"A
nh sao? Thật ngớ ngẩn.”
“Không. Không ngớ ngẩn đâu.”
“Quên chuyện đó đi. Hãy dò lại hiện trường lần nữa. Em đã bỏ lỡ thứ gì đó. Em tìm nhanh quá. Nếu em là tay mới…”
“Em không phải tay mới. Em biết cách tìm nhanh ở hiện trường và em biết khi nào đã tới lúc ngừng tìm kiếm và làm những việc hiệu quả hơn.” Cô kiểm tra cái máy ghi âm nhỏ của Sellitto, kiểm tra băng, rồi bấm máy.
“Cảnh sát tuần tra NYPD Amelia Sachs, số phù hiệu Năm Tám Tám Năm, đang thẩm vấn Lincoln Rhyme, nhân chứng một vụ tấn công mã mười-hai mươi-bốn và phóng hỏa mã mười-hai mươi-chín ở số ba-bốn-năm Central Park West. Thứ Bảy, ngày hai mươi tháng Tư.” Cô đặt máy ghi âm trên bàn gần Rhyme.
Anh liếc nhìn nó như thể nó là một con rắn. “Giờ,” cô nói. “Là phần mô tả.”
“Anh đã nói với Lon…”
“Nói với em đây này.”
Một cái nhìn khổ sở lên trần nhà. “Gã người tầm thước, nam giới, trong khoảng từ năm mươi tới năm mươi lăm tuổi, mặc đồng phục của một cảnh sát. Lần này không có râu. Vết sẹo và vết màu không đồng nhất ở cổ và trên ngực.”
“Gã phanh ngực áo ra sao? Anh nhìn thấy ngực gã à?”
“Xin lỗi,” anh nói với sự mỉa mai sáng chói. “Vết sẹo ở cuối cổ gã có thể là kéo dài xuống tận ngực. Ngón út và ngón đeo nhẫn bàn tay trái bị dính với nhau. Gã… có vẻ có mắt màu nâu.”
“Tốt, Rhyme,” cô nói. “Chúng ta không có màu mắt của gã trong những vụ trước.”
“Và vụ này cũng không nếu gã đeo kính sát tròng,” anh độp lại, cảm thấy mình đã ghi điểm ở đây. “Anh có lẽ sẽ nhớ tốt hơn nếu được giúp một chút.” Anh nhìn về phía Thom.
“Được giúp một chút ư?”
“Anh cho là ta còn một chai Macallan chưa cháy ở đâu đó trong nhà bếp.”
“Để sau,” Sachs nói. “Hãy để đầu óc anh minh mẫn.”
“Nhưng…”
Lấy móng tay gãi đầu, cô tiếp tục, “Giờ. Em muốn anh nói lại tất cả những gì đã diễn ra. Gã đã nói gì?”
“Anh không nhớ được nhiều,” anh nói một cách sốt ruột. “Chủ yếu là những câu lầm bầm điên loạn. Và anh không có tâm trạng chú ý tới.”
“Có thể nghe điên khùng với anh. Nhưng em cá là sẽ có thứ gì đó hữu ích mà chúng ta có thể sử dụng.”
“Sachs,” anh nói một cách chế giễu, “em nghĩ là anh có thể hoảng loạn và rối trí ư? Ý anh là chỉ một chút phân tâm thôi, có lẽ thế?”
Cô chạm vào vai anh, nơi mà anh có thể cảm nhận được. “Em biết là anh không tin các nhân chứng. Nhưng đôi khi họ thực sự nhìn thấy điều quan trọng… Đây là chuyên môn của em, Rhyme.”
Amelia Sachs, cảnh sát nhân dân.
“Em sẽ hướng dẫn qua cho anh về việc này. Như anh đã hướng dẫn em đi theo ô để dò hiện trường. Chúng ta sẽ tìm thấy điều gì đó quan trọng.”
Cô đứng lên, đi về phía cửa và gọi, “Kara?”
