K
hi chiếc Mazda lao thẳng về phía cô, Sachs chạy lên vỉa hè và cố gắng bắn ngang.
Nâng khẩu Glock lên, cô nhắm vào hình thù màu đen là đầu của Gã phù thủy, cách gã gần một mét. Nhưng ở phía bên kia gã là vài chục cửa sổ của các cửa hàng và căn hộ và nhiều người đang cúi thấp trên vỉa hè. Đơn giản là không có cách nào bắn an toàn dù chỉ một viên đạn.
Dàn đồng ca của cô không quan tâm chuyện đó.
“Ê em ơi, em để thằng chó đó thoát hả?”
“Em còn đợi gì nữa hả?”
Cô hạ khẩu súng xuống, vai thụp xuống khi nhìn chiếc Mazda lao thẳng vào chiếc Camaro.
Ôi, không phải là chiếc xe chứ… Không!
Nghĩ lại lúc cha cô mua cho cô chiếc xe cơ bắp57 đời 1969 này, một chiếc xe đã tã, và họ đã cùng nhau làm lại phần lớn động cơ và hệ thống giảm xóc, bổ sung một bộ truyền động mới, rồi tháo nóra, gia tăng mã lực lên cực mạnh. Chiếc xe này và tình yêu với nghề cảnh sát là những di sản căn bản của ông để lại cho con gái mình.
57 Xe cơ bắp là một thuật ngữ của Mỹ để chỉ những chiếc xe có hiệu suất cao, được trang bị động cơ lớn và mạnh.
Khi còn cách chiếc Camaro hơn chín mét, Gã phù thủy bẻ lái, ngoặt mạnh chiếc xe sang bên trái, nơi Sachs đang rạp người. Cô nhảy qua một bên và gã rẽ hướng kia, trở lại chiếc Chevy. Chiếc Mazda rít lên, cắt một đường chéo về phía vỉa hè. Ở một góc sượt qua, nó va vào cửa hành khách và cái chắn bùn bên phải chiếc Camaro, quay chiếc xe của cô thành một vòng tròn qua hai làn đường sang vỉa hè phía xa, nơi bốn đứa nhóc cuối cùng cũng hoạt bát lên và cuống cuồng bỏ chạy.
Sachs bước ra đường và quỳ xuống bê tông, thở dốc vì cơn đau ở những khớp xương bị viêm. Chiếc Camaro dừng lại cách cô một đoạn, phần đuôi bung ra, rơi xuống đất vì va vào chiếc thùng rác kim loại màu cam.
Chiếc Mazda lao lên vỉa hè rồi quay trở lại đường và rẽ phải, hướng về phía bắc. Sachs đứng lên nhưng không buồn nâng khẩu súng về hướng chiếc xe màu be; không thể bắn mà đảm bảo an toàn. Cô liếc nhìn chiếc Camaro. Bên hông nát bét, cả phía trước nữa, nhưng cái chắn bùn bung ra đã không găm vào lốp xe. Được, cô có lẽ vẫn bắt được gã. Cô nhảy vào trong xe và khởi động động cơ. Vào số một. Một tiếng rú. Đồng hồ đo vòng tua máy nhảy lên năm nghìn và cô đạp ga.
Nhưng chiếc xe không nhúc nhích được chút nào. Có chuyện gì vậy? Hệ thống lực đẩy hỏng chăng?
Cô liếc ra ngoài cửa sổ và thấy bánh sau xe – những bánh xe dẫn động – đã bị nâng lên khỏi mặt đất, bởi chiếc thùng rác. Cô thở dài đầy thất vọng, đập tay vào bánh lái. Mẹ kiếp! Cô nhìn chiếc Mazda cách đó ba khối nhà. Gã phù thủy không thoát được quá nhanh; cú va chạm đã gây ra vấn đề cho cả xe của gã nữa. Vẫn còn cơ hội tóm được gã.
Nhưng không phải là trên một chiếc xe đang mắc kẹt thế này.
Cô sẽ phải…
Chiếc Camaro bắt đầu lắc lư tới lui.
Cô nhìn vào gương chiếu hậu và thấy ba thằng nhóc ma cà bông đã cởi áo khoác ra và đang gắng hết sức đẩy chiếc xe khỏi thùng rác. Thằng nhóc thứ tư, lớn nhất bọn là chỉ huy, từ từ đi tới bên cửa sổ. Nó cúi xuống, một chiếc răng vàng sáng lóe lên trên khuôn mặt đen thui. “Này.”
