• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Người biến mất
  3. Trang 27

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 26
  • 27
  • 28
  • More pages
  • 60
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 26
  • 27
  • 28
  • More pages
  • 60
  • Sau

Chương hai mươi hai

H

arry Houdini nổi tiếng bởi nghệ thuật thoát hiểm, nhưng sự thật là có rất nhiều nghệ sĩ thoát hiểm trước ông và cả nhiều người cùng thời với ông.

Điều khiến Houdini nổi bật so với những người khác là một sự bổ sung đơn giản vào màn trình diễn của ông: sự thử thách. Một phần quan trọng trong buổi diễn của ông là việc mời bất kỳ ai trong thành phố nơi ông xuất hiện thách thức Houdini thoát khỏi một thiết bị hay địa điểm mà người đó nêu ra – có thể là còng tay của chính một cảnh sát địa phương hay một phòng giam trong nhà tù của thành phố.

Chính yếu tố thách thức, mặt đối mặt trong trình diễn khiến Houdini trở nên vĩ đại. Ông nổi bật nhờ những thách thức đó.

Và ta cũng thế, Malerick nghĩ, đang rảo bước về phía căn hộ của gã sau khi bò lên từ sông Harlem sau một hồi dò dẫm. Nhưng gã vẫn còn run rẩy ghê gớm vì những sự kiện diễn ra buổi chiều hôm đó. Khi gã đang trình diễn như thường lệ, trước ánh lửa, thường có một yếu tố nguy hiểm trong các màn biểu diễn. Nguy hiểm thực sự. Thầy của gã đã nhồi nhét cho gã ý tưởng là nếu không có sự mạo hiểm thì làm sao ta có hy vọng lôi kéo được khán giả? Với Malerick, không có tội lỗi nào tồi tệ hơn việc làm những người đã tới để ta giải trí cho thấy chán nản. Nhưng màn trình diễn này đã biến thành hàng loạt những thách thức mới hung hiểm làm sao; cảnh sát giỏi hơn nhiều so với gã trông đợi. Làm sao họ đoán được là gã nhắm tới người phụ nữ ở trường dạy cưỡi ngựa? Và nơi gã sẽ nhấn chìm cô ta? Đánh bẫy gã trong hội chợ đồ thủ công rồi tìm thấy gã trong chiếc Mazda, sau đó lại đuổi theo gã – gần tới mức gã phải lao chiếc xe xuống sông và chỉ trốn thoát trong gang tấc. Thách thức là một chuyện – nhưng giờ gã cảm thấy hoang đường. Gã muốn chuẩn bị kỹ hơn cho màn trình diễn tiếp theo, nhưng gã quyết định ở lại căn hộ của mình cho tới phút chót.

Ngoài ra, còn vài việc khác gã cần làm bây giờ. Việc cho riêng gã – không phải cho khán giả quý mến của gã. Gã kéo tấm màn cửa căn hộ lại và đặt một cây nến lên mặt lò sưởi, gần một chiếc hộp nhỏ bằng gỗ khảm. Gã đánh một que diêm và thắp ngọn nến lên. Rồi ngồi trên nền vải thô ráp của chiếc ghế sô-pha rẻ tiền. Gã kiểm soát hơi thở của mình. Hít vào chậm rãi, thở ra.

Từ từ, từ từ, từ từ…

Tập trung vào ngọn lửa, trôi dạt trong sự thiền định.

Suốt lịch sử của mình, nghệ thuật ảo thuật được chia làm hai trường phái. Một, có những nhà nghệ sĩ nhanh tay lẹ mắt, những người làm trò biến hóa, những nghệ sĩ tung hứng, những người tạo ảo giác – những người giải trí cho khán giả bằng sự khéo léo và kỹ năng thể chất.

Trường phái thứ hai gây tranh cãi hơn nhiều: những trò huyền bí. Ngay cả trong thời đại khoa học này, một số người thực hành trò ảo thuật huyền bí vẫn nhận rằng họ thực sự sở hữu quyền năng siêu nhiên để đọc được tâm trí và di chuyển được vật thể bằng tinh thần, tiên đoán được tương lai và giao tiếp được với các linh hồn.