Phải, anh không tin nhân chứng, ngay cả những người có quan điểm đúng đắn và bản thân không tham gia hành động. Bất kỳ ai liên quan tới một hiện trường tội ác thực sự – nhất là nạn nhân của một vụ bạo lực – hoàn toàn không đáng tin cậy. Ngay cả hiện giờ, nghĩ về chuyến ghé thăm của kẻ sát nhân, tất cả những gì Rhyme có thể thấy là một chuỗi sự kiện ngẫu nhiên – Gã phù thủy ở đằng sau lưng anh, đứng phủ bóng lên người anh, đốt lửa. Những lưỡi dao lam. Mùi rượu whisky, mùi khói nồng nặc. Anh thậm chí không có được một cảm nhận về trình tự chuyến ghé thăm của kẻ sát nhân.
Ký ức, như Kara đã nói, chỉ là một ảo ảnh.
Một lát sau, cô gái trẻ xuất hiện. “Anh ổn không, Lincoln?”
“Ổn,” anh lầm bầm.
Sachs giải thích rằng cô muốn Kara cùng nghe; cô ấy có thể nhận ra điều gì đó có ích trong những lời mà kẻ sát nhân nói. Nữ cảnh sát ngồi xuống lần nữa và kéo chiếc ghế của cô lại gần. “Hãy trở lại đoạn đó đi, Rhyme. Cho em biết chuyện gì đã xảy ra. Chỉ cần nói chung chung thôi.”
Anh lưỡng lự, liếc nhìn máy ghi âm. Rồi anh bắt đầu thuật lại những sự kiện như anh nhớ. Gã phù thủy xuất hiện, thừa nhận rằng gã đã ăn cắp đồng phục rồi giết viên cảnh sát, nói với Rhyme về thi thể viên cảnh sát.
Thời tiết đang ấm…
Rồi anh nói, “Có vẻ như gã giả vờ là mình đang biểu diễn còn anh là một bạn diễn của gã.” Vẫn còn nghe tiếng lầm bầm lạ lùng của gã trong tâm trí, Rhyme nói, “Anh quả có nhớ lại một chuyện. Gã bị suyễn. Hay ít ra là gã cứ rít lên. Gã thở hổn hển rất nhiều, thì thầm nữa.”
“Tốt,” Sachs nói. “Em đã quên là gã phát ra tiếng động như thế lúc ở ao nước sau vụ tấn công Marston. Gã còn nói gì nữa?”
Rhyme nhìn lên trần nhà tối tăm của căn phòng cho khách nhỏ bé. Lắc đầu. “Thế thôi. Hoặc là gã đốt anh hoặc là dọa xẻ thịt anh… Ồ, em có tìm thấy lưỡi dao lam nào khi lục soát căn phòng không?”
“Không.”
“À, đấy đấy. Anh đang nghĩ chuyện đó – bằng chứng. Anh biết gã đã ném một lưỡi dao lam vào chiếc quần ngủ của anh. Nhưng các bác sĩ không tìm thấy. Nó hẳn đã rơi ra. Thấy không, đó mới là thứ mà em nên tìm kiếm.”
“Nó có lẽ không bao giờ rơi xuống quần anh,” Kara nói. “Tôi biết trò đó. Gã đã giấu lưỡi dao lam.”
“Quan điểm của tôi là cô không có xu hướng chịu nghe người ta thật kỹ khi có người đang tra tấn cô.”
“Coi nào, Rhyme, trở lại đoạn đó đi. Lúc đó là đầu giờ tối. Kara và em đi mua đồ ăn. Anh đang xem các bằng chứng. Thom đưa anh lên lầu. Anh thấy mệt, đúng không?”
“Không,” nhà tội phạm học nói. “Anh không mệt. Nhưng anh ta vẫn đưa anh lên.”
“Hãy tưởng tượng là anh không thích thú gì chuyện đó.”
