• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Người biến mất
  3. Trang 26

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 25
  • 26
  • 27
  • More pages
  • 60
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 25
  • 26
  • 27
  • More pages
  • 60
  • Sau

Chương hai mươi mốt

M

ột giây trước còn ở đây, giây sau đã biến mất.

Quả bóng màu đỏ không thể nào đi từ bàn tay phải đang dang ra của Kara tới điểm đằng sau tai cô.

Nhưng nó quả đã đi như thế.

Và sau khi cô giấu nó đi và ném quả cầu màu huyết dụ vào không khí, nó không thể nào lại biến mất và rốt cuộc dừng lại ở chỗ gập cùi chỏ bên trái.

Nhưng nó quả đã thế.

Bằng cách nào nhỉ? Rhyme băn khoăn.

Cô và nhà tội phạm học đang ở trong phòng thí nghiệm dưới lầu tại căn nhà phố của anh, đợi Amelia Sachs và Roland Bell. Mel Cooper đang bày bằng chứng trên những chiếc bàn để nghiên cứu. Khắp căn phòng ngân vang tiếng jazz piano phát ra từ một chiếc đĩa CD, Rhyme được thưởng thức màn trình diễn nhanh tay lẹ mắt của riêng anh.

Kara đứng trước cửa sổ, mặc một trong những chiếc áo phông màu đen của Sachs lấy từ tủ đồ trên lầu. Thom vừa mới giặt chiếc áo ba lỗ của cô, để làm sạch vệt tương cà giả làm máu của màn biểu diễn ngẫu hứng ở hội chợ đồ thủ công.

“Cô lấy những cái đó ở đâu ra?” Rhyme hỏi, hất đầu về phía những quả bóng. Anh đã không thấy cô lấy chúng ra khỏi ví hay từ túi của cô.

Cô mỉm cười và nói rằng cô đã “biến” ra chúng (một trò nữa mà các nhà ảo thuật rất thích làm, Rhyme nhận xét một cách khó chịu, là biến nội động từ thành ngoại động từ).

“Cô sống ở đâu?” Anh hỏi. “The Village.”

Rhyme gật đầu nhớ lại vài kỷ niệm cũ. “Khi vợ tôi và tôi còn sống chung, phần lớn bạn bè của tôi đều ở dưới đó. Và SoHo, TriBeCa nữa.”

“Tôi không đi qua phía bắc đường 23 nhiều,” cô nói.

Nhà tội phạm học cười lớn. “Vào thời của tôi, đường 14 là bắt đầu vùng phi quân sự.”

“Có vẻ phe ta đang thắng,” cô đùa khi những quả bóng màu đỏ hiện ra rồi biến mất, di chuyển từ tay này sang tay kia, rồi xoay tròn trong không khí trong một màn nhào lộn ngẫu hứng.

“Giọng của cô là vùng nào?” Anh hỏi.

“Tôi nói nghe có giọng địa phương sao?” Cô hỏi. “Thì là ngữ điệu, kiểu lên xuống… tông giọng.”

“Có lẽ là Ohio. Trung Tây.”

“Tôi cũng vậy,” Rhyme nói. “Illinois.”

“Nhưng tôi đã ở đây từ năm mười tám tuổi. Đi học ở Bronxville.”

“Sarah Lawrence, kịch nghệ,” Rhyme suy luận. “Ngôn ngữ Anh.”

“Và cô thích ở đây và đã ở lại.”

“À, tôi thích được ra khỏi khu ngoại ô và vào thành phố. Rồi sau khi cha tôi qua đời, mẹ tôi chuyển tới đây để ở gần tôi hơn.”

Con gái của một bà góa… cũng giống như Sachs, Rhyme nghĩ. Anh tự hỏi liệu Kara có gặp cùng vấn đề với mẹ cô như Sachs không. Một hòa ước đã được thương thảo trong những năm gần đây, nhưng khi Sachs còn nhỏ, tính khí mẹ cô khá thất thường, hay cáu bẳn và khó đoán. Rose không hiểu tại sao chồng bà lại chẳng muốn làm gì khác ngoài một viên cảnh sát và con gái bà lại muốn làm bất cứ điều gì trừ những việc mẹ cô muốn cô làm. Điều này tự nhiên khiến người cha và cô con gái trở thành đồng minh, làm tình hình càng thêm tồi tệ. Sachs kể với anh rằng nơi ẩn náu của họ vào những ngày tồi tệ là ga-ra, họ có thể tìm được ở đấy cả một vũ trụ dễ đoán đến dễ chịu: khi một bộ chế hòa khí không hoạt động, lý do là một quy tắc vật lý đơn giản đã bị vi phạm – động cơ vượt giới hạn cho phép hay một miếng đệm mối nối bị cắt sai. Động cơ, hệ thống treo và truyền động không bắt bạn phải chịu tâm trạng cường điệu hay những lời chỉ trích bí hiểm và thậm chí trong tình trạng tồi tệ nhất, chúng cũng không bao giờ đổ lỗi cho bạn vì những sai sót của chúng.

Rhyme đã gặp Rose Sachs vài lần và thấy bà hấp dẫn, hay nói, lạ lùng và không giấu nổi niềm tự hào về con gái mình. Nhưng anh biết mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong quá khứ có thể không hề giống hiện tại.

“Và mọi chuyện thế nào, việc bà ấy sống gần cô ấy?” Rhyme hỏi đầy ngờ vực.

“Nghe như phim tình cảm dài tập khủng khiếp hả? Nhưng không, mẹ tôi rất tuyệt. Bà ấy… này, anh biết đấy, một bà mẹ. Họ luôn chỉ một kiểu như thế. Họ không bao giờ hành xử khác đi.”

“Bà ấy sống ở đâu?”

“Bà ấy ở trong một nhà dưỡng lão ở Upper East Side.”

“Bà ấy bị bệnh nặng lắm à?”

“Không có gì nghiêm trọng. Bà ấy sẽ ổn thôi.” Kara lơ đễnh lăn những quả bóng qua mu bàn tay vào trong lòng bàn tay cô. “Khi nào bà ấy khỏe hơn chúng tôi sẽ đi Anh, chỉ hai chúng tôi thôi. London, Stratford, Cotswolds. Cha mẹ tôi và tôi từng tới đó một lần. Đó là kỳ nghỉ tuyệt vời nhất từ trước tới giờ của chúng tôi. Lần này tôi sẽ lái xe bên trái đường và uống bia nóng. Họ không cho tôi làm thế lần trước. Tất nhiên, lúc đó tôi mới mười ba. Anh đã bao giờ sang bên đó chưa?”

“Có chứ. Tôi từng thỉnh thoảng làm việc với Sở Cảnh sát London. Và tôi có giảng bài ở đó. Tôi đã không trở lại kể từ… chà, từ vài năm trước rồi.”