Trong hàng nghìn năm qua, những nhà tiên tri và thầy đồng bịp bợm đã trở nên giàu có nhờ tuyên bố triệu hồi được linh hồn những người chết cho những người thân đang tuyệt vọng của họ. Trước khi chính quyền bắt đầu tấn công những vụ lừa đảo như thế, chính các ảo thuật gia chân chính đã bảo vệ những người cả tin bằng cách công khai các phương pháp đằng sau việc tạo ra những hiệu ứng kỳ bí. (Thậm chí ngày nay, ảo thuật gia xuất sắc James Randi62 vẫn dành rất nhiều thời gian của mình để vạch trần những trò giả mạo đó.) Bản thân Harry Houdini cũng dành phần lớn cuộc đời và tài sản để thách thức những thầy đồng giả mạo. Tuy nhiên, thật trớ trêu, một trong những lý do khiến ông bắt đầu sứ mệnh đó là bởi ông tuyệt vọng muốn tìm được một thầy đồng chân chính có thể liên lạc với linh hồn mẹ ông, người mà ông mãi nhớ tiếc sau khi bà qua đời.

62 James Randi, sinh năm 1928, là ảo thuật gia người Mỹ gốc Canada. Ông quyết liệt lật tẩy các mánh lừa tâm linh.

Malerick giờ nhìn trừng trừng vào ngọn nến, vào ánh lửa. Dõi theo, cầu nguyện cho linh hồn người tri âm của gã xuất hiện, vuốt ve ánh lửa vàng và gửi cho gã một dấu hiệu. Gã sử dụng ngọn nến làm trung gian giao tiếp vì chính lửa đã cướp đi tình yêu của gã, làm thay đổi vĩnh viễn cuộc đời Malerick.

Đợi đã, phải chăng nó đang bập bùng? Phải nhưng cũng có thể là không. Gã không biết.

Cả hai trường phái ảo thuật ganh đua quyết liệt trong con người gã. Là một người tạo ảo giác tài năng, tất nhiên Malerick biết màn trình diễn của gã chẳng qua là việc ứng dụng vật lý học, hóa học và tâm lý học. Nhưng gã vẫn còn vương vất chút nghi ngờ trong tâm trí là có lẽ ảo thuật thực sự nắm giữ chìa khóa vào thế giới siêu nhiên: Chúa, với tư cách là một ảo thuật gia, làm biến mất những cơ thể hỏng hóc của chúng ta và rồi lấy đi linh hồn của những người ta yêu mến, biến đổi họ và trả họ về cho chúng ta – những khán giả buồn bã và đầy hy vọng của Ngài.

Điều đó không phải là bất khả, Malerick tự nhủ. Người…

Và rồi ngọn nến bập bùng! Phải, gã đã thấy.

Ngọn lửa di chuyển một milimet tới gần hơn với chiếc hộp khảm. Rất có thể đó là dấu hiệu cho thấy linh hồn người đã khuất mà gã yêu mến đang lơ lửng ở gần đây, được triệu hồi không phải bởi cơ học, mà bởi sợi dây kết nối mà ảo thuật có thể khám phá nếu gã chịu đón nhận.

“Có phải anh đó không?” Gã thì thầm. “Phải không?”

Hít thở thật chậm, gã sợ rằng hơi thở của mình có thể tới chỗ ngọn nến và làm nó tắt mất; Malerick muốn có bằng chứng khẳng định rằng gã không phải đang một mình.

Cuối cùng ngọn nến cháy hết và Malerick ngồi thật lâu trong trạng thái thiền định, dõi theo làn khói xám cuộn lên trần nhà rồi biến mất.

Liếc nhìn đồng hồ. Gã không thể đợi thêm nữa. Gã gom trang phục và đồ đạc lại và ăn mặc cẩn thận. Hóa trang lại.

Tấm gương nói cho gã biết là gã đã “vào vai.”

Gã bước ra sảnh trước. Liếc nhìn ngoài cửa sổ. Con đường không một bóng người.

Rồi bước ra ngoài trong buổi tối mùa xuân cho tiết mục, phải, thậm chí còn thách thức hơn các tiết mục trước.

Lửa và ảo ảnh là bạn tâm giao.

Những nhúm bột phát sáng nổ tung, những cây nến, những ngọn lửa propan mà các nghệ sĩ thoát hiểm đung đưa trên đó…

Lửa, thưa quý khán giả thân mến, là đồ chơi của quỷ và quỷ luôn liên hệ với ảo thuật. Lửa soi rọi và làm mờ, nó hủy diệt và kiến tạo.