“Đúng, anh chẳng thích thú gì.”
“Vậy là anh lên trên phòng.”
Mường tượng ra những ngọn đèn, bóng của những con chim. Thom đang đóng cửa.
“Lúc đó thật yên tĩnh…” Sachs bắt đầu.
“Không, không hề yên tĩnh chút nào. Có một gánh xiếc chết tiệt ở bên kia đường. Dẫu thế nào, anh cũng đã đặt chuông báo thức…”
“Mấy giờ?”
“Anh không biết. Một tiếng. Điều đó có gì khác biệt chứ?”
“Một chi tiết có thể dẫn tới hai chi tiết khác.”
Anh cau có. “Câu đấy ở đâu ra vậy, trong một cái bánh may mắn à?”
Cô mỉm cười. “Em tự nghĩ ra. Nhưng nghe có vẻ hay ho đúng không? Hãy dùng câu đó trong cuốn sách mới của anh.”
“Anh không viết sách về các nhân chứng,” Rhyme nói. “Anh viết sách về bằng chứng.” Lại cảm thấy chiến thắng với câu đáp trả đó.
“Giờ, làm sao anh dám chắc là gã đã ở đây từ trước? Anh có nghe thấy gì không?”
“Không, anh cảm thấy một luồng gió. Lúc đầu anh nghĩ đấy là máy điều hòa. Nhưng là gã. Gã đang thổi vào cổ và má anh.”
“Chỉ để… Tại sao?”
“Anh đoán là để dọa cho anh sợ. Và nhân đây, điều đó có tác dụng đấy.” Rhyme nhắm mắt lại. Rồi anh gật đầu khi vài ký ức trở lại. “Anh cố gọi cho Lon trên điện thoại. Nhưng gã” – anh liếc nhìn Kara. “Gã bắt được tính toán của anh. Gã dọa giết anh… Không, gã dọa sẽ làm anh mù… nếu anh định gọi người giúp. Anh nghĩ gã sẽ làm thế. Nhưng – chuyện này thật lạ – gã có vẻ bị ấn tượng. Gã khen ngợi anh vì trò đánh lạc hướng…” Giọng anh nhỏ dần khi ký ức của anh trôi vào hư ảo.
“Gã lọt vào bằng cách nào?”
“Gã đi vào cùng viên cảnh sát mang theo bằng chứng từ vụ bắn Grady.”
“Chó chết,” Sellitto nói. “Từ giờ trở đi chúng ta phải kiểm tra giấy tờ tùy thân của bất kỳ ai bước qua cánh cửa chết tiệt đó. Ý tôi là tất cả mọi người.”
“Gã nói về việc đánh lạc hướng,” Sachs nói tiếp. “Gã khen ngợi anh. Gã còn nói gì nữa?”
“Anh không biết,” Rhyme lầm bầm. “Không có gì hết.”
“Không có gì hết sao?” Cô hỏi, giọng như thì thầm.
“Anh. Không. Biết.” Lincoln Rhyme nổi giận với Sachs vì cô đang bức bách anh. Vì cô đã không để anh uống một ly nhằm làm dịu đi nỗi kinh hoàng.
Nổi giận nhiều nhất là với chính anh vì đã làm cô thất vọng. Nhưng cô phải hiểu việc bắt anh quay lại nơi đó khó khăn đến thế nào… với những ngọn lửa, với khói luồn vào trong mũi anh và đe dọa lá phổi mong manh của anh…
Đợi đã. Khói…
Lincoln Rhyme nói, “Lửa.”
“Lửa ư?”
“Anh nghĩ rằng đó là điều gã nói tới nhiều nhất. Gã bị ám ảnh với lửa. Có một màn biểu diễn mà gã nhắc tới. Màn… Phải rồi, Tấm gương cháy. Là màn đó. Những ngọn lửa ở khắp sân khấu, anh nghĩ thế. Ảo thuật gia phải thoát khỏi chúng. Ông ta biến thành quỷ sứ. Hay ai đó biến thành quỷ sứ.”
