• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
  1. Trang chủ
  2. Người biến mất
  3. Trang 33

Danh mục
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 32
  • 33
  • 34
  • More pages
  • 60
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 32
  • 33
  • 34
  • More pages
  • 60
  • Sau

Chương hai mươi tám

C

ô biết tên gã rồi hả?” Sellitto hỏi. “Gã là ai?”

“Tôi nghĩ gã là một người đàn ông tên Erick Weir.”

“Đánh vần thế nào?” Rhyme hỏi.

“W-E-I-R.” Thêm đường vào cốc. Rồi cô nói tiếp. “Gã là một người trình diễn, một ảo thuật gia từ vài năm trước. Tôi đã gọi cho ông Balzac – không ai rành về nghề này bằng ông ấy. Và tôi đã cho ông ấy biết hồ sơ lập được và kể với ông ấy những chuyện gã đã nói với Lincoln tối nay. Gã có phần hơi lạ lùng – nếu không muốn nói là điên rồ.” Cô liếc Sachs. “Thái độ của ông ấy sáng nay. Lúc đầu ông ấy không muốn giúp. Nhưng cuối cùng ông ấy bình tĩnh lại và nói với tôi là nghe có vẻ giống Weir.”

“Tại sao?” Sachs hỏi.

“À, vì khoảng tuổi đó. Ngoài năm mươi. Và Weir nổi tiếng với những tiết mục nguy hiểm. Trò nhanh tay lẹ mắt với dao lam và dao. Gã cũng là một trong số ít người từng thực hiện màn Tấm gương cháy. Còn nhớ tôi đã nói các ảo thuật gia luôn chuyên môn hóa không? Rất khác thường khi một nghệ sĩ trình diễn giỏi quá nhiều trò khác nhau – tạo ảo giác, trốn thoát, biến y, nhanh tay lẹ mắt, thậm chí cả nói bụng và thao túng tâm lý nữa? Weir làm tất cả những trò đó. Và gã là một chuyên gia về Houdini. Một số điều gã làm cuối tuần này là các tiết mục của Houdini, hay dựa trên các tiết mục đó.

“Rồi những gì gã nói nữa – về tay phù thủy. Có một ảo thuật gia hồi những năm 1800, John Henry Anderson70. Ông ấy tự gọi mình như thế – Phù thủy phương Bắc. Ông ấy rất tài năng. Nhưng ông ấy không gặp may mắn với lửa. Buổi diễn của ông ấy từng suýt tan nát vài lần. David nói với tôi rằng Weir đã bị bỏng nặng trong một vụ hỏa hoạn ở rạp xiếc.”

70 John Henry Anderson (1814 - 1874), ảo thuật gia chuyên nghiệp người Scotland, một trong những người đầu tiên đưa các màn biểu diễn đường phố lên sân khấu chính thức.

“Những vết sẹo,” Rhyme nói. “Nỗi ám ảnh với lửa.”

“Vậy có vẻ giọng của gã như vậy không phải là do bị suyễn,” Sachs gợi ý. “Lửa có thể đã phá hủy phổi hoặc thanh quản của gã.”

“Vụ tai nạn của Weir xảy ra khi nào?” Sellitto hỏi.

“Ba năm trước. Lều rạp mà gã diễn thử trong đó bị phá hủy và vợ Weir chết. Họ vừa mới kết hôn. Không có ai khác bị thương đáng kể.”

Đó là một đầu mối tốt. “Mel!” Rhyme hét, quên mất những lo ngại của anh về việc gây tổn hại cho lá phổi. “Mel!”

Một lát sau, Cooper bước vào. “Khá hơn chưa, tôi nghe rồi.”

“Tìm trên Lexis/Nexis, VICAP, NCIC và các bộ dữ liệu bang. Chi tiết về Erick Weir. W-E-I-R. Nghệ sĩ trình diễn, người tạo ảo giác, ảo thuật gia. Gã có thể là nghi phạm của chúng ta.”