“Ảo thuật và ảo giác luôn ăn khách ở Anh hơn so với ở Mỹ. Ở đó có lịch sử rất lâu đời. Tôi muốn cho mẹ tôi xem nhà triển lãm Sảnh Ai Cập ở London. Một trăm năm trước đó là trung tâm vũ trụ của giới ảo thuật. Giống như một cuộc hành hương với tôi, anh hiểu không?”

Anh liếc về phía cửa. Không có dấu hiệu gì của Thom. “Giúp tôi một việc.”

“Chắc rồi.”

“Tôi cần thuốc.”

Kara nhìn thấy những chai đựng thuốc dựa vào tường.

“Không, ở trên kệ sách.”

“À, thấy rồi. Cái nào?” Cô hỏi.

“Chai ở cuối kệ. Macallan, mười tám năm.” Anh thì thầm, “Và cô có thể rót càng êm thì càng tốt.”

“Này, anh nói với đúng người rồi đấy. Robert-Houdin từng nói rằng có ba kỹ năng ta phải thuần thục nếu muốn là một nhà ảo thuật thành công. Khéo léo, khéo léo và khéo léo.” Trong chốc lát, một lượng whisky ám khói vừa chuẩn đã được rót vào chiếc cốc của anh – quả là lặng lẽ và gần như vô hình. Thom có thể đứng ngay cạnh đây mà không hay biết gì. Cô bỏ ống hút vào trong cốc và để nó vào giá để cốc trên ghế của anh.

“Cô cứ tự nhiên nhé,” anh nói.

Kara lắc đầu và khoát tay về phía bình cà phê mà một mình cô đã uống gần hết. “Thuốc độc của tôi là thứ kia.”

Rhyme nhấp một ngụm rượu. Anh ngả đầu ra phía sau và để rượu đốt cháy khoang miệng của mình rồi biến mất. Theo dõi bàn tay của cô và trạng thái bất khả của những quả bóng màu đỏ. Một ngụm dài nữa. “Tôi thích đấy.”

“Gì cơ?”

“Ý tưởng về ảo ảnh này.” Đừng ủy mị sướt mướt, anh tự nhủ. Mình lúc nào cũng ủy mị khi say. Nhưng sự tự biết đó không ngăn anh nhấp thêm một ngụm whisky nữa và nói tiếp, “Đôi khi thực tế có thể khó chấp nhận, cô hiểu không?” Anh cũng không kiềm được ánh mắt thương cảm nhìn xuống cơ thể bất động của mình.

Ngay lập tức anh hối tiếc nhận xét đó – và ánh mắt đó – rồi bắt đầu đổi đề tài. Nhưng Kara không bày tỏ bất kỳ sự cảm thông gượng gạo nào. Cô nói, “Anh biết không, tôi không chắc là có nhiều thực tế đâu.”

Anh nhíu mày, không hiểu ý cô.

“Không phải hầu hết cuộc đời chúng ta là ảo ảnh sao?” Cô nói tiếp.

“Tại sao lại thế?”

“À, mọi thứ thuộc về quá khứ là ký ức, đúng không?”

“Đúng.”

“Và mọi thứ thuộc về tương lai là tưởng tượng. Cả hai đều là ảo ảnh – ký ức không đáng tin cậy và chúng ta chỉ phỏng đoán về tương lai. Điều duy nhất hoàn toàn thực là khoảnh khắc tức thì này của hiện tại – và nó cũng liên tục thay đổi từ tưởng tượng thành ký ức. Nên anh thấy không? Hầu hết cuộc đời chúng ta là ảo ảnh.” Rhyme mỉm cười. Là một nhà logic học, một nhà khoa học, anh muốn phản bác lại lý thuyết của cô. Nhưng anh không thể. Anh kết luận là cô có lý. Anh đã dành phần lớn thời gian của mình cho những ký ức của cái Trước kia, trước tai nạn, và cách mà cuộc đời anh thay đổi Sau đó.

Và tương lai ư? Ồ, phải, anh từng chìm đắm trong đó. Không một ai trừ Sachs và Thom biết là anh dành ra ít nhất một tiếng đồng hồ mỗi ngày để tập thể dục – thực hiện những bài tập về cự ly chuyển động, trị liệu nước ở một bệnh viện gần đó hay đạp chiếc xe đạp kích ứng điện cất trong phòng ngủ trên lầu. Chế độ tập luyện này một phần là để phục hồi một số chức năng thần kinh và vận động, cải thiện sức bền cho anh và phòng ngừa các vấn đề sức khỏe phát sinh có thể bủa vây anh. Nhưng lý do chính cho những nỗ lực đó là để giúp cơ bắp của anh sẵn sàng chờ đến ngày có cách chữa trị.

Anh áp dụng lý thuyết của Kara vào cả nghề nghiệp của mình nữa: khi xử lý một vụ án, anh liên tục soát lại những ký ức mênh mông của anh để tìm kiếm tri thức về pháp y và các tội ác trong quá khứ và phán đoán nơi chốn của nghi phạm và hành động tiếp theo của hắn.

Mọi thứ thuộc về quá khứ là ký ức, mọi thứ thuộc về tương lai là tưởng tượng…

“Vì bây giờ chúng ta đã thoải mái hơn,” cô nói và thêm đường vào ly cà phê, “tôi có điều này cần thú nhận.”

Một ngụm rượu nữa. “Sao?”

“Khi thấy anh lần đầu tiên, tôi đã nghĩ thế này.”

Ồ, phải, anh nhớ rồi. Ánh mắt đó. Ánh mắt quen thuộc của người muốn thoát khỏi kẻ què quặt. Đi kèm là Nụ cười đó. Điều duy nhất tồi tệ hơn thế là những gì đang sắp diễn ra: lời xin lỗi lúng túng cho ánh mắt và nụ cười lúc đó.

Cô lưỡng lự, có phần hơi bối rối. Rồi nói, “Tôi nghĩ anh có thể trở thành một ảo thuật gia tài giỏi.”

“Tôi ấy hả?” Rhyme ngạc nhiên hỏi.

Kara gật đầu. “Anh rất giỏi việc cảm nhận và có đầu óc thực tiễn. Người ta nhìn anh và thấy anh bị tàn tật… Đó có phải từ mà anh dùng không?”

“Nói cho đúng chuẩn mực là “khuyết tật.” Bản thân tôi thì chỉ nói rằng tôi chết chắc rồi.”

Kara cười lớn và nói tiếp, “Họ thấy anh không thể tự di chuyển được. Họ có thể nghĩ rằng anh gặp vấn đề về tinh thần hay anh tư duy chậm. Đúng không?”