Cả Rhyme và Sachs đều nhìn Kara, người đang gật đầu. “Tôi có nghe nói tới. Nhưng đó là một màn hiếm. Cần phải sắp đặt trước rất nhiều và nó cũng khá nguy hiểm. Hầu hết hiện nay các chủ sân khấu sẽ không để nghệ sĩ trình diễn làm trò đó.”
“Gã cứ nói mãi về lửa. Về việc đó là thứ mà ta không thể làm giả trên sân khấu. Khán giả của gã nhìn thấy lửa và họ bí mật hy vọng có thể nhà ảo thuật sẽ bị đốt cháy. Đợi đã. Anh nhớ được một chuyện nữa. Gã…”
“Tiếp tục đi, Rhyme, anh đang vào đà rồi.”
“Đừng ngắt lời anh,” anh nạt. “Anh nói với em là gã cư xử như thể mình đang trình diễn đúng không? Gã có vẻ bị ảo giác. Gã cứ nhìn vào bức tường trống và nói chuyện với ai đó. Như thể, ‘Khán giả gì đó của tôi.’ Anh không nhớ gã gọi họ là gì. Gã là một tên điên.”
“Một khán giả tưởng tượng.”
“Đúng rồi. Đợi đã… Anh nghĩ đó là ‘quý khán giả thân mến.’ Nói trực tiếp với họ, ‘Quý khán giả thân mến của tôi.’”
Sachs nhìn sang Kara, cô nhún vai. “Chúng tôi luôn nói chuyện với khán giả. Là kiểu nói chuyện liên tục để gây phân tâm. Ngày xưa, các nghệ sĩ trình diễn sẽ gọi họ là ‘khán giả trân quý của tôi,’ hay ‘thưa các quý bà, quý ông thân mến.’ Nhưng rồi mọi người nghĩ nói như thế nghe thật rẻ tiền và giả tạo. Việc gọi khán giả giờ ít trang trọng hơn nhiều.”
“Kể tiếp xem nào.”
“Anh không biết, Sachs. Anh nghĩ anh chỉ biết thế thôi. Mọi thứ khác hoàn toàn mờ ảo.”
“Em cá là vẫn còn nữa. Giống như mảnh bằng chứng kia ở hiện trường. Nó ở đó, nó có thể là chìa khóa cho cả vụ án. Anh chỉ phải nghĩ khác đi một chút để tìm ra nó.” Cô nghiêng người lại gần Rhyme hơn. “Giả sử đây là phòng ngủ của anh. Anh đang ở trên cái giường Flexicair đó. Gã đã đứng ở đâu?”
Nhà tội phạm học hất đầu. “Đằng kia. Gần cuối giường, đối mặt với anh. Phía bên trái anh, gần với cánh cửa nhất.”
“Tư thế của gã ra sao?”
“Tư thế ư? Anh không biết.”
“Thử xem.”
“Anh đoán là đối mặt với anh. Gã liên tục chuyển động tay. Như thể đang phát biểu với công chúng vậy.”
Sachs đứng lên tạo tư thế. “Như thế này hả?”
“Gần hơn.”
Cô lại gần.
“Đúng rồi.”
Tư thế đứng của cô ở đó quả có mang lại một ký ức. “Có một chuyện… Gã nói về các nạn nhân. Gã nói gã giết họ không phải là vì hiềm khích cá nhân.”
“Không có gì cá nhân.”
“Gã giết… Phải, giờ anh nhớ ra rồi. Gã giết họ vì điều mà họ đại diện.”
Sachs gật đầu, nguệch ngoạc những ghi chú để bổ sung cho băng ghi âm. “Đại diện ư?” Cô nói. “Điều đó có nghĩa gì?”