Kara bổ sung, “Tên đánh vần là E-R-I-C-K.”

“Anh đã tìm ra tên gã hả?” Người kỹ thuật viên hỏi, lấy làm ấn tượng.

Một cái hất đầu về phía Kara. “Cô ấy.”

“Trời.”

Sau vài phút, Cooper trở lại với mấy tờ giấy in. Anh lật nhanh qua chúng khi nói với cả nhóm. “Không có gì nhiều,” anh nói. “Có vẻ như gã che giấu mọi thứ về cuộc đời mình. Erick Albert Weir. Sinh ở Las Vegas, tháng Mười năm 1950. Gần như không có gì về thời thanh niên. Weir làm việc cho rất nhiều rạp xiếc, sòng bạc và công ty giải trí trong vai trò trợ lý rồi gã tự hành nghề trong vai trò ảo thuật gia và nghệ sĩ biến y. Kết hôn với Marie Cosgrove ba năm trước. Ngay sau đó gã xuất hiện ở gánh xiếc Thomas Hasbro và The Keller Brothers tại Cleveland. Trong một buổi diễn thử, trận hỏa hoạn xảy ra. Lều bị phá hủy. Gã bị bỏng nặng – độ ba – còn vợ gã thiệt mạng. Không còn thông tin gì về gã sau đó.”

“Lần theo gia đình Weir.”

Sellitto nói anh sẽ chịu trách nhiệm việc đó. Do Bedding và Saul đang rất bận, viên thanh tra gọi một số thanh tra khác thuộc đội điều tra án giết người ở tổng hành dinh và giao việc cho họ.

“Còn vài điều nữa,” Cooper nói, lật qua những tờ giấy in. “Vài năm trước trận hỏa hoạn, Weir bị bắt và bị kết tội gây nguy hiểm do bất cẩn ở New Jersey. Tù ba mươi bảy ngày. Một khán giả bị bỏng nặng khi có sai sót xảy ra trên sân khấu. Rồi có một số vụ kiện dân sự của các quản lý vì hư hại nhà hát và thương tật của nhân viên và một số vụ kiện Weir vì phá vỡ hợp đồng. Trong một buổi diễn, người quản lý phát hiện ra Weir dùng súng và đạn thật trong một tiết mục. Weir không chịu thay đổi màn đó nên người quản lý sa thải gã.” Lại đọc thêm nữa. Rồi người kỹ thuật viên nói tiếp, “Tôi tìm được trong một bài báo tên hai trợ lý làm việc với gã vào lúc xảy ra vụ hỏa hoạn. Một ở Reno và một ở Las Vegas. Tôi có số của họ từ Cảnh sát bang Nevada.”

“Lúc này ở bên họ vẫn còn sớm,” Rhyme chỉ ra, liếc về phía đồng hồ. “Bật loa lên đi, Thom.”

“Không, sau mọi thứ tối nay anh cần nghỉ ngơi một chút.”

“Chỉ hai cuộc điện thoại thôi. Rồi tới giờ ngủ. Hứa đấy.”

Người trợ lý cân nhắc.

“Làm ơn và cảm ơn hả?”

Thom gật đầu rồi biến mất. Một lát sau anh trở lại với chiếc điện thoại, cắm vào, để nó trên chiếc bàn cạnh giường ngủ gần chỗ Rhyme. “Mười phút thôi rồi tôi rút dây ra đấy,” người trợ lý nói với đủ sự đe dọa để khiến Rhyme tin là anh sẽ làm thế.

“Được thôi.”

Sellitto ăn xong chiếc bánh kẹp và ấn số người trợ lý thứ nhất trong danh sách của Cooper. Giọng ghi âm từ vợ của Arthur Loesser trả lời và thông báo rằng gia đình họ đang không có nhà nhưng xin để lại lời nhắn. Sellitto làm theo rồi gọi cho người trợ lý thứ hai.

