Thế rồi trong tòa dinh thự vắng lặng, Hafid lặng lẽ đợi chờ người kế thừa những cuộn giấy da. Người đàn ông già nua chỉ có viên quản lý là bạn đồng hành. Từng mùa đến rồi đi, tuổi già ập đến cướp đi sức khỏe của Hafid, khiến ông chỉ còn có thể ngồi lặng im trong khu vườn khép kín của mình.
Ông chờ đợi.
Ông đã chờ đợi gần ba năm ròng rã kể từ khi cho đi toàn bộ tài sản và giải thể đế chế thương mại của ông.
Rồi một hôm, từ phía Đông bên kia sa mạc xuất hiện một hình dáng yếu ớt, khập khiễng, tiến vào Damascus, băng qua những con đường và dừng chân lại ngay trước lâu đài của Hafid. Erasmus, vốn thường là một hình mẫu của tác phong lịch sự, lần này cứ khăng khăng án ngữ ở cửa lâu đài mặc cho người đàn ông lạ khẩn khoản:
– Hãy cho ta gặp ông chủ của ông!
Vẻ ngoài của người đàn ông lạ mặt ấy nom có vẻ không đáng tin cậy. Đôi giày của ông ta đã mòn rách, được vá víu bởi những sợi dây bện. Đôi chân đen nhẻm đầy vết xây xát. Trên mình ông ta vận một chiếc khố từ lông lạc đà đã cũ rách và giãn hết ra. Đầu tóc ông rối bù, dài thượt, và đôi mắt đỏ ngầu như bị mặt trời thiêu đốt.
Erasmus vẫn giữ lấy nắm cửa.
– Ngươi tìm ông chủ ta có việc gì?
Người đàn ông lạ mặt thả chiếc túi vải rơi khỏi vai mình và đan siết hai tay lại với nhau như để cầu xin Erasmus.
– Xin ông, hãy rộng lượng cho tôi được gặp ông chủ của ông. Tôi sẽ chẳng gây hại hay xin của bố thí gì đâu. Hãy để ngài ấy lắng nghe tôi, rồi tôi sẽ rời đi ngay.
Erasmus, tuy vẫn do dự, từ từ mở cửa và gật đầu. Sau đó, ông quay người tiến nhanh về phía khu vườn, người đàn ông lạ mặt khập khiễng theo sau.
Trong vườn, Hafid đang mơ màng ngủ. Erasmus hơi khựng lại do dự, rồi ho vài tiếng. Hafid hơi trở người. Ông lại cất tiếng ho, và lần này Hafid mở mắt.
– Xin ngài tha lỗi cho sự làm phiền này, nhưng có một người đến thăm ngài.
Hafid ngồi thẳng dậy, mắt hướng về phía người đàn ông lạ đang cúi mình. Ông ta hỏi:
– Có phải ngài chính là người bán hàng vĩ đại nhất không?
Hafid cau mày lại, rồi gật đầu.
– Ta từng được gọi như vậy nhiều năm trời, nhưng giờ thì không. Danh hiệu đó chẳng còn thuộc về ta nữa. Ngươi tìm ta có việc gì?
Người đàn ông nhỏ bé đứng nép mình trước Hafid và đưa tay áp lên ngực. Ông chớp mắt dưới ánh đèn mờ tỏ và đáp:
– Tôi là Saul, từ Jerusalem, giờ tôi trở về nơi tôi được sinh ra là Tarsus. Tôi xin ngài, đừng để bề ngoài của tôi đánh lừa ngài. Tôi không phải là một tướng cướp nơi hoang dã, cũng không phải là gã ăn mày trên đường phố. Tôi được sinh ra ở vùng đất Tarsus và cũng là công dân của Rome. Chúng tôi là tín đồ giáo phái Fa-ri1của dân tộc Do Thái thuộc chi họ Benjamin, và dù chỉ là một người may lều, nhưng tôi cũng đã được học theo Gamaliel vĩ đại. Vài người gọi tôi là Paul2.
1 Một nhánh phái của Do Thái giáo.
2 Paul vùng Tarsus (ở Cilicia, Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay) cũng được biết đến với tên Do Thái là Saul. Paul, một cái tên mà ông có được nhờ quyền công dân La Mã của mình, được sinh ra vào đầu thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên hoặc cuối thế kỷ cuối cùng trước Công nguyên.
Paul hay Saul, như ban đầu ông được gọi, một người làm lều, là một người Pharisee được giáo dục và sống nhiều năm ở Jerusalem. Khi ông đang trên đường đến Damascus để tiếp tục sứ mệnh dập tắt những người cải đạo sang giáo phái Do Thái mới thì ông trải nghiệm khải tượng về Chúa Jesus. Từ đó trở đi, ông trở thành một nhà truyền giáo, truyền bá thông điệp của Kitô giáo. Ông cũng đã viết một phần lớn Kinh Thánh Tân Ước.
Ông lắc lư người khi nói, lúc này Hafid mới hoàn toàn tỉnh táo và mau chóng mời người đàn ông kia ngồi.
Paul gật đầu, nhưng vẫn đứng.
