ?

Horemheb nhìn tôi, đôi mắt lóe lên giận dữ nên tôi vội vàng nhặt cái cốc từ sàn lên và rót rượu cho anh ta. Anh ta bình tĩnh lại, đưa tay sờ lên ngực, lên cổ mình rồi nói:

- Tôi phải đi khỏi Thebes thôi, nếu không sẽ chết ngạt trong đống rác rưởi ở đây và bị lũ ruồi làm vấy bẩn.

Nhưng rồi anh ta hạ thấp người, nhìn tôi và trầm giọng nói:

- Sinuhe, anh là thầy thuốc, hãy cho tôi thuốc gì đó để tôi chiến thắng tình yêu.

- Việc đó dễ mà, - tôi bảo. - Tôi sẽ cho anh thảo dược. Khi hòa cùng với rượu, nó sẽ làm cho anh trở nên dũng mãnh và cường tráng như con khỉ đực và lũ đàn bà sẽ rên rỉ trong vòng tay anh, mắt mờ đi trong đê mê. Việc đó dễ thôi, nếu anh muốn.

- Không, không, - anh ta nói. - Anh nhầm rồi, Sinuhe. Sức đàn ông của tôi không có vấn đề gì, nhưng tôi cần loại thuốc giữ cho tôi khỏi điên lên. Tôi cần một loại thuốc có thể làm dịu trái tim tôi và làm nó cứng như đá.

- Không có loại thuốc nào như thế, - tôi đáp. - Chỉ một nụ cười và một cái nhìn từ cặp mắt xanh biếc cũng đủ khiến y học bó tay. Điều này tôi biết rất rõ. Thế nhưng những người thông thái cũng từng nói chỉ ác quỷ mới xua đuổi được ác quỷ. Tôi không thật rõ điều đó có đúng hay không, nhưng tôi đoán con quỷ đến sau còn quái ác hơn con quỷ trước.

- Thế nghĩa là sao? - Anh ta giận dữ hỏi. - Tôi đã chán ngấy những lời nói vòng vo và xoay xoắn các sự việc khiến lưỡi ta líu lại.

- Anh hãy tìm cho mình người đàn bà khác, và người đó sẽ xua người đầu tiên ra khỏi trái tim anh, - tôi đáp. - Thebes đầy phụ nữ đẹp và quyến rũ. Họ tô son lên mặt và mặc đồ lanh mỏng tang. Có lẽ ai đó trong số họ sẽ sẵn lòng nở nụ cười với anh. Anh trẻ trung và dũng mãnh, chân tay anh dài và cổ anh đeo vòng vàng. Nhưng tôi thật không hiểu điều gì đã chia rẽ anh với nàng, người mà anh mê say. Cho dù nàng đã có chồng thì cũng không có tường thành nào đủ cao để ngăn cản tình yêu, và đàn bà ranh mãnh lắm, một khi nàng ta đã mê ai thì sẽ tìm cách vượt qua mọi chướng ngại. Các chuyện kể của cả hai vương quốc đều chứng minh điều đó. Người ta còn nói sự thủy chung của đàn bà giống như ngọn gió. Nó không suy chuyển mà chỉ đổi chiều. Người ta còn nói đức hạnh của đàn bà giống như sáp ong, tan chảy khi được hâm nóng. Tuy nhiên, kẻ chịu nhục, bị chê cười không phải là kẻ lừa dối mà chính là người bị cắm sừng. Xưa đã thế, sau này vẫn thế.

- Nàng chưa có chồng, - Horemheb cáu kỉnh nói. - Anh nói về lòng chung thủy, đức hạnh hay sự nhục nhã làm gì, chỉ vô ích thôi. Nàng không thấy tôi cho dù tôi ở ngay trước mắt nàng. Nàng không chạm vào tay tôi ngay cả khi tôi giơ tay để đỡ nàng lên kiệu. Có lẽ nàng nghĩ tôi là kẻ bẩn thỉu, bởi mặt trời làm da tôi cháy sạm.

- Vậy nàng thuộc giới thượng lưu ư?

- Thôi, nói về nàng cũng vô ích, - Horemheb từ chối. - Nàng đẹp hơn trăng và các vì sao, và cách xa tôi hơn cả trăng và sao. Nói thật ôm trăng vào lòng với tôi còn dễ hơn ôm nàng. Vậy nên tôi phải quên đi thôi. Vậy nên tôi phải đi khỏi Thebes, nếu không tôi sẽ chết.

- Chả lẽ người anh ham muốn là Hoàng thái hậu vĩ đại ư? - Tôi đùa cợt, vì muốn thấy anh ta cười. - Tôi nghĩ bà ấy quá già và lại sồ sề so với thị hiếu của các chàng trai trẻ.

- Bà ta có giáo sĩ của mình, - Horemheb khinh bỉ nói. - Tôi nghĩ họ thông dâm với nhau cả khi quốc vương còn sống.

Nhưng tôi đã giơ tay ngăn không cho anh ta nói tiếp và bảo:

- Horemheb, tôi nghĩ anh đã uống quá nhiều nước giếng độc kể từ khi tới Thebes.

Horemheb nói:

- Người tôi say, môi và má tô son đỏ hoe, đôi mắt sẫm màu hình trái xoan và chưa ai chạm được tới chân tay nàng dưới lớp vải lanh hoàng gia. Tên của nàng là Baketamon và dòng máu pharaon chảy trong huyết quản của nàng, vậy nên bây giờ anh đã biết tôi điên rồ tới mức nào rồi, Sinuhe. Nếu như anh kể điều này với ai hoặc giả như anh chỉ gợi nhắc tôi nhớ đến việc này dù chỉ một lời, tôi sẽ tìm đến để giết anh dù anh có ở nơi đâu và tôi sẽ nhét thủ cấp của anh vào giữa háng và vứt xác anh lên tường thành. Mà anh cũng không bao giờ được nhắc đến tên nàng để tôi nghe thấy, bởi vì lúc đó tôi sẽ giết anh thật.

Tôi vô cùng khiếp sợ, bởi vì thật sự kinh khủng khi người có xuất xứ thấp hèn dám ngước lên nhìn con gái pharaon và có lòng thèm khát nàng. Vậy nên tôi nói:

- Không kẻ thường dân nào được động đến Công chúa ngoại trừ em nàng, Thái tử, người sẽ lấy nàng và lập nàng làm hoàng hậu, nâng nàng lên ngang hàng với mình. Việc đó sẽ xảy ra, tôi đã đọc được điều đó qua ánh mắt Công chúa bên giường bệnh của Pharaon, nàng không nhìn ai như thế ngoài em trai mình. Tôi sợ Công chúa, bởi thân thể nàng sẽ không sưởi ấm cho bất kỳ ai và trong đôi mắt trái xoan của nàng chỉ có chết chóc và trống rỗng. Vậy nên hãy đi đi, Horemheb bạn ơi, bởi Thebes không dành cho anh.

Nhưng Horemheb nóng nảy nói:

- Tôi biết rõ tất cả những điều đó và biết tỏ tường hơn anh, nên lời nói của anh chỉ như tiếng ruồi vo ve trong tai tôi thôi. Thay vì tranh luận về việc đó, ta quay lại điều anh nói lúc nãy, về những con quỷ ấy, vì tim tôi đầy ứ và khi đã uống rượu, tôi chỉ muốn một người đàn bà, ai cũng được, mỉm cười với tôi. Nhưng xiêm áo của nàng phải bằng vải lanh hoàng gia, đầu nàng phải có mái tóc giả, môi, má nàng phải được tô son đỏ hoe, nhưng tôi sẽ không ham muốn nàng nếu nàng không có đôi mắt hình trái xoan như vầng trăng khuyết trên bầu trời đêm.

Tôi mỉm cười, nói:

- Anh nói phải. Vậy hai chúng ta hãy cùng nghĩ xem bây giờ anh nên làm gì là tốt nhất. Anh có bao nhiêu vàng?

Horemheb kiêu ngạo đáp:

- Tôi không thèm cân đong vàng của mình vì chúng chỉ là rác rưởi dưới chân tôi, nhưng ngay lúc này thì tôi có vòng vàng trên cổ và vòng tay nữa, đủ không?

- Nếu vàng không đủ, - tôi nói, - thì tốt hơn là anh chỉ mỉm cười, vì những người đàn bà có xiêm áo bằng vải lanh hoàng gia rất kỳ quặc và nụ cười của anh có thể kích thích được ai đó. Lẽ nào trong hoàng cung không có ai như thế? Việc gì anh phải phung phí vàng của mình, nhỡ khi anh cần đến.