Sachs gật đầu và nhìn vào mắt nó.
Nó nhìn lại đám bạn. “Này, mấy thằng mọi kia, đẩy mạnh lên coi! Tụi mày đang thủ dâm đấy hả?”
“Mẹ mày,” bọn kia hổn hển đáp.
Nó lại cúi xuống. “Này, em ơi, bọn anh sẽ hạ em xuống. Em tính bắn thằng chó đó bằng súng gì vậy?”
“Một khẩu Glock. Đạn bốn mươi.”
Nó liếc nhìn bao súng của cô. “Ngon. Cỡ C hả?”
“Không, cỡ lớn.”
“Súng tốt đấy. Anh có một khẩu Smittie.” Nó nhấc áo khoác ngoài lên, và với một sự thách thức xen lẫn tự hào, cho cô xem báng súng màu bạc của một khẩu tự động Smith & Wesson. “Nhưng anh sẽ kiếm một khẩu Glock như cưng.”
Cô nghĩ ngợi, vậy là một thằng nhóc vị thành niên có súng. Một trung sĩ sẽ xử lý tình huống này như thế nào?
Chiếc xe hơi được nhấc ra khỏi thùng rác, bánh sau đã sẵn sàng lăn.
Cô quyết định là dù cho một trung sĩ chuẩn mực sẽ nói hay làm gì đi nữa, thì điều đó cũng không quan trọng trong tình huống hiện giờ. Cách cô xử lý là gật đầu nghiêm trang với thằng nhóc. “Cảm ơn.” Rồi cô cảnh cáo, “Đừng bắn ai khiến tôi phải quay lại tìm cậu đấy. Rõ chưa?”
Thằng nhóc nhe răng cười để lộ chiếc răng vàng.
Rồi cô chuyển sang số một và những chiếc lốp xe bền bỉ đốt cháy mặt đường nhựa. Trong vài giây, Amelia Sachs đã tăng tốc lên thành 96 km/h.
“Nào, nào, nào,” cô thì thầm với bản thân, tập trung vào vệt màu nâu vàng mờ mờ ở đằng xa. Chiếc Chevy lắc lư như phát điên, nhưng vẫn chạy thẳng tới trước. Sachs chật vật đeo lại tai nghe bộ đàm Motorola. Cô gọi cho Trung tâm để báo về cuộc truy đuổi và hướng dẫn lại nhóm yểm trợ đi theo đường này.
Tăng tốc nhanh, thắng gấp… những con đường đông đúc của khu Harlem không phải là nơi thích hợp để rượt đuổi tốc độ cao. Dẫu vậy, Gã phù thủy cũng đang đi con đường giống cô – và gã không hẳn là một tay lái lụa. Cô dần thu hẹp khoảng cách. Rồi gã rẽ vào một sân trường học, trong đó lũ trẻ đang đấu bóng rổ nửa sân và ném những quả bóng mềm trong một sân bóng chày giả. Sân chơi không đông; cổng đóng có ống khóa móc và kẻ nào muốn vào trong thì hoặc phải ép người qua một lỗ chó chui như người uốn dẻo hoặc phải thử vượt qua hàng rào lưới mắt cáo cao hơn sáu mét.
Tuy nhiên, Gã phù thủy đơn giản là đạp ga và lao qua cổng. Lũ trẻ chạy tán loạn và gã suýt thì đâm vào mấy đứa khi gã lại tăng tốc để lao ra một cổng thứ hai ở phía xa.
Sachs lưỡng lự nhưng quyết định không đuổi theo – không phải trên một chiếc xe không ổn định thế này với lũ trẻ xung quanh. Cô tăng tốc đi vòng qua khối nhà, cầu trời là sẽ đuổi kịp gã ở phía bên kia, rồi phanh gấp ở góc đường và dừng lại.
Không một dấu vết nào của gã.
Cô không biết gã đã trốn thoát bằng cách nào. Gã biến mất khỏi tầm nhìn chỉ khoảng mười giây khi cô lái xe thật nhanh vòng qua sân chơi và trường học. Và lối thoát duy nhất là một đường cụt ngắn, kết thúc ở những bụi rậm và cây nhỏ dày đặc. Bên ngoài chỗ đó, cô có thể thấy đường vượt trên cao Harlem River, bên ngoài nữa chỉ là một bờ sông đầy bùn đất dơ dáy.