John Keating trả lời ngay sau tiếng reo đầu tiên và Sellitto giải thích họ đang trong một cuộc điều tra và có vài câu hỏi cho anh ta. Một quãng im lặng rồi một giọng lo lắng vang lên trên chiếc loa nhỏ xíu. “Ừm, có chuyện gì vậy? Là cảnh sát thành phố New York à?”

“Đúng.”

“Được. Tôi đoán là được.”

Sellitto hỏi, “Anh từng làm việc cho một người tên là Erick Weir, đúng không?”

Im lặng một lát. Rồi người đàn ông lắp bắp liên hồi. “Anh Weir ư? À, ừ, hừm. Quả thế. Tại sao?” Giọng nói đó bứt rứt và cao. Anh ta nói nghe như thể vừa uống cả chục ly cà phê.

“Anh có tình cờ biết anh ta ở đâu không?”

“Tôi muốn hỏi tại sao quý vị lại hỏi tôi về anh ấy?”

“Chúng tôi muốn nói chuyện với anh ta về một vụ điều tra hình sự.”

“Ôi, Chúa ơi… Về chuyện gì? Quý vị muốn tìm anh ta về chuyện gì?”

“Chúng tôi chỉ có vài câu hỏi chung thôi,” Sellitto nói. “Gần đây anh có liên lạc với anh ta không?”

Một khoảng lặng. Đây là khi người đàn ông lo lắng này hoặc sẽ nói hết hoặc sẽ bỏ chạy, Rhyme biết điều đó.

“Thưa anh?” Sellitto hỏi.

“Hay thật, được rồi. Vậy là anh hỏi tôi, ý tôi là hỏi tôi về anh ta.” Những từ đó lanh canh như tiếng đá cẩm thạch va vào kim loại. “Thế này nhé. Tôi sẽ nói cho anh biết. Tôi đã không nghe tin gì về anh Weir nhiều năm rồi. Tôi nghĩ anh ta đã chết. Có vụ hỏa hoạn ở Ohio, đó là lần cuối cùng chúng tôi làm với nhau. Anh ta bị bỏng. Rất nặng. Anh ta biến mất và tất cả chúng tôi đều nghĩ anh ta đã chết. Nhưng có lẽ là sáu hay bảy tuần trước, anh ta gọi.”

“Từ đâu?” Rhyme hỏi.

“Tôi không biết. Anh ta không nói. Tôi cũng không hỏi. Người ta thường không hay nghĩ tới việc hỏi một ai đó xem họ gọi từ đâu. Không phải điều đầu tiên. Ta chỉ đơn giản là không nghĩ tới chuyện đó. Anh có bao giờ hỏi thế không?”

Rhyme hỏi, “Anh ta muốn gì?”

“Được rồi, được rồi. Anh ta muốn biết liệu tôi có còn liên lạc với ai ở rạp xiếc nơi vụ hỏa hoạn xảy ra không. Rạp của gánh Hasbro. Nhưng là ở Ohio. Từ ba năm trước. Và Hasbro bây giờ thậm chí còn giải tán rồi. Sau vụ hỏa hoạn, người chủ dẹp gánh xiếc và rạp chuyển sang diễn thứ khác. Tại sao tôi lại duy trì liên lạc với bất kỳ ai ở đó chứ? Tôi đang ở Reno. Tôi nói tôi không có. Và anh ta trở nên rất khó chịu, anh biết đấy.”

Rhyme lại nhíu mày.

Sachs gợi ý, “Giận dữ hả?”

“Ồ, chết tiệt. Phải rồi.”

“Tiếp đi,” Rhyme nói, cố kiềm sự nóng ruột. “Cho chúng tôi biết anh ta còn nói gì nữa.”

“Chỉ thế thôi. Tất cả chỉ có thế. Tôi vừa nói với anh đấy. Ý tôi là có những chuyện lặt vặt khác. À, anh ta vẫn ăn nói kiểu cộc lốc như thế. Y như ngày xưa… Anh biết anh ta làm gì khi gọi tới không?”