Đúng là thế. Những người không biết anh thường nói chậm hơn và lớn hơn, giải thích những điều rõ ràng bằng những cụm từ đơn giản. (Trong sự ghê tởm của Thom, Rhyme thỉnh thoảng sẽ đáp lại bằng những tiếng lắp bắp rời rạc và giả đò mắc hội chứng Tourette58 và xua những vị khách đang kinh hoàng ra khỏi căn phòng.) “Khán giả hẳn sẽ ngay lập tức hình thành định kiến về anh và tin rằng anh không thể nào tạo ra những ảo tưởng mà họ đang thấy. Một nửa họ sẽ bị ám ảnh bởi tình trạng của anh. Nửa kia thậm chí sẽ không nhìn anh. Đó là khi anh khiến họ mắc câu… Dẫu thế nào, lúc đó tôi gặp anh, anh đang ngồi xe lăn và rõ ràng đã trải qua một quãng thời gian khó khăn. Nhưng tôi không hề thấy thông cảm hay hỏi anh thế nào. Tôi thậm chí còn chẳng nói, “Tôi rất tiếc.” Tôi chỉ nghĩ, mẹ kiếp, anh sẽ là một nghệ sĩ trình diễn hay ho đấy. Điều đó khá ngu xuẩn và tôi cảm thấy là anh đã nhận ra.”

58 Hội chứng Tourette: Hội chứng thần kinh di truyền với các biểu hiện lâm sàng là máy giật vận động, phát âm khó khăn, các tật méo giật ở mặt…, đặt theo tên bác sĩ thần kinh người Pháp Georges Gilles de la Tourette (1857 - 1904).

Điều này làm anh thực sự thích thú. Anh trấn an cô, “Tin tôi đi, tôi không thích được thông cảm hay vuốt ve đâu. Chuyện ngu xuẩn tốt hơn nhiều.”

“Thật sao?”

“Thật.”

Cô nâng cốc cà phê lên. “Mừng nhà ảo thuật nổi tiếng, Người bất động.”

“Nhưng những trò nhanh tay lẹ mắt sẽ là vấn đề đấy,” Rhyme chỉ ra.

Kara đáp, “Như ông Balzac vẫn luôn nói, nhanh não lẹ trí mới là kỹ năng tốt hơn.”

Rồi họ nghe thấy tiếng cửa trước mở và tiếng trò chuyện của Sachs và Sellitto khi họ bước vào trong sảnh. Rhyme nhướng mày và ngả người về phía chiếc ống hút trong cốc. Anh thì thầm, “Xem này. Đây là một tiết mục mà tôi gọi là Làm biến mất bằng chứng buộc tội.”

***

Lon Sellitto hỏi, “Trước hết, chúng ta có nên nghĩ là gã đã chết không? Đã đi ngủ với đám cá ấy?”

Sachs và Rhyme nhìn nhau và đồng thanh nói, “Không.”

Viên thanh tra cao to nói, “Cô có biết nước ở Harlem xiết thế nào không? Đám trẻ từng thử bơi ở đó và anh không bao giờ thấy lại chúng.”

“Mang xác gã tới đây cho tôi,” Rhyme nói, “thì tôi mới tin.” Tuy nhiên, anh thấy có một điều đáng khích lệ: họ không nhận thêm tin tức gì về một vụ giết người hay mất tích nào nữa. Việc suýt bị bắt và màn bơi trên sông có lẽ đã làm kẻ sát nhân phát hoảng; có lẽ giờ gã biết rằng cảnh sát đang theo sát nên đã từ bỏ những vụ tấn công hoặc ít ra là nằm im một thời gian, cho Rhyme và cả nhóm có cơ hội tìm ra xem gã trốn ở đâu.

“Còn Larry Burke thì sao?” Rhyme hỏi.

Sellitto lắc đầu. “Chúng tôi đã cho vài chục người đi tìm kiếm. Cả rất nhiều tình nguyện viên, cảnh sát và lính cứu hỏa đang không làm nhiệm vụ nữa, anh biết đấy. Thị trưởng cũng đặt một khoản thưởng… Nhưng tôi phải nói là tình hình không có gì hứa hẹn lắm. Tôi đang nghĩ là anh ấy có thể ở trong cốp chiếc Mazda.”

“Họ vẫn chưa lôi được chiếc xe lên hả?”

“Vẫn chưa tìm thấy nó. Nước đen như mực và với dòng chảy hiện giờ, một thợ lặn nói với tôi là chiếc xe có thể trôi giạt tới cả cây số trước khi chìm xuống đáy.”

“Chúng ta phải tìm ra,” Rhyme nói, “là gã có lấy vũ khí và bộ đàm của Burke không. Lon, chúng ta nên thay đổi tần số để gã không thể nghe được những gì chúng ta đang tính toán.”

“Chắc chắn rồi.” Viên thanh tra gọi trung tâm và yêu cầu toàn bộ trao đổi về vụ Gã phù thủy phải chuyển sang tần số đặc biệt trên toàn thành phố.

“Hãy trở lại với các bằng chứng nào. Chúng ta có gì, Sachs?”

“Không có gì ở nhà hàng Hy Lạp cả,” cô nhăn nhó nói. “Em đã yêu cầu chủ nhà hàng bảo vệ hiện trường nhưng không hiểu sao không được. Hoặc là anh ta không muốn hiểu. Tới lúc bọn em trở lại, nhân viên đã dọn sạch bàn đó và lau sàn nhà.”

“Còn ao nước thì sao? Nơi chúng ta tìm ra gã ấy.”

“Bọn em tìm thấy một số thứ ở đó,” Sachs nói. “Gã lại làm bọn em mờ mắt với đèn chớp rồi đốt pháo ném. Lúc đầu bọn em còn nghĩ đấy là tiếng súng.”

Cooper nhìn qua những gì sót lại sau khi cháy. “Giống như những thứ khác. Không thể truy được nguồn gốc.”

“Được rồi,” Rhyme thở dài. “Còn gì nữa không?”

“Dây xích. Hai sợi dài.”

Gã đã cột những sợi này quanh ngực, cánh tay và mắt cá của Cheryl Marston rồi dùng móc khóa gắn chúng lại, giống như xích chó. Cooper và Rhyme kiểm tra kỹ lưỡng tất cả những món đồ đó. Không có dấu của nhà sản xuất trên bất kỳ thứ nào. Câu chuyện tương tự với sợi thừng và cuộn băng dính mà gã dùng để bịt miệng nạn nhân.

Chiếc túi tập thể dục của kẻ giết người thu được từ chiếc xe, có lẽ là để đựng dây xích và dây thừng, không có thương hiệu và được sản xuất ở Trung Quốc. Nếu có đủ nhân lực, đôi khi vẫn có thể tìm ra nguồn gốc của những món đồ thông dụng thế này bằng cách lần qua các cửa hàng giảm giá và người bán dạo trên đường phố. Nhưng với một chiếc túi rẻ tiền, được sản xuất hàng loạt, một cuộc tầm soát ở quy mô đó là không thể.

Cooper lật úp chiếc túi trên khay kiểm tra bằng sứ và liên tục đập vào đáy túi để xem có thứ gì bên trong không. Một chút bột trắng rơi ra ngoài. Tay kỹ thuật viên tiến hành kiểm tra ma túy nhưng thứ chất đó hóa ra là flunitrazepam.