- Tôi đái vào tường hoàng cung, - Horemheb đáp. - Nhưng tôi biết một cách khác. Trong đám võ quan, tôi quen một gã tên Kefta, người Crete, một lần đã bị tôi đá khi cười nhạo tôi nhưng từ đó gã bắt đầu kính nể tôi. Hôm nay gã mời tôi cùng đi đến một nhà có hội hè gì đó của giới thượng lưu. Nhà ấy nằm đâu đó gần sát đền thần đầu mèo, nhưng tôi quên mất tên của thần vì ban đầu tôi không định đến đó.

- Ý anh muốn nói thần Bast? - Tôi nói. - Tôi biết ngôi đền đó và nhà ấy có vẻ thích hợp với mục đích của anh, vì những người đàn bà nhẹ dạ rất thích cầu nguyện và dâng lễ trước thần đầu mèo để được ban cho những bạn tình giàu có.

- Nhưng Sinuhe, tôi không đến đó nếu không có anh đi cùng, - Horemheb đáp và tỏ ra rất bối rối. - Tôi xuất thân thấp kém và quả thật chỉ biết đấm đá và dùng roi nhưng tôi không biết nên cư xử thế nào ở Thebes. Anh là người đàn ông từng trải, lại sinh ra ở Thebes. Vậy nên anh phải đi cùng tôi.

Vì đã uống rượu và sự tin tưởng của Horemheb làm tôi phổng mũi nên tôi không muốn thú nhận với anh ta là hiểu biết của tôi về phụ nữ cũng ít ỏi như anh vậy. Tôi đã uống nhiều đến mức bảo Kaptah đi kiếm cho chúng tôi cái kiệu, lại còn mặc cả tiền công với những người khênh kiệu trong khi Horemheb uống thêm rượu để lấy can đảm. Những người khênh kiệu đưa chúng tôi đến bên đền Bast và khi thấy đuốc và đèn sáng rực trước cửa nhà nơi chúng tôi đến, họ bắt đầu kỳ kèo đòi thêm tiền cho đến khi bị Horemheb quất cho mấy roi, họ mới chịu im miệng rời đi, tuy vẫn ấm ức. Bên cổng đền, những thiếu phụ trẻ mỉm cười với chúng tôi và mời chào chúng tôi cùng vào dâng lễ với họ, nhưng trên người họ không có vải lanh hoàng gia và họ chỉ có mái tóc bình thường nên chúng tôi chẳng để tâm đến họ.

Chúng tôi đi vào nhà, tôi đi trước, không ai ngạc nhiên trước sự xuất hiện của chúng tôi ngoài mấy đứa hầu vui vẻ đổ nước lên tay chúng tôi và từ hàng hiên, chúng tôi đã nghe thấy mùi hương hoa, mùi dầu xức, mùi thức ăn từ trong nhà tỏa ra. Đám nô lệ lấy vòng hoa trang điểm cho chúng tôi và chúng tôi bước vào sảnh lớn, vì rượu đã cho chúng tôi thêm lòng can đảm.

Nhưng khi bước vào trong sảnh, tôi không thấy ai khác ngoài người phụ nữ bước ra đón chúng tôi. Nàng khoác trên người áo váy vải lanh hoàng gia, khiến thân hình nàng hiện lên dưới lớp vải như thân thể thần linh khi nàng bước đến trước chúng tôi. Đầu nàng đội mái tóc giả màu xanh dương nặng trịch, trên người treo bao nhiêu vòng đỏ, khóe mắt tô đen kịt còn bọng mắt lại có màu xanh lục. Nhưng xanh hơn cả vẫn là đôi mắt nàng, xanh như nước sông Nile vào những ngày hè nắng đổ lửa khiến tim tôi đắm chìm trong đó, bởi nàng chính là Nefernefernefer, người một lần tôi đã gặp giữa các cột đền Amon. Nàng không nhận ra tôi, chỉ tò mò nhìn rồi mỉm cười với Horemheb đang giơ cao chiếc roi của quan cấm vệ lên chào. Cậu thanh niên người Crete tên Kefta đã thấy Horemheb, và vừa vấp dúi dụi vào các ghế đẩu vừa chạy lại, ôm lấy anh ấy và nói anh là bạn mình. Không ai để ý đến tôi nên tôi có thừa thời gian để ngắm nhìn người tình của trái tim tôi. Nàng đã già hơn so với trí nhớ của tôi và đôi mắt nàng không cười như trước mà cứng như viên đá màu lục. Đôi mắt ấy không cười cho dù đôi môi có nhoẻn cười, và việc đầu tiên nàng làm là nhìn vào chiếc vòng vàng trên cổ Horemheb. Nhưng dù chỉ có thế, đôi chân tôi cũng bủn rủn khi tôi nhìn nàng.

Bên trong sảnh cũng còn nhiều khách khác và các bức tường của sảnh đầy những tranh vẽ của các họa sĩ nổi tiếng nhất; trần sảnh được những chiếc cột hoa huệ tây sặc sỡ nâng đỡ. Trong sảnh có cả những người đã có chồng lẫn người chưa chồng, váy áo của ai cũng bằng vải lanh mỏng nhất, ai cũng đội tóc giả và đeo nhiều đồ trang sức. Họ cười với đám đàn ông đang vây quanh mình, già có trẻ có, đẹp có xấu có. Những người đàn ông này cũng đeo vòng vàng và cổ áo họ nặng trĩu vì được thêu vàng và đá quý. Mọi người hò hét, cười đùa và trên sàn, những hũ và cốc rượu lăn lóc, những cành hoa bị đạp xuống sàn; các nhạc công Syria lắc lắc những nhạc cụ làm phát ra tiếng lanh lảnh chói tai khiến lời nói bị chìm lấp. Họ đã uống rất nhiều rượu, đến mức một thiếu phụ phát nôn nhưng đứa hầu chìa cốc ra quá muộn nên ả làm bẩn váy áo của mình, khiến cả đám cười nhạo ả.

Kefta, anh chàng người Crete, cũng ôm tôi và làm lấm dầu xức lên mặt tôi khi nói tôi là bạn của cậu ta. Nhưng Nefernefernefer đã nhìn tôi và nói:

- Sinuhe! Tôi từng quen một Sinuhe. Cậu ấy cũng muốn trở thành thầy thuốc.

- Tôi là Sinuhe ấy đấy, - tôi vừa nói vừa nhìn thẳng vào mắt nàng, người tôi run lên.

- Không, anh không phải là Sinuhe ấy. - Nàng nói và đưa tay ra dấu phủ nhận. - Sinuhe mà tôi quen là một thanh niên trẻ măng và đôi mắt cậu ấy sáng như mắt nai. Còn anh đã là người đàn ông, anh có tác phong của đàn ông và bên khóe mắt anh đã có hai nếp nhăn; má của anh cũng không mịn màng như má cậu ấy.

Tôi cho nàng xem chiếc nhẫn và viên đá xanh lục trên nhẫn, nhưng nàng lắc đầu vẻ không hiểu và nói:

- Kẻ cắp đã vào nhà tôi rồi, chắc chắn anh đã giết Sinuhe, người mà mỗi khi nhìn đến là lòng tôi rạo rực. Đúng là anh đã giết cậu ấy và tháo từ ngón tay cậu ấy chiếc nhẫn mà một lần tôi đã tháo ra từ ngón cái của mình và trao cho cậu ấy để kỷ niệm tình bạn của chúng tôi. Anh còn lấy cả tên cậu ấy nữa nên Sinuhe, người tôi yêu mến không còn nữa.

Nàng đưa tay lên làm dấu buồn rầu khiến tim tôi tràn ngập niềm đắng cay và nỗi buồn lan tỏa làm tê dại chân tay. Tôi tháo nhẫn khỏi ngón tay, đưa cho nàng và bảo:

- Vậy nàng hãy nhận lại nhẫn. Tôi sẽ đi để khỏi quấy rầy niềm vui của nàng, bởi tôi không muốn nàng phiền lòng.

Nhưng nàng bảo:

- Đừng đi! - Nàng khẽ khàng đặt bàn tay lên cánh tay tôi như một lần đã từng làm và thì thào giọng yếu ớt: - Cậu đừng đi!

Khi nàng làm như thế, tôi đã biết vòng ôm của nàng bỏng rẫy hơn cả lửa và tôi sẽ không thể nào hạnh phúc nếu không có nàng. Những tên hầu rót rượu cho chúng tôi. Chúng tôi uống cho trái tim thêm rạo rực và chưa bao giờ rượu lại ngon đến thế trong miệng tôi.