“Làm gì?” Rhyme khuyến khích người kia.

“Tất cả những gì anh ta nói là, ‘Erick đây.’ Không ‘Xin chào.’ Không ‘À, John, anh khỏe không? Nhớ tôi không?’ Không hề. Chỉ ‘Erick đây.’ Tôi đã không nói chuyện với anh ta từ vụ hỏa hoạn. Và anh ta nói gì chứ? ‘Erick đây.’ Ngần ấy năm trời từ khi tôi thoát khỏi anh ta, làm việc cật lực để thoát khỏi… và rồi như thể là tôi chưa từng thoát ra vậy. Tôi biết là mình không làm gì sai. Ấy vậy mà anh ta vẫn nói như thể là tôi có lỗi. Như thể là tôi đã nhận đặt hàng của khách, rồi lại mang cho họ món mà họ không gọi vậy. Nhưng mọi người đều biết chuyện gì đã xảy ra – họ đổi ý và nói như thể là ta làm sai. Là lỗi của ta và ta là người gặp rắc rối.”

Sachs nói tiếp, “Anh có thể cho tôi biết điều gì đó về anh ta nói chung không? Những bạn bè khác, những nơi anh ta thích tới, những sở thích.”

“Chắc chắn rồi,” giọng anh ta trở nên gắt gỏng. “Tất cả những chuyện đó chỉ gói gọn trong hai chữ: ảo thuật.”

“Sao cơ?” Rhyme hỏi.

“Đó là bạn bè của anh ta, là nơi anh ta thích tới, là sở thích. Anh hiểu ý tôi không? Không có gì khác nữa. Anh ta hoàn toàn chìm đắm trong việc đó.”

Sachs cố một lần nữa. “À, còn về thái độ của anh ta với mọi người thì sao? Quan điểm của anh ta thế nào? Anh ta nghĩ về mọi thứ ra sao?”

Một khoảng im lặng dài. “Năm mươi phút mỗi lần, hai lần mỗi tuần trong ba năm, tôi đã cố gắng hiểu anh ta và tôi không thể. Trong ba năm đấy. Và anh ta vẫn làm tôi tổn thương. Tôi…” Keating tuôn ra một tràng cười nghiệt ngã, đáng sợ. “Anh hiểu không. Tôi nói ‘tổn thương.’ Ý tôi là ‘ám ảnh.’ Anh ta vẫn ám tôi. Như thế Freud71 tới cỡ nào? Tôi sẽ có gì đó để chia sẻ vào thứ Hai tới lúc chín giờ sáng, đúng không? Anh ta vẫn ám ảnh tôi và tôi không hề biết quan điểm sống chết tiệt của anh ta là gì.”

71 Nguyên văn là “Freudian” – liên quan tới những quan điểm và phương pháp của Sigmund Freud, đặc biệt là về cái cách mà con người che giấu suy nghĩ và cảm xúc có ảnh hưởng lên hành động của họ.

Rhyme có thể thấy cả nhóm đã phát chán với những tràng lan man của gã này. Anh nói, “Chúng tôi nghe nói vợ anh ta đã chết trong vụ hỏa hoạn. Anh có biết gì về gia đình cô ấy không?”

“Marie hả? Không, họ lấy nhau chỉ một, hai tuần trước vụ hỏa hoạn. Họ thực sự yêu nhau. Chúng tôi nghĩ cô ấy sẽ giúp anh ta bình tĩnh lại. Khiến anh ta ít ám chúng tôi hơn. Chúng tôi đã hy vọng thế. Nhưng chúng tôi chưa bao giờ thực sự biết rõ cô ấy.”

“Anh có thể cho chúng tôi tên của bất kỳ ai có thể biết gì đó về anh ta không?”

“Art Loesser là trợ thủ thứ nhất. Tôi là thứ hai. Chúng tôi là người sai vặt của anh ta. Họ gọi chúng tôi là ‘những cậu bé của Erick.’ Ai cũng gọi thế.”