“Loại thuốc mê dùng để hiếp dâm,” Sachs nói với Kara.

Cũng có những viên thuốc nhỏ với chất liệu trong mờ dinh dính bên trong. Nhìn nó giống thứ chất dính trên khóa kéo và tay nắm. “Tôi không nhận ra nó,” Cooper nói.

Nhưng Kara xem qua, ngửi chất đó và nói, “Sáp dính của dân ảo thuật. Chúng tôi sử dụng thứ này để gắn tạm thời mọi thứ lại với nhau trên sân khấu. Có thể gã đã dính một viên con nhộng chứa thuốc mở sẵn trong lòng bàn tay. Khi với tay lấy đồ uống hay cà phê, gã bỏ nó vào.”

“Nguồn sáp này là từ đâu?” Rhyme sốt ruột hỏi. “Để tôi đoán nhé – cửa hàng ảo thuật nào ngoài kia cũng có đúng không?”

Kara gật đầu. “Rất tiếc.”

Trong chiếc túi, Cooper còn tìm thấy một ít dăm bào kim loại và một vết tròn màu đen – như thể là những gì còn lại từ đáy của một hộp sơn nhỏ.

Kiểm tra qua kính hiển vi cho thấy kim loại đó có lẽ là đồng và có những mô thức cơ khí riêng biệt. Nhưng Lincoln Rhyme không thể suy ra được đó là gì. “Hãy gửi một số hình ảnh cho bạn bè của chúng ta ở Cục.” Cooper chụp ảnh, nén chúng lại và gửi qua thư điện tử mã hóa tới Washington.

Những vết màu đen hóa ra không phải là sơn mà là mực không tẩy được. Nhưng bộ dữ liệu không xác định được cụ thể nó là loại gì; không có dấu hiệu nào để khu biệt nó.

“Cái gì đó?” Rhyme hỏi, nhìn về phía chiếc túi nhựa có chứa một ít vải màu xanh hải quân.

“Chúng ta gặp may ở đấy,” Sachs nói. “Đó là chiếc áo gió gã mặc khi đón cô Marston. Gã không có cơ hội cởi ra khi bị bắt gặp.”

“Có chỉ rõ xuất xứ không?” Rhyme hỏi, hy vọng rằng có thể có chữ viết tắt hay dấu hiệu của tiệm giặt ủi bên trong.

Sau một hồi kiểm tra bộ quần áo, Cooper nói, “Không. Và tất cả mác đã bị gỡ ra.”

“Nhưng,” Sachs nói, “bọn em tìm thấy vài thứ trong túi.”

Món đồ đầu tiên họ kiểm tra là tấm thẻ báo chí của một kênh truyền hình cáp lớn. Phóng viên của CTN tên là Stanley Saferstein và bức hình trên tấm thẻ là một người đàn ông gầy gò, tóc nâu có râu. Sellitto gọi cho kênh truyền hình và nói chuyện với trưởng bộ phận an ninh. Hóa ra Saferstein là một trong các phóng viên cấp cao từng làm việc ở phòng tin tức thành phố nhiều năm. Thẻ của anh ta bị ăn cắp tuần trước – bị lấy trộm trong hoặc sau một buổi họp báo ở trung tâm thành phố. Người phóng viên không hề phát hiện ra bởi tên kẻ cắp đã cắt dây buộc và lấy mất tấm thẻ.

Gã phù thủy đã ăn trộm thẻ của Saferstein, Rhyme nghĩ, vì tay phóng viên có vẻ giống gã: ngoài năm mươi, mặt gọn ghẽ và tóc tối màu.

Tấm thẻ bị đánh cắp đã bị hủy hiệu lực, người trưởng bộ phận an ninh giải thích, “nhưng kẻ đó vẫn có thể huơ nó thật nhanh để đi qua một điểm kiểm soát. Bảo vệ và cảnh sát không kiểm tra quá kỹ nếu họ nhìn thấy logo của chúng tôi.”

Sau khi họ gác máy, Rhyme nói với Cooper, “Hãy tìm kiếm ‘Saferstein’ trên VICAP59 và NCIC.”

59 VICAP (viết tắt của từ “Violent Criminal Apprehension Program”) là Chương trình Nhận thức Tội phạm Bạo lực, một đơn vị của Cục Điều tra Liên bang Mỹ chịu trách nhiệm phân tích các tội phạm bạo lực và tình dục, có tổ chức.

“Được thôi. Nhưng tại sao?”

“Chỉ vì phải làm thôi,” Rhyme trả lời.

Anh không ngạc nhiên khi kết quả trả về là không tìm thấy gì. Anh thực ra đã nghĩ rằng người phóng viên không có liên hệ gì với Gã phù thủy, nhưng với thủ phạm cụ thể này, Rhyme không thể bỏ sót điều gì.

Trong chiếc áo khoác còn có một chiếc thẻ khách sạn bằng nhựa màu xám. Rhyme rất mừng với phát hiện này. Mặc dù không có tên khách sạn trên đó – chỉ là một hình chiếc chìa khóa và mũi tên chỉ cho vị khách đâu là đầu để nhét thẻ vào ổ – anh cho rằng nó sẽ có mã trên vạch từ và có thể cho họ biết nó thuộc về khách sạn và căn phòng nào.

Cooper tìm thấy tên nhà sản xuất in bằng chữ nhỏ đằng sau tấm thẻ: APC INC., AKRON, OHIO. Anh tìm công ty đó từ một bộ dữ liệu các thương hiệu, nó là từ viết tắt của American Plastic Cards, một công ty sản xuất hàng trăm loại thẻ nhận dạng và thẻ chìa khóa khác nhau.

Vài phút sau, nhóm đã nói chuyện qua điện thoại bật loa ngoài với chính tổng giám đốc APC – Rhyme tưởng tượng là một vị CEO mặc áo xắn tay, sẵn sàng làm việc vào thứ Bảy hay không ngại nhấc chính điện thoại của mình lên. Rhyme giải thích tình hình với anh ta, mô tả chiếc chìa khóa và hỏi có bao nhiêu khách sạn ở khu vực trung tâm thành phố New York mà công ty đã cung cấp loại thẻ này.

“A, đó là mẫu APC-42. Nó là mẫu phổ biến nhất của chúng tôi.

Chúng tôi sản xuất nó cho các hệ thống khóa lớn. Ilco, Saflok, Tesa, Ving, Sargent, tất cả những nơi khác.”

“Có đề xuất nào để thu hẹp khách sạn sử dụng nó không?” “Tôi sợ rằng các anh sẽ phải gọi cho các khách sạn để xem nơi nào dùng thẻ APC-42 màu xám. Chúng tôi để thông tin đó ở đâu đây, nhưng tôi cũng không biết tự mình đào xới thông tin đó thế nào. Tôi sẽ cố gắng và liên hệ với giám đốc bán hàng của tôi hay trợ lý của anh ấy. Nhưng có thể mất một hoặc hai ngày.”