Lửa tạo ra sự đổi thay.

Và nó là trung tâm của màn trình diễn tiếp theo của chúng tôi, màn trình diễn mà tôi gọi là Người cháy thành than.

***

Trường Neighborhood ở ngay đại lộ Số Năm tại Greenwich Village là một tòa nhà đá vôi cổ lạ lùng. Vẻ ngoài của nó có vẻ khiêm nhường như cái tên nên người ta không bao giờ ngờ rằng chính tại nơi đây, con cái một số gia đình giàu có và có nhiều quan hệ chính trị nhất ở thành phố New York đã học đọc, học viết, và làm toán.

Nó được biết tới không chỉ là một tổ chức giáo dục chất lượng – nếu bạn có thể gọi một trường tiểu học như thế – mà còn là một khu vực tổ chức những sự kiện văn hóa quan trọng ở khu vực này của thành phố. Như buổi hòa nhạc lúc tám giờ tối thứ Bảy này chẳng hạn.

Mục sư Ralph Swensen đang trên đường tới đó.

Ông đã sống sót sau cuộc đi bộ dài qua khu Chinatown và khu Little Italy để tới Greenwich Village mà không gặp sự cố gì ngoài những lời gạ gẫm của gái làm tiền và những van nài của đám ăn xin, những điều mà tới giờ ông đã gần như không để ý tới nữa. Ông dừng lại ở một nhà hàng Ý nhỏ để ăn một đĩa mì spaghetti (món đó và ravioli là những món duy nhất trong thực đơn mà ông nhận ra). Và bởi vợ ông không đi cùng, ông gọi thêm một ly vang đỏ. Đồ ăn thật tuyệt vời và ông ở lại nhà hàng một lúc lâu, nhấm nháp thứ đồ uống cấm kỵ và tận hưởng cảnh tượng đám trẻ đang chơi ngoài phố ở khu vực ồn ào về sắc tộc này.

Ông trả tiền, cảm thấy ít nhiều tội lỗi vì đã dùng quỹ của nhà thờ để uống rượu, rồi đi tiếp về phía bắc, sâu hơn vào khu Village. Dọc đường đi, ông ghé qua một nơi gọi là quảng trường Washington. Nhìn thoáng qua thì đây có vẻ là một khu tiểu Sodom63, nhưng ngay khi đi vào trung tâm của công viên hỗn loạn đấy, viên mục sư nhận thấy rằng những tội lỗi duy nhất là mấy người trẻ bật nhạc quá lớn và mọi người uống bia và rượu từ hộp giấy. Dù ông tin tưởng ở một hệ thống đạo đức đưa những kẻ phạm tội nhất định xuống thẳng địa ngục (như những kẻ mại dâm đồng tính ồn ào không để ta ngủ yên), nhưng những tội lỗi tâm linh mà ông thấy ở đây không phải là thứ sẽ dẫn người ta tới chiếc vé một chiều xuống hỏa ngục.

63 Tên một thành phố trong Sách Sáng Thế và Kinh Thánh mà trong lịch sử đã bị Chúa Trời hủy diệt vì người dân ở đây gây ra tội lỗi.

Đi được nửa đường qua công viên, ông bắt đầu cảm thấy bất an. Ông nghĩ lại về kẻ đã dò xét ông, kẻ mặc bộ áo liền quần với hộp dụng cụ gần khách sạn. Viên mục sư chắc chắn là ông đã từng nhìn thấy gã từ trước đó – trong kính phản chiếu ở một cửa hàng không lâu sau khi ông rời khách sạn. Cảm giác bị theo dõi tương tự lúc đó giờ trở lại với ông. Ông quay người thật nhanh và nhìn lại. Không có người nào mặc đồ như vậy. Nhưng ông có nhìn thấy một người đàn ông mảnh khảnh mặc áo khoác thể thao tối màu đang theo dõi ông. Gã lơ đễnh nhìn đi nơi khác và đổi hướng đi về phía một nhà vệ sinh công cộng.

Là hoang tưởng sao?