Rhyme nói, “Chúng tôi đã gọi Loesser rồi. Còn ai không?”

“Người duy nhất tôi có thể nghĩ tới là giám đốc rạp Hasbro lúc bấy giờ. Tên ông ấy là Edward Kadesky. Ông ấy hiện là một nhà sản xuất ở Chicago, tôi nghĩ thế.”

Sellitto ghi lại tên đó. Rồi hỏi, “Weir có bao giờ gọi lại không?”

“Không. Nhưng anh ta không cần gọi lại. Chỉ năm phút sau là anh ta lại kiếm chuyện. Gây tổn thương và ám ảnh.”

Erick đây…

“Nghe này, tôi phải đi rồi. Tôi phải là bộ đồng phục. Tôi làm việc ca sáng Chủ nhật. Ca đấy đông khách lắm.”

Sau khi họ gác máy, Sachs đi tới chỗ loa và nhấn nút ngắt kết nối. “Bạn cùng nghề thế đấy,” cô lầm bầm.

“Anh ta cần thêm thuốc an thần,” Sellitto nhận xét.

“Ít ra thì chúng ta có một đầu mối,” Rhyme nói. “Hãy lần theo tay Kadesky đó.”

Mel Cooper biến mất vài phút và khi trở lại, anh có một tờ giấy in bộ dữ liệu của các công ty sân khấu. Kadesky Productions có văn phòng ở đường South Wells, thành phố của gió72. Sellitto gọi một cuộc và không có gì ngạc nhiên, vào tối muộn thứ Bảy thế này, cuộc gọi được chuyển qua máy trả lời tự động. Anh để lại lời nhắn.

72 Biệt danh của Chicago.

Sellitto nói, “Được rồi. Weir gây chuyện với trợ lý của gã. Gã bất ổn. Gã làm người trong đám khán giả bị thương và giờ gã là một kẻ giết người hàng loạt. Nhưng điều gì khiến gã trở nên như vậy chứ?”

Sachs nhìn lên. “Hãy gọi cho Terry.”

Terry Dobyns là một chuyên gia tâm lý học của NYPD. Có vài người như thế trong lực lượng cảnh sát, nhưng Dobyns là người phân tích hành vi duy nhất, một kỹ năng anh đã được học và rèn giũa ở FBI tại Quantico, Virginia. Nhờ báo chí và tiểu thuyết phổ thông, dư luận được nghe rất nhiều về việc lập hồ sơ tâm lý và giá trị của nó – nhưng Rhyme cảm thấy điều đó chỉ đúng với một số loại tội phạm hạn chế. Nhìn chung không có gì bí ẩn về cách vận hành của tâm trí một thủ phạm. Nhưng trong những vụ mà động cơ là bí ẩn và mục tiêu tiếp theo của gã là khó phán đoán, việc lập hồ sơ tâm lý có thể có giá trị. Nó giúp các điều tra viên tìm được những người cung cấp thông tin hay các cá nhân có thể quen biết nghi phạm, phán đoán hành động tiếp theo của gã, giăng bẫy ở những chỗ thích hợp, đặt mai phục hoặc tìm kiếm những tội ác tương tự trong quá khứ.

Sellitto lướt qua danh mục các số điện thoại của NYPD và gọi cho số của Dobyns.

“Terry.”

“Lon. Tôi đang bật loa đấy. Tôi đoán là Lincoln cũng ở đây.”

“Ừ,” Rhyme xác nhận. Anh quý Dobyns, người đầu tiên anh thấy khi tỉnh lại sau tai nạn cột sống. Rhyme nhớ là người đàn ông đó thích bóng bầu dục, opera và các bí ẩn trong tâm trí con người ở mức độ gần tương đương nhau – tất cả đều đầy đam mê.