“Chà,” Sellitto nói.

Phải, chà.

Sau khi họ gác máy, Rhyme quyết định anh không hài lòng với việc đợi APC nên anh yêu cầu Sellitto gửi chiếc chìa khóa cho Bedding và Saul với hướng dẫn đi dò tìm các khách sạn ở Manhattan để xem nơi nào sử dụng mẫu APC-42 chó chết phổ biến đó. Anh cũng ra lệnh lấy vân tay với cả tấm thẻ báo chí và chiếc thẻ chìa khóa – nhưng kết quả cũng là không có gì. Chúng chỉ cho thấy vết nhòe và hai dấu tay giả.

Roland Bell trở lại từ hiện trường bên West Side và Cooper báo nhanh với anh những gì nhóm đã biết được cho tới giờ. Sau đó họ trở lại với bằng chứng và phát hiện ra chiếc áo mà Gã phù thủy bỏ lại còn có một thứ khác: hóa đơn nhà hàng ở một nơi tên là Riverside Inn ở Bedford Junction, New York. Hóa đơn này cho thấy bốn người đã ăn trưa ở bàn số mười hai vào ngày thứ Bảy, 6 tháng Tư – là cách đây hai tuần. Bữa ăn bao gồm món gà tây, bánh thịt xay, một phần bít-tết và một món đặc biệt của quán trong ngày. Không ai uống đồ uống có cồn. Tất cả đều uống nước giải khát.

Sachs lắc đầu. “Bedford Junction là chỗ quái nào chứ?”

“Rất xa ở vùng thượng bang, tôi nghĩ vậy,” Mel Cooper nói.

“Có số điện thoại trên hóa đơn,” Bell lầm bầm. “Gọi cho họ xem. Hỏi Debby hay Tanya hay bất kỳ cô bồi bàn hấp dẫn nào ở đó xem có nhóm bốn người khách quen nào hay ngồi” – anh liếc tờ hóa đơn – “ở bàn số mười hai. Hay ít ra là xem cô ta có nhớ ai đã gọi những món này không. Khó đấy, nhưng ai mà biết được?”

“Số bao nhiêu?” Sellitto hỏi.

Bell đọc số.

Khả năng thấp – quá thấp, Rhyme nghĩ. Người quản lý và bồi bàn ở đó có thể không hay biết những người đấy là ai vào ngày thứ Bảy đó.

“Đó là một nơi ‘đông đúc,’” Sellitto báo lại, đảo mắt. “Trích dẫn thế.”

“Tôi không thích chuyện này,” Sachs nói.

“Sao cơ?”

“Gã làm gì mà ăn trưa với ba người khác?”

“Có lý,” Bell nói. “Cô nghĩ là gã hợp tác với người khác hả?” Sellitto đáp, “Không, tôi nghi ngờ chuyện này. Những kẻ phạm tội theo mô thức thế này gần như luôn đơn độc.”

Kara không đồng ý. “Tôi không chắc. Các nghệ sĩ ở trung tâm thành phố, các ảo thuật gia ở phòng trà – họ làm việc đơn độc. Nhưng gã là một người tạo ảo giác, nhớ chứ? Họ luôn hợp tác với người khác. Ta có những tình nguyện viên từ khán giả. Rồi các trợ lý trên sân khấu mà khán giả biết là họ hợp tác với người trình diễn. Và rồi cả những trợ lý ngầm nữa. Đó là những người làm việc cho nhà ảo thuật mà khán giả không biết. Họ có thể cải trang thành nhân viên dựng cảnh, khán giả, tình nguyện viên. Trong một màn diễn hay, ta không bao giờ thực sự chắc chắn ai là ai.”

Chúa ơi, Rhyme nghĩ, một thủ phạm thế này đã tệ lắm rồi, với những kỹ năng của gã như thay đồ nhanh, trốn thoát và tạo ảo giác. Hợp tác với những trợ lý sẽ khiến gã còn nguy hiểm hơn một trăm lần.

“Ghi lại đi, Thom,” anh quát. Rồi: “Hãy xem xem em tìm được gì trong con hẻm – nơi Burke đã bắt được gã.”

Món đầu tiên là còng tay của viên cảnh sát.

“Gã thoát khỏi nó chỉ trong vài giây. Gã hẳn phải có chìa khóa,” Sachs nói. Trong sự thất vọng của các cảnh sát khắp cả nước, hầu hết còng tay có thể mở được bằng chìa khóa thông thường, có bán sẵn ở những cửa hiệu cung cấp đồ cho dân thực thi pháp luật với giá chỉ vài đô-la.

Rhyme lăn xe lại bàn kiểm tra và nghiên cứu kỹ lưỡng. “Quay nó lại… Giơ nó lên… Gã có thể đã sử dụng chìa khóa, không sai, nhưng tôi thấy có những vết cào còn mới trong lỗ khóa. Tôi sẽ nói là khóa đã bị phá…”

“Nhưng Burke hẳn đã lục soát gã chứ,” Sachs chỉ ra. “Gã tìm được cái phá khóa ở đâu?”

Kara nói, “Có thể giấu ở bất kỳ đâu. Trong tóc, trong miệng.”

“Miệng sao?” Rhyme nói. “Cho chiếc còng tay lên ALS đi, Mel.”

Cooper đeo kính mắt vào và chiếu một nguồn sáng khác lên chiếc còng tay. “Phải, chúng ta có những vết rạch và chấm li ti xung quanh lỗ khóa.” Rhyme giải thích với Kara điều đó có nghĩa là có chất lỏng từ cơ thể, nhiều khả năng nhất là nước bọt.

“Houdini làm chuyện này suốt. Đôi khi ông để một người trong khán giả kiểm tra miệng. Rồi ngay trước khi ông thực hiện màn trốn thoát, vợ ông hôn ông – ông nói là để lấy may, nhưng bà ấy thực ra đã chuyển một chiếc chìa khóa từ miệng bà ấy vào miệng ông.”

“Nhưng gã đã bị còng tay ở sau lưng,” Sellitto nói. “Làm sao gã với tay tới miệng được?”

“Ồ,” Kara nói và cười lớn. “Mọi nghệ sĩ thoát hiểm có thể đưa còng tay ra phía trước cơ thể chỉ trong ba tới bốn giây.”

Cooper xét nghiệm dấu vết nước bọt. Một số người tiết ra những kháng thể trong mọi loại chất lỏng cơ thể, điều giúp các điều tra viên xác định được nhóm máu. Nhưng hóa ra Gã phù thủy không phải là một người như thế.

Sachs cũng tìm thấy một mẩu kim loại nhỏ có mép răng cưa.

“Phải, cũng là của gã,” Kara nói. “Một thiết bị khác của nghệ sĩ thoát hiểm. Một lưỡi dao cạo. Có lẽ gã dùng nó để cắt sợi dây nhựa trói mắt cá.”