Thiếu phụ vừa nôn lúc nãy đã súc miệng và lại uống. Rồi chị ta cởi bỏ xiêm áo đã lấm ướt và vứt sang bên, gỡ xuống cả mái tóc giả, thế là chị ta hoàn toàn trần truồng. Chị ta đưa hai bàn tay ép hai bầu vú vào với nhau, ra lệnh cho đứa hầu rót rượu vào kẽ hở giữa hai vú rồi dùng bàn tay chuốc rượu cho tất cả những ai muốn uống. Chị ta bước loạng choạng, ngả nghiêng khắp sảnh và cười to. Thiếu phụ trẻ, đẹp dừng lại trước Horemheb rồi vồn vã mời rượu anh ta giữa hai bầu vú mình. Horemheb cúi đầu xuống để uống; khi ngẩng đầu lên, mặt anh ta đỏ lựng. Anh ta nhìn vào mắt thiếu phụ rồi đưa hai tay giữ lấy cái đầu trọc của chị ta và hôn chị ta. Ai cũng cười, kể cả chị ta, nhưng rồi đột nhiên chị ta thấy xấu hổ nên xin xiêm áo mới. Sau khi mấy đứa hầu giúp mặc váy áo và đội mái tóc giả lên đầu, chị ta ngồi xuống cạnh Horemheb và không uống rượu nữa. Nghe các nhạc công Syria chơi, tôi cảm nhận niềm mê đắm Thebes trong máu mình và cả trong cơ thể mình, và biết mình được sinh ra vào ngày suy tàn của thế gian, nhưng với tôi sao cũng được, miễn là được ngồi bên người tình của trái tim mình, ngắm nhìn màu xanh biếc của đôi mắt nàng và màu đỏ trên đôi môi nàng.

Thế là nhờ Horemheb mà tôi gặp lại Nefernefernefer, người tôi say mê, nhưng giá như tôi không bao giờ gặp lại nàng nữa thì sẽ tốt hơn cho tôi.

5

- Ngôi nhà này là của nàng ư? - Tôi hỏi khi nàng ngồi bên tôi và chăm chú nhìn tôi bằng ánh mắt xanh sắc lạnh.

- Đây là nhà của tôi, - nàng đáp, - và khách cũng là khách của tôi. Tôi đón tiếp nhiều khách khứa hằng đêm vì không muốn ở một mình.

- Chắc nàng giàu lắm, - tôi nói và buồn vô cùng vì tôi sợ mình không xứng với nàng.

Nhưng nàng đã cười tôi như cười một đứa trẻ và bỡn cợt nói với tôi bằng những lời như trong chuyện cổ tích:

- Tôi là một nữ tu chứ không phải là loại đàn bà đáng khinh. Cậu cần gì ở tôi?

Nhưng tôi thật không hiểu nàng nói vậy nhằm ám chỉ điều gì.

- Thế còn Metufer? - Tôi hỏi, vì tôi muốn biết hết, cho dù điều đó có làm tôi đau khổ.

Nàng nhìn tôi dò xét, đôi mày được tô đậm từ từ nhướng lên.

- Lẽ nào cậu không biết là Metufer đã chết? - Nàng hỏi. - Metufer chết bởi vì cậu ta đã tiêu hết tiền Pharaon cấp cho cha cậu để xây dựng đền đài. Metufer chết và cha cậu ta cũng không còn là kiến trúc sư hoàng gia nữa. Chả lẽ cậu không biết?

- Nếu thật như thế, - tôi nói và cười, - thì tôi gần như tin là thần Amon đã trừng phạt cậu ta bởi vì cậu ta đã chế nhạo thần.

Tôi kể cho nàng nghe chuyện vị giáo sĩ và Metufer nhổ nước bọt lên mặt tượng Amon, rửa tượng rồi dùng dầu thánh của Amon để xoa lên người mình. Nàng mỉm cười nhưng ánh mắt lạnh băng và nhìn ra xa xăm. Đột nhiên, nàng hỏi:

- Sao hôm đó cậu không đến, Sinuhe? Nếu cậu đến tìm tôi thì đã gặp được tôi. Cậu thật xấu xa vì đã không đến với tôi hôm đó mà lại đến với những người đàn bà khác, trong khi tay đeo nhẫn của tôi.

- Tôi chỉ là chàng trai mới lớn và có lẽ hôm đó tôi sợ nàng, - tôi đáp. - Nhưng trong giấc mơ nàng là người tình của tôi, Nefernefernefer ạ. Nàng có thể cười tôi, nhưng tôi chưa từng ôm ấp người đàn bà nào vì tôi vẫn mong sẽ có lúc gặp lại nàng.

Nàng cười và giơ tay phản đối.

- Chắc cậu nói dối, - nàng bảo. - Trong mắt cậu, chắc chắn tôi chỉ là một người đàn bà già nua xấu xí, vậy nên cậu cứ thích đùa cợt và nói dối tôi. - Nàng nhìn tôi, đôi mắt cười rạng rỡ như trong lần gặp gỡ trước đây và trong mắt tôi nàng vẫn trẻ như ngày ấy, khiến tim tôi đập mạnh và nhói đau trong lúc nhìn nàng.

- Đúng là tôi chưa bao giờ chạm vào đàn bà, - tôi bộc bạch, - nhưng có lẽ cũng không đúng, kỳ thực là tôi chỉ đợi nàng, bởi tôi muốn trung thực với nàng. Bao nhiêu đàn bà đã đi ngang qua tôi, trẻ có già có, xinh đẹp và xấu xí có, thông thái và ngu ngốc cũng có, nhưng tôi chỉ nhìn họ bằng đôi mắt của thầy thuốc, còn lòng tôi không rung động trước bất cứ ai trong số họ, nhưng vì sao lại như thế, tôi thật sự không biết.

Tôi còn nói thêm:

- Tôi có thể dễ dàng nói là vì chiếc nhẫn mà nàng đã trao cho tôi để kỷ niệm tình bạn của chúng ta và có lẽ vì nàng đã bỏ bùa tôi mà tôi không hay biết. Có thể nàng đã thật sự bỏ bùa tôi khi để đôi môi mềm ấm của nàng khẽ chạm vào môi tôi. Nhưng giải thích như vậy cũng không đúng. Vậy nên cho dù nàng có hỏi tôi đến ngàn lần “Tại sao?”, thì tôi cũng không thể trả lời nàng.

- Có lẽ ngày còn bé chân cậu xoạc rộng trên đống hàng và cứ thế rơi xuống càng xe nên bây giờ cậu mới ưu tư và chỉ muốn một mình như vậy.

Nàng trêu tôi và khẽ chạm tay lên người tôi; chưa người đàn bà nào từng làm như thế với tôi. Tôi thấy không cần trả lời, bởi chính nàng cũng biết điều nàng vừa nói là không đúng. Rồi nàng rụt tay lại rất nhanh và nhẹ nhàng nói:

- Chúng ta hãy uống nào, để lòng ta vui. Biết đâu đấy, có thể tôi sẽ vui vẻ với cậu, Sinuhe ạ.

Chúng tôi uống rượu khi đám nô lệ khênh mấy người khách ra kiệu, còn Horemheb quàng tay ôm cô gái ngồi cạnh và gọi cô này là em gái. Cô ta mỉm cười, đặt bàn tay lên miệng anh ta và bảo anh ta không nên nói ra những lời ngu ngốc khiến sang ngày hôm sau đã phải hối hận. Thế là Horemheb đứng dậy và gào lên với cốc rượu trên tay:

- Dù làm gì đi nữa tôi cũng không tiếc nuối vì kể từ hôm nay, tôi chỉ nhìn về phía trước và không bao giờ ngoái lại phía sau. Thề có chim ưng của tôi và hàng ngàn thần linh của hai vương quốc, những thần linh mà tôi không tài nào nhớ nổi tên, nhưng dù sao các vị hãy nghe lời tôi thề.

Rồi anh ta tháo vòng vàng trên cổ, định đeo nó vào cổ cô gái nhưng cô ta không chịu, bực tức nói:

- Tôi là một người đàn bà đức hạnh chứ không phải gái làng chơi. - Nói rồi cô ta giận dỗi đứng dậy và bỏ đi nhưng đến cửa, cô ta kín đáo đưa tay vẫy Horemheb và anh ta đi theo, thế là suốt cả tối tôi không thấy cả hai đâu nữa.

Tuy nhiên không mấy ai để ý điều này vì đêm cũng đã khuya và đã đến lúc khách khứa phải ra về. Nhưng mọi người vẫn cứ uống rượu và lảo đảo trên sàn nhà, chân vướng vào ghế, tay vung vẩy những cái xúc xắc giật từ tay các nhạc công. Họ ôm nhau và gọi nhau là anh em, là bạn nhưng chỉ lát sau đã đấm nhau, gọi nhau là gã trọc hay kẻ bị thiến. Những người đàn bà không chút thẹn thùng gỡ bỏ mái tóc giả và để cho lũ đàn ông xoa xoa đỉnh đầu nhẵn thín, bởi từ lúc những phụ nữ quyền quý và giàu có bắt đầu cạo trọc đầu thì không kiểu vuốt ve nào kích động đàn ông hơn thế. Có mấy gã tiến lại gần Nefernefernefer nhưng nàng giơ tay xua họ đi, còn tôi đạp lên ngón chân những kẻ cứ thế xông bừa đến, phớt lờ địa vị và chức tước của mình bởi tất cả bọn họ đều đã say xỉn.