Vậy là gã đã thoát… Và tất cả những gì mình nhận được từ cuộc truy đuổi này là phải bỏ ra năm ngàn đô để sửa xe. Mẹ kiếp…
Rồi một giọng nói vang lên. “Tất cả các đơn vị ở gần đường Frederick Douglass và Một-Năm-Ba, cảnh báo tình huống Mười- Năm-Bốn.”
Đó là mã tai nạn xe hơi có khả năng có thương vong.
“Xe đã lao xuống sông Harlem. Nhắc lại, chúng ta có một chiếc xe dưới nước.”
Liệu có phải là gã không? Cô tự nhủ. “Hiện trường tội phạm Năm Tám Tám Năm. Đang theo mã Mười-Năm-Bốn. Có mô tả xe không? K.”
“Mazda hoặc Toyota. Đời mới. Màu be.”
“Rõ, Trung tâm, tin rằng đó là chiếc xe của nghi phạm trong cuộc rượt đuổi từ công viên Trung Tâm. Tôi đang theo mã Mười- Tám-Bốn ở hiện trường. Hết.”
“Rõ, Năm Tám Tám Năm. Hết.”
Sachs tăng tốc chiếc Camaro tới cuối con đường cụt và đậu xe lại bên vỉa hè. Cô vừa ra khỏi xe thì một chiếc xe cấp cứu và một xe tải của Đội Khẩn cấp tới và từ từ đi qua bụi rậm, vốn đã bị gạt ra vì chiếc Mazda tốc độ cao. Cô theo chân họ, cẩn thận bước qua đống lộn xộn. Khi đi qua khỏi đám cây, cô nhìn thấy một dãy lều bạt lụp xụp nhếch nhác. Hàng chục người vô gia cư, chủ yếu là đàn ông. Nơi này thật bẩn thỉu và đầy rác rưởi, những đồ gia dụng bỏ đi, những xác xe gỉ sét.
Rõ ràng là Gã phù thủy hy vọng tìm thấy lối đi ở phía bên kia bụi rậm nên đã lao nhanh qua chỗ này. Cô nhìn thấy dấu vết phanh gấp vì hoảng hốt khi gã trượt không kiểm soát qua lớp bùn trơn, đâm sập một căn lán, rồi lao khỏi cầu sông đã xập xệ và hạ cánh xuống sông.
Hai nhân viên Đội Khẩn cấp giúp những người dân sống trong căn lán ra khỏi đống đổ nát – họ không bị thương – trong khi những người khác tìm kiếm trên sông xem có dấu vết gì của gã tài xế hay không. Cô gọi bộ đàm cho Rhyme và Sellitto, báo với họ chuyện đã xảy ra và yêu cầu viên thanh tra gọi ưu tiên một xe phản ứng nhanh tới hiện trường vụ án.
“Họ có bắt được gã không, Amelia?” Sellitto hỏi. “Hãy nói với tôi là họ đã bắt được rồi đi.”
Nhìn vào vệt dầu và xăng trên mặt nước bập bềnh, cô nói, “Không thấy gì cả.”
Đi qua một nhà vệ sinh nghiêng ngả và một túi rác có mùi chín nẫu, Sachs tới gần vài người đàn ông đang nói chuyện bằng tiếng Tây Ban Nha với nhau đầy phấn khích. Họ cầm những chiếc cần câu cá; đây là một nơi nổi tiếng để dùng giun đất hay các loại mồi sống câu cá vược sọc, cá ngừ xanh và cá tuyết. Họ đang nhậu nhưng vẫn đủ tỉnh táo để kể lại mọi chuyện cho cô. Chiếc xe đã lao qua bụi cây rất nhanh và nhào thẳng xuống sông. Bọn họ đều thấy một người đàn ông ngồi trên ghế tài xế và chắc chắn là gã không nhảy ra ngoài.
Sachs trao đổi qua với Carlos và bạn anh ta, hai người vô gia cư sống gần căn lán giờ đã sập. Họ đều phê thuốc và bởi họ ở trong nhà khi chiếc Mazda lao xuống, họ không nhìn thấy gì có thể giúp ích. Carlos hiếu chiến và có vẻ cảm thấy thành phố nợ anh ta khoản tiền bồi thường thiệt hại. Hai nhân chứng kia, đang lục túi rác tìm những chai và lon đổi được tiền vào lúc xảy ra tai nạn, lặp lại câu chuyện của những người câu cá.