“Xin lỗi vì đã muộn thế này,” Sellitto nói, nghe không hề có vẻ hối lỗi chút nào. “Nhưng chúng tôi cần hỗ trợ trong một vụ giết người hàng loạt. Chúng tôi đã có tên nghi phạm nhưng không có thêm gì hơn nữa.”

“Có phải vụ báo chí đang đưa tin không? Giết sinh viên âm nhạc sáng nay? Và viên cảnh sát tuần tra nữa?”

“Đúng rồi. Gã cũng đã giết một nghệ sĩ trang điểm và tìm cách giết một người cưỡi ngựa. Vì những gì mà gã cho là họ đại diện. Hai phụ nữ, một người đàn ông đồng tính. Không có gì liên quan tới tình dục. Chúng tôi đang lạc lối. Và gã nói với Lincoln là sẽ bắt đầu lại vào chiều mai.”

“Gã nói với Lincoln sao? Qua điện thoại? Hay qua thư?”

“Trực tiếp,” Rhyme nói.

“Hừm. Đấy hẳn phải là một cuộc nói chuyện ra trò.”

“Anh không biết đâu.”

Sellitto và Rhyme nói qua với anh những tội ác của Weir và những gì họ biết được về gã.

Dobyns hỏi hàng loạt câu hỏi. Rồi anh im lặng một lát và cuối cùng nói, “Tôi thấy có hai lực lượng trong gã. Nhưng chúng gia cố cho nhau và dẫn tới cùng kết quả… Gã vẫn còn biểu diễn chứ?”

“Không,” Kara nói. “Gã đã không biểu diễn nữa từ vụ hỏa hoạn. Không có màn nào mà người ta biết tới.”

“Biểu diễn trước công chúng,” Dobyns nói, “là một trải nghiệm rất căng thẳng. Nó rất hấp dẫn, nên khi một người đã từng thành công bị từ chối điều đó, thì mất mát là rất lớn. Các diễn viên và nhạc sĩ – cả các ảo thuật gia nữa, tôi cho là thế – có xu hướng định nghĩa họ thông qua chính sự nghiệp của mình. Nên trận hỏa hoạn về cơ bản đã xóa sổ con người cũ của gã.”

Người đàn ông biến mất, Rhyme nhớ lại.

“Điều đó có nghĩa là giờ động cơ của gã không phải là tham vọng thành công hay làm hài lòng khán giả hay sự tận hiến cho nghề nghiệp, mà là sự giận dữ. Và điều đó tăng lên bởi một lực thứ hai: trận hỏa hoạn làm gã biến dạng và hủy hoại phổi của gã. Là một người của công chúng, gã đặc biệt tự ý thức về những dị dạng đó. Chúng nhân cơn giận lên theo cấp logarit. Chúng tôi gọi đó là hội chứng Bóng ma trong nhà hát. Gã sẽ nhìn nhận mình là một kẻ biến thái.”

“Vậy là gã muốn trả thù?”

“Phải, nhưng không nhất thiết là theo nghĩa đen: trận hỏa hoạn đã giết chết gã – con người cũ của gã – và bằng cách giết người khác, gã cảm thấy khá hơn; nó làm giảm sự lo lắng và giận dữ dâng cao trong gã.”

“Tại sao lại là những nạn nhân này?”

“Không thể nào biết được. ‘Những gì họ đại diện.’ Nói lại xem họ làm gì?”

“Sinh viên âm nhạc, nghệ sĩ trang điểm và một luật sư dù gã gọi cô ta là một người cưỡi ngựa.”