Nhưng tôi không say vì rượu, tôi say vì những cái chạm tay của nàng và vì được ở gần nàng, cho đến khi nàng ra hiệu và đám người hầu lần lượt tắt đèn, khiêng bàn ghế ra ngoài, nhặt những cành cây, vòng hoa bị đạp trên nền nhà và dìu những người khách đã ngủ gật bên vò rượu ra kiệu của họ. Vì thế tôi bảo:

- Chắc tôi cũng phải về rồi.

Nhưng mỗi từ tôi nói ra đều làm tim tôi nhói đau, nhức buốt như vết thương bị xát muối, vì tôi không muốn rời nàng và với tôi mỗi phút giây không được ở cạnh nàng đều vô vị.

- Cậu muốn đi đâu? - Nàng hỏi, ra vẻ ngạc nhiên.

- Tôi qua đêm trên phố trước cửa nhà nàng, - tôi nói. - Tôi đến từng ngôi đền ở Thebes, dâng lễ cảm ơn thần linh đã cho tôi gặp được nàng, vì chỉ thấy nàng rồi tôi mới lại tin vào thần linh. Tôi đi hái hoa từ trên cây và rải chúng xuống những con đường nàng đi qua mỗi khi nàng bước ra khỏi nhà. Tôi đi mua mộc dược để xức lên cột cổng nhà nàng.

Nhưng nàng mỉm cười và nói với tôi:

- Tốt hơn cậu đừng đi, vì tôi cũng có hoa và mộc dược. Tốt hơn cậu đừng đi vì bị rượu kích thích, có khi cậu lạc vào nhà người đàn bà nào đó, mà tôi lại không muốn thế.

Lời nàng nói làm tôi sướng mê ly, muốn ôm ngay lấy nàng nhưng nàng ẩn tôi ra và bảo:

- Đừng! Đám hầu của tôi sẽ nhìn thấy, mà tôi không cho phép điều đó vì cho dù tôi sống một mình, tôi cũng không phải là loại đàn bà đáng khinh. Nhưng vì cậu đã muốn trung thực với tôi, tôi cũng muốn ngay thật với cậu. Vì vậy chúng ta chưa làm cái việc mà vì nó cậu đến đây, tôi chỉ đưa cậu ra vườn để có thể kể cho cậu nghe một câu chuyện.

Nàng dẫn tôi ra vườn, trăng sáng vằng vặc, các khóm hương thảo cùng các bụi keo ngào ngạt tỏa hương, những đóa sen đã khép cánh ngủ yên trong ao, bờ ao được lát bằng những loại đá nhiều màu sặc sỡ. Đám nô tỳ rót nước lên tay chúng tôi và bê ra đặt trước chúng tôi ngỗng rán và các loại quả ướp mật. Nefernefernefer nói:

- Sinuhe, hãy ăn và vui cùng tôi.

Nhưng cổ tôi khản đặc vì thèm muốn nên tôi không ăn được. Nàng nhìn tôi, vừa mỉm cười bỡn cợt vừa ăn rất ngon miệng và cứ mỗi lần nàng nhìn tôi, ánh trăng trong ngần phản chiếu trong mắt nàng. Ăn xong nàng nói:

- Bây giờ tôi sẽ kể cậu nghe một truyền thuyết như đã hứa, vì thời gian từ giờ đến sáng còn dài mà tôi lại chưa buồn ngủ. Chuyện kể về Setne Khemves và Tabubue, nữ tu của thần Bast.

- Tôi đã nghe câu chuyện đó rồi, - tôi nói và không thể kìm được nỗi thèm khát của mình. - Tôi đã nghe chuyện đó nhiều lần rồi, yêu dấu ạ. Hãy vào nhà cùng tôi để tôi có thể nằm ôm nàng vào lòng trên giường và nàng có thể ngủ trên cánh tay tôi. Đi nào yêu dấu ơi, bởi thân thể tôi đang quặn đau vì thèm muốn, tôi sẽ lấy đá cào lên mặt mình và gào lên nếu nàng không vào.

- Yên nào, yên nào, Sinuhe, - nàng vừa nói vừa chạm tay vào tôi. - Cậu dữ tợn thế, tôi sợ cậu. Bởi vậy tôi sẽ kể chuyện đó để cậu trấn tĩnh lại. Chuyện rằng Setne, con trai của Khemves, trong khi đi tìm cuốn sách của Thoth bị cất giấu trong đền đã gặp Tabubue, nữ tu của thần Bast, và vì nỗi thèm muốn thôi thúc nên Setne đã bảo người hầu đến dâng nàng mười deben vàng, nếu nàng chịu chiều Setne trong một giờ. Nhưng Tabubue đã trả lời: “Ta là nữ tu chứ không phải loại đàn bà đáng khinh. Nếu chàng thực lòng muốn điều đã nói, hãy đến với ta ở nhà ta, nơi không ai nhìn thấy chúng ta để ta khỏi phải hành xử như gái làng chơi”. Nghe thế, Setne vô cùng mừng rỡ, vội vàng đến nhà Tabubue. Tabubue đón chàng vào nhà và mời rượu. Rượu càng khiến cơn thèm tăng lên, Setne muốn bắt đầu ngay việc mà vì nó chàng đến đây.

Nhưng Tabubue nói:

- Chàng đã ở nơi chàng muốn, nhưng ta là nữ tu chứ không phải là loại đàn bà đáng khinh. Nếu quả thật chàng muốn thứ mà chàng nói thì chàng phải trao cho ta tất cả của cải và tiền bạc, nhà cửa và trang trại của chàng, những thứ chàng sở hữu.

Setne nhìn nàng và sai người vời thư lại am tường luật pháp đến để viết khế ước, theo đó chàng sẽ trao cho Tabubue tất cả những gì chàng sở hữu. Lúc đó Tabubue đứng dậy, khoác lên người xiêm áo bằng vải lanh hoàng gia, thân thể nàng lộ ra dưới lớp vải như thân thể của nữ thần, được trang điểm thật diêm dúa. Nhưng khi Setne muốn điều mà vì nó chàng đến, Tabubue vẫn từ chối và nói:

- Chàng sẽ sớm có được điều chàng muốn. Nhưng ta là nữ tu chứ không phải loại đàn bà đáng khinh, vì vậy chàng hãy đuổi vợ mình ra khỏi nhà, để ta không phải nghi ngờ rằng lòng chàng sẽ lại hướng về người đó.

Setne nhìn nàng ta và sai kẻ hầu đuổi vợ mình ra khỏi nhà. Khi ấy Tabubue nói:

- Hãy vào phòng ta và nằm xuống giường ta, chàng sẽ nhận được phần của mình.

Setne háo hức đi vào phòng Tabubue và nằm xuống chiếc giường nhưng ngay lúc ấy, một tên hầu đi vào và nói:

- Các con ông đang ở đây và đứng bên cổng khóc đòi mẹ chúng.

Nhưng Setne làm như không nghe thấy, chỉ muốn vào ngay việc mà vì nó chàng đến đây. Lúc đó Tabubue lại nói:

- Ta là nữ tu chứ không phải là loại đàn bà đáng khinh, bởi thế ta chợt nghĩ có thể đàn con của chàng sẽ tranh cãi với các con ta về quyền thừa kế. Để tránh điều đó, chàng hãy cho phép ta giết chúng.

Setne để Tabubue giết con mình ngay trước mắt mình và vứt xác chúng qua cửa sổ xuống sân cho chó, mèo ăn. Khi uống rượu cùng Tabubue, chàng ta còn nghe thấy tiếng chó và mèo kêu sủa ầm ĩ vì giành giật thịt của lũ trẻ.

Nghe đến đó, tôi ngăn nàng lại và tim tôi thắt lại trong lồng ngực, như mỗi lần nghe câu chuyện ấy hồi còn bé. Tôi nói:

- Nhưng tất cả những điều đó chỉ có trong giấc mộng. Bởi vì khi nằm xuống giường của Tabubue, Setne nghe tiếng thét của nàng ta và bừng tỉnh, và chàng ta thấy mình như đang ở trong lò lửa khi trên người không có lấy một mảnh vải. Tất cả chỉ là giấc mộng mà Neneferkaptah đã bông đùa và người ta kể trong nhiều câu chuyện khác.

Nhưng Nefernefernefer bình thản nói:

- Setne mơ và tỉnh giấc, nhưng rất nhiều người khác chỉ tỉnh giấc trong Nhà Chết mà thôi. Sinuhe, ta buộc phải nói với cậu, cả ta cũng là một nữ tu chứ không phải là loại đàn bà đáng khinh. Ta cũng có thể có tên là Tabubue.