Thêm nhiều xe cảnh sát tới, cả những nhóm truyền hình chĩa máy quay về phía những gì còn lại của căn lán và chiếc xuồng cảnh sát, mà ở đuôi xuồng có hai thợ lặn mặc đồ người nhái đang nhào xuống nước.
Giờ việc phản ứng khẩn cấp đã chuyển sang phía dòng sông, hoạt động trên bờ là của Amelia Sachs. Cô không có nhiều thiết bị để xử lý hiện trường vụ án trong chiếc Camaro nhưng lại có rất nhiều băng dính vàng mà cô đã dùng để phong tỏa một khu vực lớn của bờ sông. Tới lúc cô làm xong, chiếc RRV đã tới. Đeo tai nghe lên, cô gọi cho Trung tâm và một lần nữa được kết nối với Rhyme.
“Bọn anh đang theo sát, Sachs. Các thợ lặn vẫn chưa tìm thấy gì sao?”
“Hình như vậy.”
“Gã có nhảy ra không?”
“Không, theo lời các nhân chứng. Em sẽ xử lý hiện trường bên bờ sông ở đây, Rhyme,” cô nói với anh. “Sẽ là may đấy.”
“May sao?”
“Chắc rồi. Em sẽ phải vất vả để xử lý hiện trường. Điều đó đồng nghĩa các thợ lặn sẽ biết chắc là cần tìm xác của gã và việc tìm kiếm sẽ là lãng phí thời gian.”
“Vẫn sẽ có việc cần làm và…”
“Đùa thôi, Rhyme.”
“À, phải, riêng tay hung thủ này không khiến anh muốn cười chút nào. Bắt đầu vào kiểm tra hiện trường đi.”
Cô mang một valy xử lý hiện trường tới chỗ rào phong tỏa và khi đang mở nó ra thì nghe một giọng nhấn nhá trọng âm gọi gấp, “Chúa ơi, chuyện gì đã xảy ra vậy? Mọi người ổn cả chứ?”
Đứng gần đoàn quay phim là một tay người Latinh đầu tóc chải chuốt, mặc quần bò và áo khoác thể thao đang chen qua đám đông. Anh ta liếc nhìn đầy cảnh giác về phía căn lán bị sập rồi bắt đầu chạy về phía đó.
“Này,” Sachs gọi. Anh ta không nghe cô.
Anh ta chui qua dải băng màu vàng và đi thẳng tới lán, dẫm lên những vết lốp xe Mazda và có lẽ đã xóa sạch mọi dấu vết mà Gã phù thủy có thể bỏ lại từ chiếc xe hay nếu gã ngã khỏi xe – có lẽ còn xóa cả một số dấu chân của kẻ giết người nếu gã đã trốn thoát, bất chấp những gì mấy tay câu cá tin là họ nhìn thấy.
Giờ gặp ai cũng nghi ngờ, cô kiểm tra bàn tay trái của anh ta và có thể thấy ngón đeo nhẫn và ngón út không dính lại với nhau. Nên anh ta không phải là Gã phù thủy, nhưng anh ta là ai chứ? Sachs tự nhủ. Và anh ta đang làm gì ở hiện trường tội phạm của cô?
Lúc này gã đang vạch tìm đống đổ nát của căn lán, lấy ra những miếng và thanh gỗ cùng kim loại gấp nếp, ném chúng qua vai.
“Này, anh kia!” Cô gọi. “Ra khỏi đây ngay!”
Anh ta hét lên qua vai, “Có thể vẫn còn người ở trong!”
Giờ đã nổi nóng, cô quát, “Đây là hiện trường tội phạm! Anh không thể ở đây được.”
“Có thể vẫn còn người ở trong!” Anh ta nhắc lại.
“Không, không, không. Mọi người đã ra hết rồi. Họ ổn. Này, anh có nghe tôi nói không?... Xin lỗi, anh này. Anh có đang nghe tôi nói không?”
Việc có nghe thấy hay không không quan trọng, nhất là với anh ta. Anh ta tiếp tục đào xới một cách quyết liệt. Mục đích của anh ta là gì? Người đàn ông đó ăn mặc đẹp và đeo một chiếc đồng hồ Rolex vàng; tay Carlos phê thuốc rõ ràng không phải là người thân của anh ta.
Tự nhắc lại câu cầu nguyện nổi tiếng của cảnh sát – Chúa ơi, xin ban cho chúng con những công dân có ý thức – cô ra hiệu cho hai cảnh sát tuần tra ở gần đó. “Lôi anh ta ra.”