“Có điều gì đó về họ đụng chạm tới cơn giận dữ của gã. Tôi không biết điều đó có thể là gì – chưa biết, chưa biết nếu không có thêm thông tin. Câu trả lời theo sách giáo khoa là mỗi người đó đã dành cuộc đời của họ cho việc mà Weir coi là ‘những khoảnh khắc thử thách.’ Những thời điểm quan trọng làm thay đổi cuộc đời. Có thể vợ gã là một nhạc công hay họ gặp nhau ở một nhạc hội. Nghệ sĩ trang điểm – đó có thể là một vấn đề với bà mẹ. Lấy ví dụ, những lúc duy nhất mà gã thấy hạnh phúc khi ở cùng bà ta có thể là khi gã còn là một cậu bé ngồi trong phòng tắm và nhìn mẹ trang điểm. Còn những con ngựa ư? Ai mà biết được? Có thể gã và cha từng đi cưỡi ngựa một lần và gã thích việc đó. Niềm hạnh phúc trong những khoảnh khắc như thế đã bị tước đoạt khỏi gã vì trận hỏa hoạn và gã nhắm vào những người nhắc nhở gã nhớ tới những thời điểm đó. Hay cũng có thể là ngược lại; gã có những mối liên hệ tồi tệ với những gì mà các nạn nhân đại diện. Anh nói là vợ gã chết trong một buổi diễn thử. Có thể có nhạc chơi lúc đó.”

“Gã sẽ trải qua ngần ấy rắc rối, theo đuôi họ, lên những kế hoạch tỉ mỉ để tìm thấy và giết họ sao?” Rhyme hỏi. “Những việc đó hẳn phải mất nhiều tháng.”

“Gã phải thỏa mãn được nỗi ám ảnh của mình,” Dobyns nói. “Một việc nữa, Terry. Gã dường như luôn nói chuyện với một khán giả tưởng tượng… Đợi đã, tôi nghĩ là một ‘quý khán giả kính mến.’ Nhưng tôi vừa nhớ lại – là ‘thân mến.’ Gã nói với họ như thể họ thực sự có mặt ở đó. ‘Giờ, thưa quý khán giả thân mến, chúng ta sẽ làm chuyện này hay chuyện kia.’”

“‘Thân mến,’” nhà tâm lý học nói. “Điều đó quan trọng đấy. Sau khi sự nghiệp của gã và người mà gã yêu thương bị lấy mất, gã đã chuyển sự thân thương, tình yêu đó cho khán giả – một đám đông tưởng tượng. Những người thích các nhóm hay đám đông có thể lạm dụng bạo lực, thậm chí gây nguy hiểm, với những cá nhân đơn lẻ khác. Không chỉ là người lạ mà cả bạn đời, vợ, con, và gia đình họ nữa.”

John Keating, Rhyme nhớ lại, thực sự nghe giống một đứa trẻ đã bị cha mình bạo hành.

Dobyns nói tiếp, “Và trong trường hợp của Weir, kiểu tư duy này thậm chí còn nguy hiểm hơn vì gã không nói chuyện với khán giả thật sự, mà chỉ với khán giả tưởng tượng mà thôi. Tôi cho rằng như vậy có nghĩa là những con người thực không hề có giá trị gì với gã. Gã không gặp chút vấn đề nào trong việc sát hại người khác ngay cả là một số lượng lớn. Gã này là một ca khó đấy.”

“Cảm ơn, Terry.”

“Nếu bắt được gã, hãy cho tôi biết nhé. Tôi muốn được gặp.” Sau khi họ gác máy, Sellitto bắt đầu, “Có lẽ chúng ta có thể…”

“Đi ngủ nào,” Thom nói.

“Hả?” Viên thanh tra hỏi.

“Và đó không phải là một câu hỏi “có thể” hay không. Đó là một câu khẳng định. Anh phải đi ngủ, Lincoln. Và mọi người khác phải về. Anh nhìn thật nhợt nhạt và mệt mỏi. Không được có biến cố tim mạch hay thần kinh nào trong phiên trực của tôi. Nếu anh còn nhớ, tôi đã muốn anh đi ngủ từ mấy tiếng trước rồi.”

“Được rồi, được rồi,” Rhyme chịu thua. Thực ra, anh đã mệt thật. Và dù anh sẽ không chịu thừa nhận với bất kỳ ai, trận hỏa hoạn đã làm anh cực kỳ sợ hãi.