Nhưng ánh trăng phản chiếu lại từ mắt nàng khi nàng nhìn tôi khiến tôi không tin lời nàng nên tôi vẫn muốn kéo nàng vào lòng. Nhưng nàng ngăn tôi lại và hỏi:

- Sinuhe, chả lẽ cậu không biết tại sao Bast, nữ thần tình yêu, lại được miêu tả trong hình dạng con mèo?

- Tôi không quan tâm đó là mèo, miu hay thần linh, - tôi nói và cố kéo nàng vào lòng, mắt nhòa đi vì cơn thèm muốn đã dâng lên tột đỉnh. Nhưng nàng hất tay tôi ra và nói:

- Cậu sẽ được chạm tay vào thân thể tôi ngay thôi. Tôi sẽ để cậu sờ lên bầu vú tôi và sà vào lòng tôi nếu như điều đó làm cậu trấn tĩnh lại, nhưng trước tiên cậu phải nghe tôi nói và phải biết đàn bà cũng giống như mèo và ham muốn nhục dục cũng giống như mèo. Lòng bàn chân của nó thật mềm mại nhưng lại ẩn giấu bên trong những vuốt sắc nhọn, sẵn sàng đâm vào tận tâm can đối phương không chút xót thương. Quả đúng vậy, đàn bà có bản tính của loài mèo, cũng rất thích đùa giỡn, vờn con mồi của nó và dùng vuốt sắc làm đau con mồi không biết chán. Đến khi con mồi hoàn toàn tê liệt thì nó mới ăn, rồi lại đi tìm con mồi mới. Tôi kể với cậu tất cả những điều này vì tôi muốn thành thực với cậu và tôi không muốn gây cho cậu điều gì bất hạnh.

- Không, tôi không muốn gây bất hạnh cho cậu dù bằng bất cứ cách nào.

Nàng nhắc lại và lơ đãng nhấc một tay tôi đặt lên bầu vú mình rồi kéo tay còn lại của tôi vào lòng, khiến cả người tôi bắt đầu run lên và nước mắt ứa ra. Nhưng ngay lúc đó nàng ta lại nóng nảy hất tay tôi ra và nói:

- Tôi là Tabubue, biết rồi thì cậu hãy tránh xa tôi và đừng bao giờ quay lại để tôi khỏi làm hại cậu. Nhưng nếu không tránh đi, ít nhất cậu không thể đổ lỗi cho tôi nếu có điều gì không hay xảy ra với cậu.

Nàng ta chờ tôi bỏ đi, nhưng tôi không đi nên bèn thở dài như thể đã chán trò chơi và nói:

- Thôi được, chắc tôi phải cho cậu điều mà cậu đòi. Nhưng đừng có dữ tợn quá vì tôi mệt lắm và tôi sợ mình sẽ thiếp đi trên tay cậu.

Nàng đưa tôi vào phòng mình và chúng tôi nằm xuống chiếc giường bằng gỗ mun và ngà voi của nàng. Rồi nàng cởi xiêm áo và ôm tôi vào lòng, tôi cảm thấy như cả người tôi, trái tim tôi và tất cả mọi thứ trong tôi đều cháy thành than trong lòng nàng. Nhưng chỉ một lúc sau, nàng ta bắt đầu ngáp và nói:

- Quả thật tôi rất mệt và tôi tin cậu chưa từng ân ái với đàn bà, vì cậu vụng lắm và cũng không làm tôi thỏa mãn. Thế nhưng một cậu trai trẻ lần đầu tiên biết đến mùi đàn bà đến với một người phụ nữ tức là đã trao cho người phụ nữ món quà vô giá. Vậy nên tôi không đòi ở cậu bất cứ quà gì. Nhưng giờ thì cậu đi đi và để tôi ngủ, vì cậu đã nhận được điều mà vì nó cậu đến đây.

Khi tôi vẫn cố kéo nàng vào lòng thì nàng ẩn tôi ra và bắt tôi đi về. Nhưng cả thân thể tôi như trong bể lửa, mọi thứ bên trong tôi sôi lên sùng sục và tôi biết mình sẽ không bao giờ quên được nàng.

6

Ngày hôm sau, tôi bực bội bảo Kaptah cho tất cả bệnh nhân ra về và khuyên họ tìm thầy thuốc khác. Còn tôi điđến chỗ thợ cắt tóc rồi về tắm rửa, mặc quần áo và xức dầu thơm lên khắp người. Nhưng khi tôi chuẩn bị đi gặp Nefernefernefer, Horemheb đến và giữ tôi lại.

- Sinuhe, bạn tôi ơi, - anh ta nói, - tất cả bọn họ chỉ là rác rưởi mà thôi.

- Tôi đang vội, - tôi sốt ruột bảo, - nhưng anh cứ vào nhà, đầy tớ của tôi sẽ mang cho anh cá muối và bia lạnh rót ra từ hũ sành.

Tôi định đi nhưng Horemheb nắm tay giữ tôi lại và vì anh ta khỏe hơn nên tôi buộc phải quay vào nhà nghe anh ta giãi bày tâm sự. Anh ta nhai cá muối, uống bia và nói:

- Cái ả hôm qua đi cùng tôi rất chiều tôi. Nhưng tôi cũng không rõ liệu cuối cùng tôi nhận được gì hơn từ ả ngoài thứ mà một nô tỳ rẻ mạt nhất cũng có thể trao cho một người đàn ông.

Anh ta dừng một lát rồi nói tiếp:

- Ừ thì tôi cũng phải thừa nhận là ả có thân hình mềm mại, làn da trắng và tôi cũng thấy thích thú khi đang ngà ngà lại được nghe tiếng ả rên rỉ vì sức mạnh của tôi, nhưng bây giờ tôi cũng không thật biết liệu có nên mất nhiều công sức vì việc này đến thế không. Hơn nữa, ả ta đã có chồng, dù chồng ả hiện không có nhà và chắc chắn tôi phải giết chồng ả khi hắn quay về, nếu không hắn cũng sẽ giết tôi khi về đến nhà.

- Anh không cần phải sợ, - tôi sốt ruột ngắt lời. - Đó không phải là tập quán của Thebes. Nếu thi thoảng gặp chồng ả tại nhà ả, anh có thể cúi chào hắn, tay duỗi thẳng xuống tận đầu gối. Rồi hắn sẽ mời anh uống rượu và chính hắn cũng uống đến say mèm, sau đó anh có thể ôm ấp vợ hắn ngay trên giường của hắn. Xưa đã thế, sau này vẫn thế và cả hai vợ chồng nhà ả đều sẽ rất thỏa mãn, ả thỏa mãn với anh, còn chồng ả, vì mụ vợ đã cho uống đến say mà không mắng mỏ cằn nhằn, cũng thôi không ngăn cản như lũ đàn bà hay làm.

- Chồng của ả gầy gò, hói và bủn xỉn, ả bảo với tôi thế, - Horemheb kể và uống bia, - nên tôi tháo vòng vàng trên cổ mình cho ả, vì vàng chỉ là cát bụi dưới chân và không có nghĩa lý gì với tôi nếu không phải là chiến lợi phẩm mà tôi có được trong trận mạc. Về phần mình, ả tặng tôi mái tóc giả của ả vì cả hai chúng tôi lúc đó đã ngà ngà, mặc dù tôi không biết làm gì bây giờ với nó.

Horemheb lôi từ dưới áo khoác ngoài ra một mái tóc giả, những bím tóc lấp lánh được nhuộm màu xanh nõn rất khéo, và hờ hững vung vẩy nó.

- Điều duy nhất làm tôi khó chịu là tôi bỏ quên cây roi của mình dưới giường ả trong lúc say, nên bây giờ đám lính ngoài phố không chào tôi nữa. Anh có nghĩ là ngoài chợ có thể đổi tóc giả lấy roi chỉ huy không, vì tôi không chắc mình sẽ quay lại nhà ả nữa, cho dù ả mềm và ấm đến thế nào.

Tôi bảo chắc được thôi và còn nói thêm là tôi đang rất vội. Nhưng Horemheb vẫn không có ý rời đi. Anh ta nói trong miệng anh ta có vị gì đó, như thể đã ăn phải bùn, và tay anh ta vẫn còn vương mùi của ả khiến anh thấy tởm lợm. Anh ta cũng ngửi ngửi tôi và đoán tôi cũng đã qua đêm với đàn bà vì người tôi có mùi dầu xức. Tôi bảo mình vừa đi cắt tóc về, bởi tôi cảm thấy nếu đặt Nefernefernefer ngang hàng với cô ả của anh ta thì tôi có phần hạ thấp phẩm giá nàng. Vì tôi cảm thấy việc mình làm hoàn toàn khác với việc anh ta đã làm, như thể linh hồn mình được bọc trong một tấm lưới vàng vô hình. Cũng có thể tôi đúng, bởi những việc con người làm sẽ không có ý nghĩa gì, chỉ có nghĩa khi trái tim người ta cảm nhận được gì khi làm việc đó.