“Món đó không lẽ cũng ở trong miệng gã? Chẳng phải là quá nguy hiểm sao?”

“Ồ, rất nhiều người trong chúng tôi giấu kim và dao cạo trong miệng khi biểu diễn. Nếu tập luyện kỹ thì chuyện đó khá là an toàn.”

Kiểm tra những mẩu dấu vết cuối cùng từ hiện trường trong hẻm, họ tìm được thêm một chút cao su và các dấu vết đồ trang điểm, giống những gì họ đã thấy trước đó. Thêm cả dầu Tack-Pure.

“Ở bờ sông, Sachs, khi gã ngã xuống? Em tìm thấy gì?”

“Chỉ có vết bánh xe trượt trên bùn.” Cô đính lên những tấm hình kỹ thuật số mà Cooper vừa in ra từ máy tính của anh. “Một số công dân tích cực đã giúp làm hỏng hiện trường,” cô giải thích. “Nhưng em đã bỏ ra nửa tiếng đồng hồ đi qua đám bùn. Em khá chắc là gã không để lại bằng chứng nào hay thoát ra ngoài.”

Sellitto hỏi Bell, “Còn nạn nhân thì sao? Cô Marston đấy? Cô ấy nói gì chưa?”

Tay thanh tra người Tarheel mô tả ngắn gọn cuộc thẩm vấn của anh với nạn nhân.

Một luật sư ư, Rhyme nghĩ. Tại sao lại chọn cô ấy? Mô thức của Gã phù thủy với các nạn nhân là gì? Nhạc công, nghệ sĩ trang điểm và luật sư.

Bell bổ sung, “Cô ấy đã ly dị. Chồng đã đi California. Không phải là vụ ly dị thân thiện nhất, nhưng tôi không nghĩ là anh ta có liên quan. Tôi đã yêu cầu LAPD60 thực hiện vài cuộc gọi và anh ta đã được xác nhận hôm nay. Không có hồ sơ gì trên NCIC hay VICAP về anh ta.”

60 LAPD: Viết tắt của “Los Angeles Police Department,” Sở Cảnh sát thành phố Los Angeles.

Cheryl Marston đã mô tả Gã phù thủy là người mảnh khảnh, mạnh mẽ, có râu, có sẹo ở cổ và ngực. “À, và cô ấy xác nhận rằng ngón tay của gã dị dạng, đúng như chúng ta nghĩ. Dính lại với nhau, cô ấy nói như vậy. Gã không nói gì về khu mình sống và chọn tên giả là ‘John.’ Một gã thông minh cho quý vị đây.”

Vô ích, Rhyme nghĩ.

Rồi Bell giải thích gã đã chặn cô ấy lại thế nào và chuyện gì xảy ra sau đó. Rhyme hỏi Kara, “Nghe có gì quen thuộc không?”

“Gã có thể thôi miên một con bồ câu hay hải âu, ném nó vào con ngựa và rồi sử dụng nó như một mẹo để kích động con ngựa.”

“Mẹo đó như thế nào?” Rhyme hỏi. “Cô có biết nhà sản xuất nào không?”

“Không, thứ đó có lẽ là làm tại nhà. Các ảo thuật gia sử dụng các điện cực hoặc gậy chọc để làm sư tử gầm lên một cách có chủ ý, hoặc những thứ kiểu như thế. Nhưng hiện giờ giới hoạt động vì quyền của động vật sẽ không bao giờ để yên cho anh làm thế.”

Bell nói tiếp, mô tả những gì đã xảy ra khi Marston và Gã phù thủy đi uống cà phê với nhau.

“Có một điều cô ấy nói khá lạ: có cảm giác như gã có thể đọc được tâm trí cô ấy.” Bell mô tả những gì Marston đã kể với anh về việc Gã phù thủy biết nhiều về cô ấy như thế nào.

“Đọc cơ thể,” Kara nói. “Gã nói điều gì đấy rồi quan sát kỹ cô ấy, kiểm tra phản ứng của cô ấy. Điều đó sẽ nói cho gã biết rất nhiều thứ. Tìm hiểu một người như thế được gọi là ‘bán thuốc cho họ.’ Một kẻ thao túng tâm lý thật sự giỏi có thể tìm ra đủ thứ chỉ qua một cuộc nói chuyện vô hại với anh.”

“Thế là khi cô ấy đã thoải mái với gã, gã bỏ thuốc và đưa cô ấy tới ao nước. Dìm ngược cô ấy vào trong đó.”

“Đó là một biến thể của tiết mục Ngục nước,” Kara giải thích. “Houdini. Một trong những tiết mục nổi tiếng nhất của ông ấy.”

“Còn việc gã trốn thoát ở ao nước thì như thế nào?” Rhyme hỏi Sachs.

“Lúc đầu em không chắc đó là gã – gã đã thay đồ nhanh,” cô nói. “Quần áo của gã khác và” – cô liếc nhìn Kara – “lông mày cũng khác. Em không thể nhìn thấy tay gã để xem các ngón tay. Nhưng gã làm em phân tâm bằng cách sử dụng thuật nói bụng. Em đã nhìn thẳng vào mặt gã nhưng không hề thấy môi gã động đậy.”

Kara nói, “Tôi cá là gã dùng những từ không có các phụ âm b hay m hay p. Có lẽ không có cả các phụ âm f hay v nữa.”

“Cô có lý. Tôi nhớ hình như là, ‘Này, nhìn bên phải cô kìa, gã mặc bồ độ chạy bộ có một khẩu súng61.’ Giọng kiểu người da đen hoàn hảo.” Cô nhăn mặt. “Tôi quay mặt đi – về cùng hướng gã nhìn, như mọi người khác. Rồi gã bật đèn chớp lên và tôi không nhìn thấy gì nữa cả. Gã bắn quả pháo ném mà tôi tưởng là gã nổ súng. Gã đã khiến tôi bất ngờ.”

61 Nguyên văn: “Yo, look out, on your right, that guy in the jogging suit’s got a gun.”

Rhyme nhìn thấy sự ghê tởm trên khuôn mặt cô. Amelia Sachs đã nén lại cơn giận kinh khủng nhất cho riêng cô.

Tuy nhiên, Kara nói, “Đừng quá làm khó mình. Thính giác là giác quan dễ bị đánh lừa nhất. Chúng tôi không dùng các trò ảo giác âm thanh nhiều trong những buổi trình diễn. Nó bị coi là rẻ tiền.”

Sachs nhún vai trước lời an ủi đó và nói tiếp, “Trong lúc Roland và tôi vẫn chưa thấy lại vì đèn chớp, gã trốn thoát và biến mất, lẩn vào trong hội chợ đồ thủ công.” Cô nhăn mặt nữa. “Và rồi tôi thấy gã mười lăm phút sau đó – kẻ đi mô-tô, mặc một chiếc áo phông Harley. Ý tôi là, Chúa ơi, gã đã ở đó, ngay trước mặt tôi.”