Anh ta hét lên, “Chúng ta cần thêm bác sĩ! Có thể có trẻ em ở bên trong.”
Sachs chứng kiến trong kinh hoàng dấu chân của các cảnh sát làm rối thêm hiện trường tội ác của cô. Họ chụp lấy cánh tay của kẻ xâm nhập và lôi anh ta đi. Anh ta vùng tay khỏi các cảnh sát, kiêu ngạo nói tên mình với Sachs như thể anh ta là một ông trùm mafia mà mọi người đều phải biết đến và bắt đầu lên lớp cô về sự đối xử đáng hổ thẹn của cảnh sát với những dân Latinh bị ngó lơ ở đây.
“Này cô kia, cô có biết…”
“Còng tay anh ta lại,” cô nói. “Rồi tống cổ anh ta ra khỏi đây.” Cô quyết định rằng phần về quan hệ với cộng đồng trong sổ tay khẩu hiệu của trung sĩ sẽ phải nhường chỗ cho việc điều tra tội phạm trong vụ này.
Hai viên cảnh sát còng tay người đàn ông mặt đỏ bừng bừng và anh ta bị dẫn đi khỏi hiện trường, nổi đóa lên và chửi thề. “Muốn tôi nhốt anh ta lại không?” Một viên cảnh sát hỏi.
“Không, chỉ để anh ta bình tĩnh lại một chút,” cô hét lên, khiến một số người đang đứng nhìn ở đó cười lớn. Cô dõi theo anh ta bị đẩy vào ghế sau của chiếc xe tuần tra, lại thêm một trở ngại nữa trong cuộc tìm kiếm có vẻ là bất khả kẻ sát nhân đang lẩn trốn.
Sachs sau đó mặc bộ đồ Tyvek và trang bị máy ảnh, túi gom bằng chứng, cùng với băng cao su quấn vào chân. Cô lội xuống hiện trường, bắt đầu với những gì còn lại của căn biệt điện vừa bị phá hủy của Carlos. Cô làm từ tốn và tìm kiếm tỉ mỉ. Sau cuộc rượt đuổi khổ ải kéo dài cả ngày, Amelia Sachs chấp nhận rằng mọi thứ giống như vẻ bề ngoài của nó. Đúng là Gã phù thủy có thể đang bập bềnh hơn mười hai mét dưới mặt nước xám nâu kia. Nhưng gã cũng có thể dễ dàng bò lên bờ sông gần đó một cách an toàn.
Cô thậm chí sẽ không ngạc nhiên nếu phát hiện ra gã đã trốn thoát từ cách đó nhiều dặm rồi, mặc quần áo ngụy trang mới và đang lần theo nạn nhân tiếp theo.
***
Mục sư Ralph Swensen đã tới thành phố được vài ngày – đây là lần đầu tiên ông tới New York – và ông đã quyết định là không bao giờ quen được với nơi này.
Người đàn ông gầy gò, đã hói ít nhiều, hơi bẽn lẽn, đã chăm lo cho những linh hồn ở một thị trấn nhỏ hơn hàng nghìn lần và lạc hậu hơn hàng chục năm so với Manhattan.
Ở quê nhà, khi ông nhìn qua cửa sổ nhà thờ và thấy hàng mẫu đất trải dài và những con vật hiền lành nhẩn nha gặm cỏ. Còn ở đây, khi ông nhìn ra ngoài cửa sổ có chấn song của căn phòng khách sạn rẻ tiền gần khu Chinatown thì chỉ thấy một bức tường gạch với vệt sơn màu xám, trên đó vẽ một hình ảnh tục tĩu.
Ở quê nhà, khi ông đi bộ trên con đường thị trấn, mọi người sẽ nói, “Xin chào, ông mục sư,” hay “Lễ hay lắm, Ralph,” còn ở đây họ sẽ nói, “Cho xin một đô đi,” hay “Tôi bị AIDS,” hay đơn giản là “Bú tao đi.”
Dẫu vậy, mục sư Swensen chỉ ở đây một thời gian ngắn nên ông cho là mình sẽ sống sót qua được cú sốc văn hóa nho nhỏ này thêm một lúc.
Suốt vài giờ liền, ông đã cố gắng đọc cuốn Thánh Kinh Gideon cũ kỹ, nhàu nát mà khách sạn cung cấp. Nhưng cuối cùng ông bỏ cuộc. Phúc âm của Thánh Matthew, dù rất cuốn hút, cũng không đọ lại được âm thanh của tay bán dâm đồng tính và khách hàng của hắn đang kêu rên ầm ĩ vì đau đớn hay thống khoái, hoặc nhiều khả năng nhất, vì cả hai.