- Anh có nhớ lời thề của tôi không? - Horemheb hỏi. - Quả thật tôi đã uống quá nhiều rượu, nhưng rượu đã giúp tôi hiểu rõ nhiều việc mà tôi từng suy ngẫm. Tôi đã hiểu ra rằng tất cả bọn họ, những kẻ vừa ăn chơi thỏa sức vừa khoe khoang của cải và địa vị của mình, chẳng qua chỉ là lũ ruồi nhặng xung quanh tôi. Mà có thể cả Công chúa Baketamon cũng vậy, nàng, người mà tôi yêu, cũng chỉ là con ruồi bướng bỉnh quanh tôi. Chỉ còn duy nhất một thứ có chút ý nghĩa, đó là quyền lực. Mà không có vũ khí thì cả quyền lực cũng không có. Vậy nên chim ưng của tôi đã đúng khi bắt tôi trở thành người lính.

- Nhưng quyền lực không nằm trong tay những kẻ xông pha trận mạc, - tôi nói, - mà thuộc về những người ra lệnh cho binh lính, binh lính vì họ mà đánh giết nhau.

- Tôi đâu phải kẻ ngu, - Horemheb nói, - để cho tất cả bọn họ, những kẻ ăn trên ngồi trốc nghĩ mình có quyền ra lệnh, nhưng nói cho cùng họ cũng không có quyền bính gì, mà quyền bính thật sự bí mật nằm trong tay những người khác. Vậy nên tôi nghĩ rằng hội đồng giáo sĩ Amon có quyền lực rất lớn trên cả đất Ai Cập này, và vị giáo sĩ, người ngồi bên phải Hoàng thái hậu, là người có trong tay cả nắm quyền lực vào thời điểm này. Nhưng nếu có một ai đó có khả năng tập hợp quân đội, đưa họ vào trận chiến và buộc đội quân đó thực hiện mệnh lệnh của mình thì đó mới chính là người trị vì đích thực, cho dù không ai nhận ra điều đó.

- Anh như thế mới thật là kẻ ngu, - tôi nói, - vì người lính phải tuyên thệ trung thành với pharaon nên pharaon luôn là người đứng trên quân đội.

- Đúng thế thật, - Horemheb đồng ý, - trung thành là phẩm chất không thể thiếu của người lính vì mọi quyền chỉ huy trong quân đội đều dựa vào đó cả. Ngọn roi dạy cho đám lính quèn phải trung thành, còn cấp chỉ huy hẳn nhiên biết không có sự trung thành thì không có quân đội và nếu cấp cao nhất không trung thành thì cấp thấp nhất cũng không và tất cả sẽ tan rã. Vấn đề nằm ở đây. Nhưng dù sao đi nữa, tôi phải ở lại Thebes và chờ thời cơ của mình đến. Sau khi vui thú với đàn bà, tôi nhận ra mình đã trấn tĩnh lại và mặc dù tôi vẫn yêu trong vô vọng, tình yêu trong tim tôi đã lắng xuống ít nhiều và nó không còn gây đớn đau hơn một cơn đau dạ dày bình thường nữa. Bởi vậy tôi cảm ơn anh, Sinuhe ạ, vì đã cho tôi lời khuyên hữu ích, nếu thi thoảng anh cần sự giúp đỡ hay lời khuyên thì hãy đến tìm tôi ở hoàng cung nhé.

Anh ta ra chợ, đổi mái tóc giả màu xanh lục lấy cây roi chiến binh. Còn tôi cho gọi kiệu đến rồi giục đám phu khênh kiệu chạy thật nhanh đưa tôi đến nhà Nefernefernefer, vì tôi không muốn áo hay chân mình lấm bụi đường phố. Kaptah, người hầu một mắt của tôi, lo lắng dõi theo tôi và lắc đầu, bởi tôi chưa từng bỏ phòng khám vào giữa ngày thế này bao giờ và lão sợ quà cáp người bệnh cho thầy thuốc sẽ cạn dần nếu tôi cứ bỏ bê người bệnh của mình như thế. Nhưng tôi không còn bất cứ suy nghĩ nào trong đầu ngoại trừ một ý nghĩ duy nhất và toàn thân tôi như cháy trong lửa. Tuy nhiên, ngọn lửa này thật đáng yêu.

Tên đầy tớ cho tôi vào nhà và dẫn tôi đến phòng Nefernefernefer. Đang trang điểm trước gương, nàng ta nhìn tôi, đôi mắt thờ ơ, cứng rắn như hai viên đá xanh.

- Cậu muốn gì, Sinuhe? - Nàng hỏi. - Sự hiện diện của cậu làm tôi phát ngán.

- Nàng biết quá rõ tôi muốn gì. - Tôi đáp và thử ôm nàng khi nhớ lại sự thân mật của nàng đêm qua. Nhưng nàng ta nhẫn tâm ẩn tôi ra.

- Cậu ngu ngốc hay cậu ghen mà đến quấy rầy tôi thế? - Nàng ta cáu kỉnh nói. - Cậu không thấy tôi đang trang điểm sao? Vì có một thương gia từ Sidon vừa đến Thebes, mang theo chiếc trâm cài trán của hoàng hậu mới được tìm thấy dưới hầm mộ. Tối nay ai đó sẽ tặng trâm cho tôi, vì từ lâu tôi đã khát khao những đồ trang sức chưa ai từng có. Vậy nên tôi phải trang điểm cho mình thật đẹp và cho người xức dầu khắp người.

Không hề thẹn thùng, nàng ta cởi bỏ xiêm áo và nằm xuống giường để nữ tỳ xoa dầu thơm lên khắp cơ thể. Tim tôi dâng lên chẹn họng và hai bàn tay tôi toát mồ hôi khi tôi nhìn thấy sắc đẹp của nàng.

- Sao cậu còn chần chừ, Sinuhe? - Nàng ta hỏi và vẫn thản nhiên nằm trên giường sau khi nô tỳ đã đi khỏi. - Tại sao cậu không đi đi, tôi còn phải vận xiêm áo đây.

Lúc ấy lòng ham muốn làm tôi mụ mị và tôi nhào đến bên nàng nhưng nàng ta khéo léo tránh tôi khiến tôi không làm được gì, đành bật khóc trong nỗi thèm khát bất lực. Cuối cùng tôi nói:

- Nàng biết là nếu tôi có vàng bạc, tôi sẽ mua cho nàng chiếc trâm cài trán đó. Tôi sẽ không cho phép ai khác chạm đến nàng.

- Cậu thật có ý định đó sao? - Nàng ta nói nhỏ nhẹ và lim dim mắt. - Cậu thật không cho ai động đến tôi ư? Vậy nếu tôi dành ngày hôm nay cho cậu, ăn uống và ái ân cùng cậu bởi ai biết được ngày mai điều gì sẽ đến, thì cậu cho tôi cái gì, Sinuhe?

Nàng ta dang rộng hai tay và ngả ngớn ưỡn người trên giường làm cái bụng mịn màng hõm xuống ngay trước mắt tôi, mà cả người nàng ta không có đến một sợi lông, cả trên đầu và bất cứ chỗ nào lông tóc thường mọc.

- Cậu cho tôi cái gì nào? - Nàng ta vừa nhắc lại vừa ưỡn người và nhìn tôi.

- Tôi chẳng có gì để cho nàng đâu, - tôi đáp và nhìn xung quanh. Giường của nàng bằng ngà voi và gỗ mun, nền nhà lát đá lưu ly xanh lam và được trang trí bằng ngọc lam, còn trong phòng có rất nhiều bát, cốc bằng vàng.

- Không, quả thật tôi không có gì đáng làm quà cho nàng, - tôi nói và chân bủn rủn. Tôi đã định quay đi nhưng nàng ta giữ tôi lại.

- Tôi thương hại cậu, Sinuhe ạ, - nàng ta nhỏ nhẹ nói và lại mềm mại ưỡn người. - Quả thật cậu đã cho tôi cái đáng giá nhất trong cậu, cho dù sau đó nghĩ lại tôi thấy giá trị cái đó bị thổi phồng quá mức. Nhưng cậu vẫn còn ngôi nhà, quần áo và dụng cụ mà một thầy thuốc cần đến. Cậu có nghèo lắm đâu.

Người tôi run rẩy từ đầu đến chân, nhưng tôi nói:

- Tất cả những thứ đó là của nàng nếu nàng muốn, Nefernefernefer. Tất cả là của nàng, nếu nàng ân ái cùng tôi hôm nay. Thật ra tất cả đều không đáng giá cho lắm nhưng ngôi nhà đó được trang bị cho một danh y và một môn sinh ở Nhà Sống có thể trả nhiều để có nó nếu cha mẹ của hắn giàu có.