“Trời,” Kara nói và lắc đầu, “những đồng xu của gã chắc chắn là không lên tiếng.”

“Gì cơ?” Rhyme hỏi. “Đồng xu à?”

“À, đó là một câu giới ảo thuật vẫn dùng. Theo nghĩa đen thì nó có nghĩa là không nghe được tiếng lanh canh khi anh làm trò với đồng xu, nhưng chúng tôi sử dụng cụm đó để chỉ chung khi nói ai đó thực sự giỏi. Chúng tôi sẽ gọi là anh ta ‘làm trò khá.’”

Đi về phía tấm bảng trắng, chỗ dành riêng cho hồ sơ của ảo thuật gia, cô cầm bút dạ lên và vừa thêm vào đó vừa bình luận, “Vậy là, gã biết quan sát và thao túng tâm lý và thậm chí là nói bụng. Và làm trò với động vật. Chúng ta đã biết gã có thể phá khóa – từ vụ sát nhân thứ hai – nhưng giờ chúng ta còn biết gã là một nghệ sĩ thoát hiểm nữa. Có loại ảo thuật nào mà gã không biết không?”

Vào lúc Rhyme ngả đầu về phía sau, theo dõi cô viết, Thom mang một phong bì lớn vào phòng.

Anh đưa nó cho Bell. “Gửi anh.”

“Cái gì vậy?” Viên thanh tra người Tarheel hỏi, lôi những tài liệu bên trong ra và đọc. Anh chậm rãi gật đầu khi đọc. “Đây là báo cáo về vụ lục soát tiếp theo ở văn phòng của Grady. Việc mà anh yêu cầu Peretti tiến hành. Anh có muốn xem qua không, Lincoln?”

Ghi chú cụt lủn trên mặt phong bì: LR – Theo yêu cầu – VP.

Rhyme đọc qua các chi tiết trong báo cáo, Thom lật nhanh các trang cho anh theo từng cái gật đầu cương quyết của Rhyme. Những kỹ thuật viên hiện trường vụ án đã hoàn tất cuộc lục soát toàn diện văn phòng của người thư ký và đã xác định cũng như vẽ bản đồ tất cả các dấu chân trong phòng, chính xác như Rhyme yêu cầu. Anh đọc kỹ điều đó vài lần, nhắm mắt lại và mường tượng ra hiện trường.

Rồi anh quay lại với phân tích hoàn chỉnh về những sợi đã được tìm thấy. Hầu hết các sợi trắng là một sự pha trộn của polyester/tơ nhân tạo. Một số sợi đính vào một sợi bông dày – cũng màu trắng. Phần lớn đã mờ và bẩn thỉu. Những sợi màu đen là len.

“Mel, chúng ta biết gì về những sợi màu đen ở đó?”

Tay kỹ thuật viên trượt chiếc ghế của anh lại và kiểm tra hình ảnh. “Xác định trên ảnh chụp không phải là lý tưởng nhất,” anh ta nói. Lát sau anh ta kết luận, “Từ vải chéo, sợi dệt chặt.”

“Vải gabardine à?” Rhyme hỏi.

“Không thể nói chắc được nếu không có mẫu lớn hơn để xem các đường chéo. Nhưng tôi sẽ nói là gabardine.”

Rhyme đọc tiếp và biết rằng sợi màu đỏ duy nhất được tìm thấy ở văn phòng là vải xa-tanh. “Được, được,” anh nói, nhắm mắt lại và nghiền ngẫm mọi thứ vừa đọc.

Rhyme hỏi Cooper, “Anh biết gì về vải sợi và quần áo, Mel?”

“Không nhiều. Nhưng tôi xin được trích dẫn câu của anh, Lincoln, câu hỏi quan trọng không phải là ‘Ta biết gì về một thứ gì đó?’ Mà là ‘Ta có biết phải tìm nó ở đâu không?’ Và câu trả lời cho câu hỏi là có, tôi có biết.” 

GÃ PHÙ THỦY

Hiện trường tội ác trường Âm nhạc

• Mô tả nghi phạm: Tóc nâu, râu giả, không có gì nổi bật, tầm vóc trung bình, chiều cao trung bình, tuổi: ngoài năm mươi. Ngón đeo nhẫn và ngón út dính lại với nhau. Thay đồ nhanh để giống một người gác cổng lớn tuổi, hói đầu.

• Không có động cơ rõ ràng.

• Nạn nhân: Svetlana Rasnikov.

• Sinh viên âm nhạc toàn thời gian.

• Kiểm tra gia đình, bạn bè, các sinh viên, đồng nghiệp để có thêm đầu mối khả dĩ.

• Không có bạn trai, không có kẻ thù. Trình diễn ở tiệc sinh nhật cho trẻ em.

• Bảng mạch điện tử có gắn loa.

• Đã gửi cho phòng thí nghiệm của FBI, thành phố New York.

• Máy ghi âm kỹ thuật số, có thể chứa giọng nói của nghi phạm. Mọi dữ liệu đã bị hủy.

• Đoạn ghi âm là một “mánh.” Tự làm.

• Sử dụng còng tay sắt kiểu cũ để còng nạn nhân.

• Còng tay là loại Darby. Scotland Yard. Kiểm tra với Bảo tàng Houdini ở New Orleans để có thêm đầu mối.

• Phá hủy đồng hồ của nạn nhân vào đúng 8 giờ sáng.

• Dây vải giữ ghế. Loại thường. Quá nhiều nguồn cung cấp.

• Dây dẫn cháy. Loại phổ biến. Quá nhiều nguồn cung cấp.

• Pháo tạo hiệu ứng tiếng súng. Đã bị hủy. Quá nhiều nguồn cung cấp.

• Cảnh sát hiện trường cho biết có đèn nháy trong không trung. Không tìm thấy vật liệu liên quan.

• Là vải chớp sáng hoặc giấy chớp sáng.

• Quá nhiều nguồn cung cấp.

• Giày của nghi phạm: hiệu Ecco cỡ 10.

• Sợi tơ, nhuộm màu xám, đã xử lý để trở nên mờ xỉn.

• Từ bộ đồ người gác cổng thay nhanh.

• Đối tượng có thể đội tóc giả màu nâu.

• Gỗ hồ đào đỏ và địa y Parmelia, đều được tìm thấy chủ yếu ở công viên Trung Tâm.

• Bụi có dính dầu khoáng khác thường. Đã gửi cho FBI để phân tích.

• Dầu Tack-Pure dùng cho yên cương và da.

• Mảnh lụa đen, khoảng 1,8 x 1,2 mét. Được dùng làm vật ngụy trang. Không thể truy nguồn gốc.

• Các ảo thuật gia thường xuyên sử dụng.

• Đeo bọc ngón tay của ảo thuật gia để giấu vân tay.