– Tôi đến để kêu gọi sự giúp đỡ và hướng dẫn mà chỉ có ngài mới có thể ban cho tôi. Ngài có cho phép tôi được nói ra câu chuyện của mình chứ?
Erasmus đứng đằng sau người đàn ông lạ liên tục lắc đầu ra hiệu, nhưng Hafid vờ như không thấy gì. Ông quan sát kỹ người vừa đến phá giấc ngủ của mình, rồi gật đầu.
– Ta đã quá già, không thể ngước lên nghe ngươi nói. Hãy đến ngồi bên chân ta và ta sẽ lắng nghe lời ngươi.
Paul đặt cái túi sang bên cạnh và quỳ xuống gần người đàn ông đang ngồi im lặng chờ đợi.
– Bốn năm về trước, quá nhiều những kiến thức hỗn độn tích lũy trong nhiều năm đã che mắt tôi khiến tôi không nhìn thấy sự thật. Khi đó, tôi là người đã chứng kiến một người đàn ông sùng đạo tên là Stephen bị ném đá ở Jerusalem. Ông ta đã bị kết tội tử hình bởi tòa án Do Thái tối cao vì tội buông lời báng bổ Thánh Thần.
Hafid cắt ngang với giọng khó hiểu:
– Ta không hiểu chuyện này có liên quan gì đến ta.
Paul đưa tay lên như để xoa dịu người đàn ông vừa lên tiếng.
– Tôi sẽ giải thích ngắn gọn thôi. Stephen tôn thờ một người đàn ông tên là Jesus. Chưa đầy một năm trước khi xảy ra sự việc của Stephen, Jesus bị đóng đinh vào thập giá bởi người La Mã vì tội xúi giục nổi loạn. Stephen cứ một mực cho rằng Jesus là đấng cứu thế đã được tiên đoán trước bởi nhà tiên tri Do Thái, và cho rằng thánh đường đã âm mưu cùng La Mã để giết người con của Chúa. Và Stephen đã bị kết tội chết cho niềm tin ấy. Như tôi đã nói, tôi có tham gia vào câu chuyện này. Hơn nữa, với sự cuồng tín và lòng nhiệt huyết non trẻ, tôi nhận nhiệm vụ mang theo một lá thư của linh mục tối cao của thánh đường, đi đến Damascus để truy lùng những người theo Jesus và mang về Jerusalem để chịu sự trừng phạt. Đó là chuyện bốn năm về trước.
Erasmus thoáng nhìn Hafid và giật mình, ông chưa từng thấy ở Hafid ánh mắt như lúc này. Không gian lặng phắc, chỉ còn tiếng thác nước đổ, cho đến khi Paul tiếp tục câu chuyện.
– Lúc ấy, khi tôi tiến đến Damascus cùng với trái tim đầy ý định giết chóc, thì bỗng từ trời cao, một ánh sáng chói lòa xuất hiện ngay trước mắt tôi. Bất thần, dù không hề bị quật ngã, tôi thấy mình đang nằm vật ra đất, và dù lóa mắt chẳng trông thấy gì, tôi vẫn nghe một giọng nói văng vẳng bên tai: “Saul, Saul, tại sao ngươi lại hành hạ ta?”. Tôi đáp: “Ngươi là ai?”, và giọng nói ấy trả lời: “Ta chính là Jesus, chính là người mà ngươi đang muốn săn đuổi. Nhưng giờ hãy đứng lên và tiến vào thành phố, ngươi sẽ được chỉ dẫn phải làm gì”. Tôi đứng dậy như kẻ mù lòa và được người bạn đồng hành dìu đến Damascus. Tôi đã không được ăn uống gì trong ba ngày khi đến trú chân tại căn nhà của một tín đồ của Jesus. Sau đó, một người tên Ananias đến gặp tôi, ông bảo mình được mách bảo để tìm tôi. Và rồi khi ông ta đặt bàn tay lên mắt tôi, tôi lại có thể nhìn thấy bình thường. Rồi tôi ăn uống và dần hồi phục sức lực.
Hafid rướn người về trước và hỏi:
– Sau đó chuyện gì xảy ra?
– Tôi được đưa đến giáo đường Do Thái và sự xuất hiện của tôi, một kẻ khủng bố những ai ủng hộ Jesus, gây cho họ nỗi khiếp hãi. Nhưng ngay khi tôi thuyết giáo, tất cả đều bối rối. Tôi khẳng định rằng người đã bị hành hạ và đóng đinh lên thập tự chính là đứa con của Chúa. Tất cả những người có mặt đều không tin vào tai mình, chẳng phải chính tôi đã gây ra cuộc tàn sát ở Jerusalem sao? Thế nên, hầu hết mọi người đều tưởng mình đang xem một trò lừa. Tôi không thể thuyết phục họ rằng trái tim tôi đã thay đổi. Rất nhiều người muốn tôi phải chết để rửa hận, vì thế tôi đã chạy trốn và quay trở về Jerusalem. Trở về Jerusalem, những gì xảy ra ở Damascus lại cứ thế lặp lại. Không ai trong số những người ủng hộ Jesus muốn lại gần tôi. Tôi cố hết sức mình giải thích nhưng vô ích. Bất cứ lời nào của tôi đều vấp phải những phản ứng ngược lại. Cho đến một ngày, khi tôi đến giáo đường và vào trong sân, ngắm nhìn những người bán bồ câu và cừu để hiến tế, giọng nói ấy lại vang lên trong đầu tôi.