- Cậu nghĩ vậy thật sao? - Nàng ta nói và quay tấm lưng trần lại phía tôi, nhìn ngắm mình trong gương và lấy ngón tay vuốt nhẹ hàng lông mày đen thẫm. - Thôi được, nếu cậu muốn. Vậy cậu hãy gọi thư lại đến để ghi điều này ra giấy và tôi sẽ chuyển tất cả những gì cậu sở hữu sang tên tôi. Bởi dù sống một mình, tôi không phải là loại đàn bà đáng khinh và tôi phải lo cho tương lai của mình một khi cậu ruồng bỏ tôi, Sinuhe ạ.

Tôi ngắm nhìn tấm lưng nàng ta, lưỡi cứng đơ trong miệng, tim đập thình thịch khiến tôi phải lập tức quay đi và tìm một viên thư lại am tường luật để người này nhanh chóng viết tất cả mọi điều cần thiết ra giấy và gửi vào lưu trong văn khố hoàng gia. Khi tôi quay lại, Nefernefernefer đã khoác xiêm áo lanh hoàng gia lên người, đội mái tóc giả lên đầu, sắc đỏ như vàng, còn quanh cổ tay, cổ chân là những đồ trang sức tuyệt đẹp, chiếc kiệu sang trọng đang đợi nàng ta trước cửa nhà. Tôi đưa cho nàng khế ước mà viên thư lại đã làm và nói:

- Tất cả những gì tôi sở hữu nay đã thuộc về nàng, Nefernefernefer, tất cả là của nàng, kể cả quần áo trên người tôi. Hôm nay chúng ta hãy cùng ăn uống và tận hưởng lạc thú, bởi vì ai biết được điều gì sẽ đến vào ngày mai.

Nàng ta cầm tờ giấy, hờ hững cất nó vào cái hộp gỗ mun và nói:

- Tôi rất lấy làm tiếc Sinuhe ạ, bởi tôi vừa nhận ra là kinh nguyệt của tôi mới bắt đầu, nên cậu không thể ăn nằm với tôi được như tôi mong muốn. Vậy nên tốt hơn là cậu về đi đã, hãy để cho tôi sạch sẽ theo cách thần ban, vì đầu tôi nặng trịch và lưng tôi mỏi. Một hôm nào khác khi cậu quay lại, cậu sẽ nhận được điều cậu muốn.

Tôi nhìn nàng ta và thần chết chế ngự trong lồng ngực nên tôi không thốt ra được lời nào. Nàng ta tỏ vẻ rất sốt ruột, giậm chân xuống sàn nhà và nói:

- Cậu biến đi, tôi đang vội.

Khi thấy tôi định ôm nàng ta, nàng bảo:

- Đừng làm bẩn son trên mặt tôi.

Tôi về nhà, dọn dẹp đồ đạc để mọi thứ sẵn sàng cho người chủ mới. Lão đầy tớ một mắt của tôi vừa đi theo tôi từng bước vừa lúc lắc đầu, cho đến khi sự chường mặt của lão làm tôi vướng mắt, tôi gắt lên:

- Đừng có đi theo ta như thế vì ta không còn là chủ ngươi nữa rồi, người khác đã sở hữu ngươi. Hãy ngoan ngoãn vâng lời khi người đó đến và đừng có lấy cắp của người đó nhiều như đã lấy của ta, vì có thể cây gậy của hắn sẽ cứng hơn của ta đấy.

Lúc đó lão cúi rạp người xuống đất trước mặt tôi và giơ hai tay lên quá đầu vì quá đau buồn, vừa cay đắng khóc vừa nói:

- Ông chủ ơi, xin ngài đừng đuổi con đi, vì trái tim già nua của con đã kính yêu ông và sẽ vỡ làm đôi nếu bây giờ ông đuổi con đi. Con luôn trung thành với ông cho dù ông còn rất trẻ và hồn nhiên, thứ gì con đã trộm của ông, con đã tính toán rất kỹ nên trộm bao nhiêu và dựa theo lợi ích của ông. Con đã chạy dọc các con phố bằng đôi chân già nua của mình vào giữa trưa nóng bức, mồm gào tên ông và tài chữa bệnh của ông để ai cũng nghe thấy, mặc dù kẻ hầu người hạ của các thầy thuốc khác lấy gậy đánh con và nhặt rác rưởi, phân cứt ném con.

Tim tôi quặn đau và miệng tôi đắng ngắt khi nhìn lão ta, nhưng rồi tôi mủi lòng, đưa tay vỗ lên vai lão rồi nói:

- Đứng dậy nào, Kaptah!

Tên được ghi trên giấy mua nô lệ của lão là Kaptah nhưng tôi chưa bao giờ gọi lão bằng tên để lòng tự trọng của lão đừng trỗi dậy, để lão đừng nghĩ mình ngang hàng với tôi. Nên khi gọi lão, bao giờ tôi cũng chỉ hét to “tên nô lệ”, “đồ ngu”, “đồ vô lại”, hay “tên trộm”.

Giờ nghe tôi thốt lên tên mình, lão khóc thảm thiết hơn, chạm trán vào tay và chân tôi rồi đặt bàn chân tôi lên đầu mình cho đến khi tôi phát cáu, ẩn lão ra và lệnh cho lão đứng dậy.

- Khóc lóc cũng không giúp gì được nữa, - tôi bảo. - Nhưng lão nên biết rằng ta không bán lão cho kẻ khác vì ta ghét lão, vì quả thật ta hài lòng với cách lão hầu ta cho dù nhiều lúc lão đập cửa rầm rầm, gõ nồi xoong loảng xoảng để cãi lại không biết xấu hổ khi có gì đó không vừa lòng lão. Cho dù lão có lấy trộm của ta, ta cũng không lấy đó làm bực vì đó là quyền của kẻ nô lệ. Xưa đã thế và sau này vẫn thế. Nhưng ta buộc phải từ giã lão cho dù ta không muốn, vì ta không có gì để làm quà tặng. Ta còn mất cả nhà cửa và tất cả những gì ta sở hữu, ngay đến quần áo trên người cũng không còn là của ta. Thế nên lão khóc lóc trước mặt ta thế này cũng vô ích.

Lúc đó Kaptah đứng dậy, đưa tay gãi đầu và nói:

- Hôm nay là một ngày đáng nguyền rủa.

Rồi lão suy nghĩ rất lung và nói:

- Ông chủ Sinuhe, ông là thầy thuốc vĩ đại, dù ông còn trẻ và cả thế giới rộng mở trước ông, nên tốt nhất là con sẽ nhanh chóng thu dọn tất cả của cải có giá trị và khi đêm đến ta sẽ đi trốn, ta sẽ trốn trong cái thuyền nào có chủ thuyền không quá kỹ tính và sẽ dong buồm xuôi sông. Có biết bao nhiêu thành phố trong cả hai vương quốc, nếu ông bị đám nha lại phát hiện và truy tìm, hay nếu con bị nhận ra trong bảng tên của nô lệ bỏ trốn, thì chúng ta vẫn có thể đến các vùng đất đỏ, nơi không ai biết ông. Chúng ta cũng có thể đến các đảo ở biển xa, nơi rượu ngọt lành và đàn bà vui vẻ, và cả ở đất Mitanni và Babylon, nơi các dòng sông chảy sai hướng, nơi người ta coi trọng tài năng của danh y Ai Cập, ông có thể giàu có và con đây thành người hầu của đức ông đáng kính. Ông chủ ơi nhanh lên để ta còn kịp thu dọn đồ đạc của ông trước khi trời tối.

Lão giật giật tay áo tôi.

- Này Kaptah, Kaptah! - Tôi nói. - Lão đừng có quấy rầy ta bằng những lời ngu ngốc của lão, bởi vì tim ta tối tăm như tử thần và thân thể ta không còn của ta nữa. Ta đã bị trói buộc bằng những xiềng xích còn chắc hơn cả dây đồng dù lão không nhìn thấy. Vậy nên ta không thể bỏ trốn bởi mỗi phút giây ở xa Thebes, ta sẽ phải sống như trong lò lửa.

Lão hầu của tôi ngồi phịch xuống nền nhà, vì chân lão đầy những cục bướu đau nhức mà khi rảnh rỗi, tôi cũng chữa trị cho lão. Lão nói:

- Có lẽ thần Amon đã hắt hủi chúng ta rồi, mà con cũng không lấy làm ngạc nhiên, vì ông chủ ít khi dâng lễ cho thần. Tuy con vẫn thường xuyên cúng cho thần một phần năm những gì con lấy trộm của ông để tỏ lòng biết ơn thần vì đã ban cho con một ông chủ trẻ và chân chất, nhưng cả con cũng bị thần hắt hủi rồi. Đúng thế! Chúng ta nên đổi thần thôi và phải đi dâng lễ ngay cho thần khác, biết đâu thần đó sẽ xua được điều tồi tệ khỏi ta và làm cho mọi việc trở nên tốt lành.