Hẳn là thế. Người đàn ông đó không hề giống người mặc đồ lúc trước. Nhưng khi viên mục sư rời quảng trường, đi về phía bắc dọc đại lộ Số Năm để tránh hàng trăm người đi bộ trên vỉa hè, ông một lần nữa lại cảm thấy mình đang bị bám đuôi. Liếc lại về phía sau. Lần này ông thấy một người đàn ông tóc vàng, đeo kính dày và mặc áo khoác thể thao màu nâu và áo phông đang nhìn về phía ông. Mục sư Swensen cũng để ý thấy gã băng qua cùng bên đường mà ông vừa băng qua.

Nhưng giờ ông đã chắc chắn là ông hoang tưởng. Ba người khác nhau không thể nào đều theo dõi ông. Trong tâm trạng thoải mái, ông nghĩ ngợi và đi tiếp về phía bắc trên đại lộ Số Năm về trường Neighborhood, đường phố chật ních người đang tận hưởng một buổi tối mùa xuân đẹp trời.

Mục sư Swensen tới trường Neighborhood vào lúc bảy giờ đúng, nửa tiếng trước khi cửa mở. Ông đặt cặp tài liệu xuống và khoanh tay lại. Rồi ông quyết định rằng ông nên ôm nó và lại nhấc nó lên. Ông uể oải dựa vào hàng rào thép vây quanh một khu vườn gần trường học, liếc nhìn một cách không thoải mái về hướng ông vừa đi tới.

Không, không có ai hết. Không có người mặc đồ liền mang hộp dụng cụ. Không có người mặc áo khoác thể thao. Ông đã…

“Xin lỗi, thưa cha?”

Giật mình, ông quay người lại và thấy một người đàn ông to lớn, da ngăm ngăm với bộ râu có lẽ đã hai ngày không cạo.

“Ừm, sao cơ?”

“Cha tới đây dự buổi hòa nhạc đúng không?” Người đàn ông hất đầu về phía trường Neighborhood.

“Đúng rồi,” ông đáp, cố gắng không để giọng mình quá run vì bất an.

“Mấy giờ bắt đầu vậy?”

“Tám. Mở cửa lúc bảy giờ ba mươi.”

“Cảm ơn, thưa cha.”

“Không có chi.”

Người đàn ông mỉm cười và đi về phía trường học. Mục sư Swensen tiếp tục nghi lễ của mình, ông lo lắng nắm chặt tay cầm chiếc cặp đựng tài liệu. Liếc nhìn đồng hồ. Bảy giờ mười lăm.

Cuối cùng, sau năm phút tưởng chừng như vô tận, ông thấy điều mình đang mong đợi, điều đã khiến ông phải đi xa thế này: chiếc Lincoln Town Car màu đen với biển số chính thức của chính quyền. Nó từ từ dừng lại cách trường Neighborhood một khối nhà. Viên mục sư nheo mắt trong hoàng hôn để đọc số xe. Đúng chiếc xe này rồi… Cảm ơn Chúa.

Hai người đàn ông trẻ mặc vest đen bước ra từ cửa trước. Họ nhìn dọc theo vỉa hè – liếc mắt qua cả ông – và có vẻ hài lòng là con đường đã an toàn.

Một người cúi xuống và nói gì đó qua cửa sổ phía sau đang mở ra.

Vị mục sư biết anh ta đang nói chuyện với ai: Trợ lý công tố quận Charles Grady, người nắm quyền công tố vụ chống lại Andrew Constable. Grady cùng vợ đến dự buổi hòa nhạc của con gái họ. Thật ra, chính tay công tố viên là trung tâm nhiệm vụ tới Sodom của ông vào cuối tuần này. Giống như Tông đồ Paul, mục sư Swensen bước vào thế giới của những kẻ không có đức tin để cho họ thấy sai lầm trong lối sống của họ và mang tới chân lý cho họ. Ông cũng định hành động như vậy, nhưng bằng một cách cương quyết hơn vị tông đồ: sát hại Charles Grady với khẩu súng ngắn nặng nề đang nằm trong cặp đựng tài liệu của ông, mà ông ôm chặt trước ngực như thể nó chính là Hòm Chứng Ngôn64.

64 Hòm Chứng Ngôn hay còn được gọi là hòm Bia Giao Ước, Chiếc Rương Thánh Tích là chiếc rương bằng gỗ nạm vàng chứa hai tấm bia đá khắc Mười Điều Răn.