Vị mục sư biết ông phải lấy làm vinh dự vì đã được chọn lựa cho nhiệm vụ này ở New York, nhưng ông cảm thấy mình như Tông đồ Paul trong một sứ mệnh truyền giáo cho những kẻ vô đạo ở Hy Lạp và Tiểu Á, chỉ được chào đón bởi sự khinh khi và mỉa mai.
A, a, a, a… Đúng rồi, đúng rồi… Ô, ô, ô, ô, đúng chỗ đấy đấy, đúng chỗ đấy đấy…
Thế là quá đủ rồi. Ngay cả Paul cũng không phải chịu đựng sự suy đồi thế này. Buổi hòa nhạc được lên lịch phải vài tiếng nữa mới bắt đầu, nhưng mục sư Swensen quyết định rời đi sớm hơn. Ông chải đầu, tìm cặp kính và ném cuốn Kinh Thánh, ông bỏ một bản đồ thành phố và một bài giảng ông đang soạn vào chiếc cặp đựng tài liệu. Ông đi cầu thang xuống sảnh, nơi một gái mại dâm nữa đang ngồi. Người này là – hay có vẻ là – một phụ nữ.
Cha chúng con ở trên trời, người đầy ơn phước…
Bụng ông thắt lại, ông đi nhanh qua, nhìn chằm chằm xuống sàn nhà và đợi một lời mời chào. Nhưng cô ta – hay anh ta, hay là gì đi nữa – chỉ mỉm cười và nói, “Trời đẹp nhỉ, thưa cha?”
Mục sư Swensen chớp mắt rồi mỉm cười lại. “Phải, quả thế,” ông cưỡng lại thôi thúc nói thêm từ “con ta,” điều ông đã không bao giờ nói trong suốt những ngày tháng làm mục sư. Ông đành hài lòng với, “Chúc một ngày tốt lành.”
Ông ra ngoài, hòa vào dòng người đông đúc trên những con phố của khu Lower East Side, thành phố New York.
Ông dừng lại trên vỉa hè trước cửa khách sạn khi những chiếc tắc-xi lao qua, những người gốc Á và Latinh trẻ tuổi vội vã bước đi, những chiếc xe buýt phả ra làn khói nóng và đặc mùi kim loại và những cậu nhóc giao món Tàu phóng những chiếc xe đạp tả tơi vun vút trên vỉa hè. Tất cả trông thật mệt mỏi. Cáu bẳn và khó chịu, ông mục sư quyết định rằng một cuộc tản bộ tới ngôi trường tổ chức buổi hòa nhạc sẽ giúp ông thư giãn lại. Ông xem bản đồ và biết nó ở cách đây khá xa, nhưng ông cần làm gì đó để ngăn chặn sự lo lắng điên rồ này. Ông sẽ đi xem các cửa hàng, dừng lại ăn tối, rồi soạn bài giảng.
Khi đã định hướng lại chuyến đi bộ của mình, ông có cảm giác là ông đang bị theo dõi. Ông liếc về phía bên trái, vào con ngõ cạnh khách sạn. Một người đàn ông đứng lấp ló cạnh một thùng rác, một kẻ gọn gàng, tóc nâu, mặc áo liền quần, cầm một túi dụng cụ nhỏ. Gã đang nhìn ông mục sư đầy vẻ dò xét và toan tính. Rồi, như thể bị phát hiện, gã quay đi và rút lui vào trong con ngõ.
Mục sư Swensen nắm chặt chiếc cặp táp của ông, tự hỏi phải chăng ông đã phạm sai lầm khi không chịu ở yên trong căn phòng an toàn của mình – dù cho nó suy đồi và ồn ào – cho tới giờ của buổi hòa nhạc. Rồi ông cười nhạt. Hãy thư giãn nào, ông tự nhủ. Gã đó chẳng qua chỉ là một người gác cổng hay thợ làm thuê, có thể chính là nhân viên của khách sạn, ngạc nhiên vì thấy một mục sư bước ra khỏi nơi hoen ố này.
Thêm nữa, ông nhớ lại lúc đang rảo bước về phía bắc, ông mặc áo chùng, một vẻ ngoài chắc chắn sẽ khiến ông ít nhiều được miễn trừ trước tội ác, ngay cả trong thời mạt pháp hiện giờ.