- Đừng có lảm nhảm như thế, - tôi nói và bắt đầu thấy hối hận đã gọi lão bằng tên, vì lão đã ngay lập tức làm ra vẻ thân thiết quá. - Lời nói của lão như tiếng ruồi vo ve trong tai ta và lão quên rằng ta không còn gì để dâng lễ nữa, bởi vì người khác đã sở hữu tất cả những gì ta có.

- Người đó là đàn ông hay đàn bà? - Kaptah tò mò hỏi.

- Đàn bà, - tôi đáp, vì tôi giấu lão làm gì cơ chứ.

Nghe thế lão lại òa khóc và vừa bứt tóc vừa gào:

- Giá như tôi đừng sinh ra trên cõi đời này! Giá như mẹ đã quấn dây rốn thít chặt cổ cho tôi chết vào đúng ngày tôi ra đời! Bởi vì không có số phận nào tàn nhẫn hơn cho đứa nô lệ khi phải hầu hạ một mụ đàn bà nhẫn tâm và bà ta chắc chắn là người nhẫn tâm vì đã làm việc này với ông. Rồi bà ta sẽ bắt tôi nhảy nhót và chạy từ sáng sớm tới tối mịt trên đôi chân đau, sẽ lấy kim chọc tôi và quất gậy vào cái lưng già nua của tôi cho đến khi tôi kêu lên và khóc nức nở. Điều này xảy ra với tôi, dù tôi đã cầu Amon ban phúc và dâng lễ tạ ơn thần linh khi thần cho tôi hầu hạ ông chủ trẻ và ngây thơ.

- Nàng không độc ác chút nào! - tôi nói. Con người ta sao lại điên rồ đến thế, tôi lại muốn kể về Nefernefernefer với cả đầy tớ của mình, vì tôi không có ai để nói chuyện, không có ai tôi có thể tin tưởng. - Khi nằm trên giường không xiêm áo, nàng đẹp hơn cả trăng rằm, chân tay nàng mịn màng với dầu xức đắt tiền và đôi mắt nàng xanh như nước sông Nile giữa ngày hè cháy bỏng. Lão sẽ thấy mình hạnh phúc và đáng ghen tị nếu lão được sống gần nàng và thở cùng bầu không khí mà nàng hít thở.

Kaptah khóc dữ hơn, lão gào lên:

- Tất nhiên là mụ ta sẽ bán tôi làm cửu vạn hoặc phu đập đá khiến phổi tôi nghẹt lại, máu tóe ra dưới móng tay và chết gục xuống bùn đen như thể con lừa bị đá.

Trong thâm tâm tôi biết có lẽ lão nói đúng vì trong nhà của Nefernefernefer chắc không có chỗ nằm và đồ ăn cho người như lão. Nước mắt tôi bắt đầu trào ra, nhưng tôi thật không biết mình khóc vì lão hay vì bản thân. Nhìn thấy thế Kaptah nín bặt và sợ hãi nhìn tôi. Nhưng tôi chỉ đưa hai tay ôm đầu, mặc người đầy tớ của mình nhìn thấy mình khóc. Kaptah đặt bàn tay rộng bè lên đầu tôi và buồn bã nói:

- Tất cả là lỗi của kẻ tôi tớ này vì đã không bảo vệ được ông chủ của mình tốt hơn. Nhưng sao tôi có thể đoán được khi ông ấy trong trắng và sạch sẽ như tấm áo chưa qua một lần giặt. Thật ra tôi cũng đã thấy ngạc nhiên khi ông chủ chưa bao giờ bảo tôi dắt gái về cho ông khi đêm đêm ông trở về từ quán rượu. Và những người đàn bà mà tôi bảo đến gặp ông chủ, cởi xiêm áo, khoe thân hình và sẵn lòng hoan lạc với ông, đều thất vọng bỏ đi, gọi tôi là đồ chuột thối tha, là chim bới đống rác. Trong số đó cũng có người còn tương đối trẻ đấy chứ, mà có khi còn xinh đẹp nữa. Nhưng mọi sự săn sóc này của tôi đều vô ích và thằng ngốc tôi trong thâm tâm vô cùng mừng rỡ khi nghĩ ông chủ không bao giờ muốn lấy vợ, cái người có khi lại gõ lên đầu tôi và hắt nước sôi vào chân tôi sau khi cãi nhau với chồng. Ôi, sao tôi lại ngu ngốc và điên rồ thế! Khi ta vứt hòn than hồng đầu tiên vào túp lều sậy thì lều đã ngay lập tức cháy rụi thành tro.

Lão còn nói:

- Tại sao ông chủ không hỏi tôi khi ông còn ngây thơ như thế, bởi tôi đã nhìn thấy nhiều điều và tôi biết cũng nhiều, dù ông có thể không tin. Cả tôi cũng đã từng ăn nằm với lũ đàn bà, cho dù việc đó xưa lắm rồi và tôi đảm bảo với ông rằng bánh mì, bia với cái bụng no đầy tốt hơn cả vòng tay ôm của người đàn bà đẹp nhất. Ôi, ôi ông chủ ơi, khi người đàn ông đến gặp đàn bà, anh ta phải cầm theo cây gậy, nếu không anh ta sẽ bị đàn bà điều khiển, bị trói vào dây xích. Dây xích sẽ hằn xuống thịt như sợi chỉ mỏng và làm tim xây xước như mảnh đá trong dép làm chân ta đau. Ông chủ ơi, thề có thần Amon, giá như ông cứ gọi lũ con gái về nhà hằng đêm thì chúng ta đâu đến nông nỗi này. Ông chủ đã phí hoài thời gian trong các quán rượu với nhà vui, để bây giờ ông bị đàn bà biến thành nô lệ cho họ.

Lão còn lảm nhảm nhiều nữa cho đến khi lời lão nói như lũ ruồi vo ve trong tai tôi. Cuối cùng lão trấn tĩnh lại và nấu cho tôi ăn, đổ nước cho tôi rửa tay, nhưng tôi không tài nào ăn được vì cơ thể tôi như bị lửa thiêu đốt và tối đến tôi không thể nghĩ được gì khác ngoài một việc.

Kaptah ăn rất nhiều và uống đến cạn hũ rượu, nghêu ngao những bài ca buồn bã, bứt tóc và rắc tro đầy người cho đến khi ngủ thiếp đi. Nhưng tôi không tài nào ngủ được, cả người bủn rủn. Vậy nên tôi bước vào đêm tối, lang thang quanh đền thờ thần Bast và tôi thấy đuốc sáng trước nhà Nefernefernefer, những người khách vui vẻ bước xuống kiệu, vào nhà nàng. Nhưng tôi không dám đến gặp nàng vì nàng đã cấm tôi làm điều đó, nên tôi lại tiếp tục lang thang quanh đền Bast và suy nghĩ của tôi như đám rắn độc cắn da thịt tôi. Vài cô ả đến kéo tay áo tôi, cười đùa và thì thào gọi tôi trong bóng tối cho đến khi tôi đau khổ và vô vọng đi theo một người trong bọn họ. Cô ả xin tôi quà và tôi đưa cho ả miếng đồng cuối cùng của mình rồi theo ả đến bên chân tường đền Bast. Cô ả nằm xuống đất, cởi xiêm áo và vòng tay ôm tôi. Nhưng tôi không thể ấn cái của nợ của mình vào cô ta dù tôi có ham muốn, đất bên tường thành đền bốc mùi khăm khẳm và cô ả đứng lên theo sau tôi, nhổ một bãi nước bọt về phía tôi và nguyền rủa tôi.

Tôi trở về nhà mệt mỏi, rã rời như vừa chịu một trận đòn, cái giường của tôi như lò lửa và tôi rên rỉ trong giấc ngủ của mình. Sáng ra tôi tắm rửa sạch sẽ, mặc quần áo và xức dầu lên mặt để đến nhà Nefernefernefer, bởi tôi nghĩ mình sẽ chết nếu không được nhìn thấy nàng và chạm tay vào nàng. Đôi mắt Kaptah đỏ mọng vì khóc, lão rắc tro lên đầu rồi ngã nhào xuống đất trước mặt tôi ngăn không cho tôi đi. Nhưng lòng tôi đã quyết, tôi lấy chân gạt lão sang bên để có thể đi được, nhưng giá mà tôi đừng đi thì đã tốt hơn biết bao nhiêu.

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 5
  • 6
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 5
  • 6
  • Sau