• Dấu vết cao su, dầu thầu dầu, mỹ phẩm.

• Đồ hóa trang cho sân khấu.

• Dấu vết alginate.

• Sử dụng trong các “thiết bị” tạo khuôn cao su.

• Vũ khí giết người: dây thừng lụa trắng với lõi là lụa đen.

• Sợi thừng là một trò ảo thuật. Màu sắc thay đổi. Không truy được nguồn gốc.

• Nút thắt khác thường.

• Đã được gửi cho FBI và Bảo tàng Hàng hải – không có thông tin gì.

• Các nút thắt giống như trong những màn trình diễn của Houdini, gần như không thể cởi ra.

• Dùng mực vô hình trong sổ đăng ký.

Hiện trường tội ác ở East Village

• Nạn nhân thứ hai: Tony Calvert.

• Nghệ sĩ trang điểm, đoàn kịch.

• Không có kẻ thù.

• Có vẻ không có liên hệ gì với nạn nhân thứ nhất.

• Không có động cơ rõ ràng.

• Nguyên nhân tử vong:

• Vết thương do vật cùn đập vào đầu, sau đó cơ thể bị cắt ra khi đã chết bằng cưa tay.

• Hung thủ trốn thoát giả làm một phụ nữ ngoài bảy mươi. Kiểm tra khu vực lân cận xem có đồ hóa trang bị bỏ đi và các bằng chứng khác không.

• Không tìm thấy gì.

• Đồng hồ bị đập chính xác lúc 12 giờ.

• Có thể là mô thức không? Nạn nhân tiếp theo có thể bị hại vào 4 giờ chiều.

• Hung thủ trốn đằng sau tấm gương. Không thể truy nguồn gốc. Vân tay đã được gửi cho FBI.

• Không có vân tay nào khớp.

• Sử dụng mèo đồ chơi (“feke”) để dụ nạn nhân vào con hẻm. Món đồ chơi không thể truy nguồn gốc.

• Tìm thấy thêm dầu khoáng, giống ở hiện trường thứ nhất. Đang đợi báo cáo của FBI.

• Dầu Tack-Pure cho yên cương và da.

• Tìm thấy thêm cao su và đồ trang điểm từ những miếng bịt ngón tay.

• Tìm thấy thêm alginate.

• Để lại giày Ecco.

• Tìm thấy lông chó trên giày, từ ba giống chó khác nhau. Cả phân nữa.

• Là phân ngựa, không phải phân chó.

Hiện trường tội ác sông Hudson và những khu vực liên quan

• Nạn nhân: Cheryl Marston.

• Luật sư.

• Ly dị nhưng chồng cũ không phải là nghi can.

• Không có động cơ.

• Nghi phạm nói tên là “John.” Có sẹo ở cổ và ngực. Bàn tay dị dạng được xác nhận.

• Nghi phạm thay đồ nhanh thành một doanh nhân không có râu, mặc quần tây và áo sơ-mi dài tay, rồi một tay đi mô-tô mặc áo phông Harley vải bò.

• Chiếc xe vẫn ở dưới sông Harlem. Nghi phạm có thể đã trốn thoát.

• Keo dán để bịt miệng. Không truy được nguồn gốc.

• Pháo giống như lần trước. Không truy được nguồn gốc.

• Dây xích và khóa, loại phổ biến, không truy được nguồn gốc.

• Dây thừng, loại phổ biến, không truy được nguồn gốc.

• Thêm đồ trang điểm, cao su và dầu Tack-Pure.

• Túi tập thể dục, sản xuất ở Trung Quốc, không truy được nguồn gốc. Bao gồm:

• Dấu vết của loại thuốc dùng trong những vụ hiếp dâm flunitrazepam.

• Sáp dính của ảo thuật gia, không truy được nguồn gốc.

• Dăm đồng (?). Đã gửi cho FBI.

• Mực không phai, màu đen.

• Tìm thấy áo gió màu xanh hải quân, không có chữ viết tắt hay ký hiệu của tiệm giặt ủi. Bao gồm:

• Thẻ phóng viên của kênh truyền hình cáp CTN, thẻ của Stanley Saferstein. (Anh ta không phải là nghi phạm – tìm kiếm trên NCIC, VICAP không cho ra kết quả.)

• Thẻ chìa khóa khách sạn bằng nhựa, American Plastic Cards, Akron, Ohio. Mẫu APC-42. không có dấu vân tay.

• CEO đang tìm hồ sơ bán hàng.

• Các cảnh sát Bedding và Saul đang lùng các khách sạn.

• Hóa đơn nhà hàng ở Riverside Inn, Bedford Junction, NY, cho thấy có bốn người ăn trưa, bàn 12, ngày thứ Bảy, hai tuần trước. Gà tây, bánh thịt xay, bít-tết, món đặc biệt trong ngày. Nước ngọt. Nhân viên nhà hàng không biết khách ăn là ai. (Đồng phạm?)

• Con hẻm nơi Gã phù thủy bị bắt.

• Phá khóa còng tay.

• Nước bọt (đồ phá khóa giấu trong miệng).

• Không xác định được nhóm máu.

• Dao cạo nhỏ để thoát khỏi dây trói (cũng được giấu trong miệng).

• Không biết cảnh sát Burke đang ở đâu.

• Hiện trường sông Harlem:

• Không có bằng chứng, trừ dấu trượt trên bùn.

Hồ sơ của ảo thuật gia

• Nghi phạm sẽ dùng việc đánh lạc hướng để đối phó với các nạn nhân và che mắt cảnh sát.

• Đánh lạc hướng về vật lý (để gây phân tâm).

• Đánh lạc hướng về tâm lý (để loại trừ sự nghi ngờ).

• Nghi phạm trốn thoát ở trường Âm nhạc bằng cách thức giống với tiết mục ảo thuật Người biến mất. Quá phổ thông để truy nguồn gốc.

• Nghi phạm về cơ bản là một ảo thuật gia.

• Có tài trong thể loại nhanh tay lẹ mắt.

• Cũng biết ảo thuật biến y (thay đồ nhanh). Sẽ sử dụng quần áo tách ra được, ni-lông và lụa, mũ hóa trang hói đầu, bọc ngón tay và các thiết bị cao su khác. Có thể ở bất kỳ độ tuổi, giới tính hay chủng tộc nào.

• Cái chết của Calvert mô phỏng màn trình diễn Cắt một phụ nữ làm đôi của Selbit.

• Giỏi mở khóa (có thể là mở khóa “hàng loạt”).

• Biết các kỹ thuật trốn thoát.

• Có kinh nghiệm ảo thuật với động vật.

• Sử dụng thuật thao túng tâm lý để có thông tin về nạn nhân.

• Sử dụng thuật nhanh tay lẹ mắt để bỏ thuốc cô ấy.

• Cố gắng giết nạn nhân thứ ba với màn trốn thoát của Houdini. Ngục nước.

• Biết thuật nói tiếng bụng.