Cả nhóm rời đi. Kara tìm áo khoác của cô và khi cô mặc vào, Rhyme thấy cô buồn bực một cách rõ ràng.

“Cô ổn chứ?” Sachs hỏi cô.

Một cái nhún vai tỏ vẻ không quan tâm. “Tôi phải nói với ông Balzac lý do tôi cần hỏi ông ấy về Weir. Ông ấy bực lắm. Tôi sẽ phải chuộc lỗi.”

“Chúng tôi sẽ viết một tin nhắn cho ông ấy,” Sachs đùa nhẹ nhàng, “xin phép để cô nghỉ học.”

Cô gái mỉm cười mệt mỏi.

Rhyme gọi ra, “Quên tin nhắn đi. Nếu không có cô, chúng tôi sẽ không thể biết hung thủ là ai. Hãy bảo ông ấy gọi cho tôi. Tôi sẽ xử lý chuyện này.”

Kara nói yếu ớt, “Cảm ơn.”

“Cô sẽ không về lại cửa hàng chứ, đúng không?” Sachs hỏi.

“Chỉ một lát thôi. Ông Balzac không xử lý được các việc chi tiết ở cửa hàng. Tôi sẽ phải ghi lại hóa đơn. Và cho ông ấy xem tiết mục của tôi vào ngày mai.”

Rhyme không ngạc nhiên với việc cô sẽ làm những gì mà người đàn ông đó yêu cầu. Anh để ý thấy là cô nói ông Balzac. Đôi khi gọi ông ấy là “David.” Nhưng không phải lúc này. Điều này gợi lại những gì họ đã nghe trước đó: bất chấp việc Gã phù thủy suýt nữa thì hủy hoại cuộc đời của John Keating, tay trợ lý đã nói tới kẻ sát nhân với cùng cách gọi kính trọng như thế. Sức mạnh của người thầy với người học việc của họ…

“Về nhà đi,” nữ cảnh sát khăng khăng. “Ý tôi là, Chúa ơi, hôm nay cô đã bị đâm chết cơ mà.”

Một tiếng cười yếu ớt nữa, đi kèm là một cái nhún vai. “Tôi sẽ không ở đó lâu đâu.” Cô dừng lại ở bậc cửa. “Tôi có buổi diễn vào buổi chiều. Nhưng tôi sẽ trở lại vào sáng mai nếu quý vị cần.”

“Chúng tôi rất cảm ơn,” Rhyme nói. “Dù sao chúng tôi cũng sẽ cố gắng tóm được tên Weir trước bữa trưa để cô không phải ở lại đây lâu.”

Thom đưa cô ra hành lang rồi qua cửa trước.

Sachs bước ra cửa và hít vào bầu không khí ám khói. “Phù,” cô thở ra. Rồi biến mất trên những cầu thang. “Em đi tắm,” cô nói.

Mười phút sau, Rhyme nghe tiếng cô bước xuống lầu. Nhưng cô không lên giường với anh ngay. Từ những phía khác nhau trong căn nhà vang lên những tiếng cót két, những lời thì thầm với Thom. Cuối cùng cô trở lại phòng cho khách. Cô mặc bộ đồ ngủ yêu thích nhất – áo phông đen và quần soóc lụa – nhưng có thêm hai phụ kiện không điển hình cho đồ ngủ. Khẩu súng ngắn Glock và ngọn đèn pin hình trụ dài màu đen.

Cô để cả hai lên bàn cạnh giường ngủ.

“Gã lọt vào đây quá dễ dàng,” cô nói, leo lên giường nằm cạnh anh. “Em đã kiểm tra từng góc một trong nhà, chặn tất cả các cánh cửa và nói với Thom là nếu anh ấy nghe thấy bất kỳ tiếng động gì thì cứ hét lên – nhưng hãy cảnh giác. Em đang muốn bắt ai đó, nhưng em thật sự muốn đó không phải là gã.”