– Lần này là gì? – Erasmus cất lời. Hafid mỉm cười với người bạn già và gật đầu bảo Paul tiếp tục.
– Giọng nói ấy bảo: “Ngươi đã tốn nhiều lời trong gần bốn năm, nhưng ngươi chẳng tỏa sáng là bao. Kể cả lời nói của Chúa Trời cũng phải được bán cho loài người, bằng không họ sẽ không nghe thấy. Chẳng phải ta đã dùng những ngôn từ đơn giản nhất để tất cả có thể hiểu được sao? Ngươi sẽ chẳng bắt được con ruồi nào bằng giấm đâu. Hãy quay trở lại Damascus và tìm ra người được mệnh danh là người bán hàng vĩ đại nhất. Nếu ngươi muốn rao truyền lời nói của ta đến với thế giới, hãy để ông ấy chỉ cách cho”.
Hafid lướt mắt nhanh về phía Erasmus, và viên quản lý cảm nhận được một câu hỏi không thành lời. Phải chăng đó là người mà ông đã chờ đợi bấy lâu nay? Người bán hàng vĩ đại nghiêng mình về trước và đặt tay lên vai Paul.
– Hãy kể ta nghe về Jesus.
Giọng nói của Paul như có sức sống lạ thường. Paul kể về chuyện người Do Thái chờ đợi một đấng cứu thế đến và nối kết họ thành một khối bền vững, cùng sống trong một đế chế tự do độc lập, hạnh phúc và hòa bình. Ông kể về John, người làm lễ rửa tội, và sự ra đời của Jesus. Ông kể về những điều kỳ diệu tạo nên bởi người đàn ông này, những bài diễn thuyết của Ngài trước dân chúng, sự hồi sinh từ cái chết, việc điều trị cho người đổi tiền, và rồi cậu kể về việc Ngài bị đóng đinh trên thập giá, lúc chôn cất, và sự phục sinh. Cuối cùng, để minh họa thêm cho câu chuyện, Paul lấy từ trong chiếc bao của mình ra một tấm áo màu đỏ và đặt vào lòng Hafid.
– Thưa ngài, ngài đang cầm trên tay mình tất cả những gì còn lại của Jesus. Jesus đã ban tặng cho thế giới mọi thứ mình có, kể cả cuộc đời của Ngài. Ngay dưới chân cây thập giá, quân lính La Mã đã trả giá rất cao để lấy được tấm áo choàng này. Sau cùng, tôi đã có thể sở hữu nó sau biết bao nỗ lực tìm kiếm khi tôi còn ở Jerusalem.
Khuôn mặt Hafid tái nhợt đi và tay ông run rẩy khi cầm trên tay chiếc áo choàng rướm máu. Erasmus lo lắng trước biểu hiện của ông chủ, tiến đến gần người đàn ông già cỗi. Hafid cứ lật qua lật lại chiếc áo choàng cho đến khi ông thấy một ngôi sao nhỏ được may đính vào... Là con dấu của Tola, người đã sản xuất những chiếc áo choàng để Pathros bán ra! Ngay sát bên ngôi sao là một dấu tròn bên trong hình vuông – con dấu của Pathros.
Hafid đưa chiếc áo choàng lên áp vào má của mình. Rồi ông lắc đầu: “Không thể nào!”. Vào những năm tháng hùng mạnh của Pathros, ông ấy đã bán hàng ngàn chiếc áo choàng của Tola cơ mà.
Tay vẫn ôm lấy chiếc áo choàng, Hafid nghẹn ngào:
– Hãy cho ta biết, Jesus đã được sinh ra như thế nào?
Paul kể:
– Ngài đã rời khỏi cõi đời này với hai bàn tay trắng. Và khi đến với cuộc đời, Ngài cũng thế. Jesus được ra đời trong một hang động ở Bethlehem, trong thời điểm tổng điều tra Augustus.
Cả hai người đàn ông sững sờ khi nhìn thấy nụ cười như trẻ thơ và những dòng nước mắt lăn dài trên gò má nhăn nheo của Hafid. Rồi ông lau nước mắt, hỏi:
– Và có phải trên bầu trời đã xuất hiện một ngôi sao sáng nhất mà con người từng được soi rọi khi hài nhi ấy chào đời?
Paul mở miệng nhưng chẳng thể thốt nên lời. Cũng không cần thiết nữa. Hafid ôm chầm lấy Paul, và lúc này, nước mắt của họ đã hòa vào nhau.
Cuối cùng, người đàn ông già đứng dậy, ra hiệu cho Erasmus.
– Bạn thân yêu của tôi, hãy đi về phía tòa nhà và mang trở lại đây chiếc rương. Cuối cùng, ta cũng đã tìm được người bán hàng của ta rồi.