“Anh không biết. Một nhạc công, một luật sư, một nghệ sĩ trang điểm. Tuổi khác, giới tính khác, nghề nghiệp khác, nơi ở cũng khác, không có gì kết nối họ với nhau cả. Họ có thể đại diện cho điều gì? Lối sống trung lưu bậc trên, dân đô thị, giáo dục bậc cao… Có thể một trong những điều đó là chìa khóa – kiểu tư duy duy lý khi chọn họ. Ai mà biết được?”
Sachs nhíu mày. “Có gì đó không đúng.”
“Sao cơ?”
Cuối cùng cô cũng nói, “Có điều gì đó không đúng về những gì anh nhớ lại.”
“Chà, có phải là đúng từng từ một đâu. Anh có phải là máy tốc ký chó chết nào đó đâu.”
“Không, ý em không phải thế.” Cô suy nghĩ một phút. Rồi cô gật đầu. “Anh đang hình tượng hóa những gì gã nói. Anh đang dùng ngôn ngữ của anh, không phải của gã. ‘Dân thành thị.’ ‘Tư duy duy lý.’ Em muốn những lời gã nói.”
“Chà, anh không nhớ những lời đó, Sachs. Gã nói gã không có thù hận cá nhân gì với những nạn nhân. Chấm hết.”
Cô lắc đầu. “Không, em cá là gã đã không nói thế.”
“Ý em là sao?”
“Những kẻ sát nhân không bao giờ nghĩ người chúng giết là ‘nạn nhân.’ Không thể nào. Chúng không bao giờ nhìn họ nhân đạo như thế. Ít ra là những kẻ làm theo mô thức như Gã phù thủy sẽ không như vậy.”
“Đó là chuyện nhảm nhí trong lớp tâm lý học vỡ lòng ở trường cảnh sát, Sachs.”
“Không, nó là trong thế giới thật. Chúng ta biết họ là nạn nhân, nhưng kẻ thủ ác luôn tin rằng họ đáng phải chết vì lý do này hay lý do khác. Hãy nghĩ về điều đó. Gã không nói ‘nạn nhân,’ đúng không?”
“Chà, như thế thì có gì khác chứ?”
“Vì gã nói họ đại diện cho điều gì đó và chúng ta phải tìm ra điều đó. Gã gọi họ thế nào?”
“Anh không nhớ.”
“Gã không nói là ‘nạn nhân.’ Điều đó thì em biết. Gã có nói về một người cụ thể nào không? Svetlana, Tony… Còn Cheryl Marston thì sao? Gã gọi cô ấy là người phụ nữ tóc vàng? Hay là luật sư? Gã có nói là người phụ nữ ngực lớn? Em đảm bảo rằng gã không nói là ‘dân thành thị.’”
Rhyme nhắm mắt, cố gắng nhớ lại. Cuối cùng anh lắc đầu. “Anh không…”
Và rồi một từ chợt nảy ra với anh.
“‘Người cưỡi ngựa.’”
“Sao cơ?”
“Em đã đúng. Từ đó không phải là ‘nạn nhân.’ Gã gọi cô ấy là ‘người cưỡi ngựa.’”
“Tuyệt vời!” Cô nói.
Rhyme cảm thấy một niềm tự hào phi lý bùng phát. “Còn những người khác thì sao?”
“Không, cô ấy là người duy nhất gã nhắc tới.” Rhyme chắc chắn về chuyện này.
Sellitto nói, “Vậy là gã nghĩ các nạn nhân là những người đang làm một việc cụ thể nào đó – đó có thể là hoặc không là công việc thực sự của họ.”
“Đúng,” Rhyme xác nhận. “Chơi nhạc. Trang điểm cho người khác. Cưỡi ngựa.”
“Nhưng chúng ta làm được gì với chuyện này?” Sellitto hỏi.
Và giống như Rhyme đã rất thường xuyên nói với cô, khi cô nêu ra cùng câu hỏi này về bằng chứng ở hiện trường tội ác, cô đáp, “Chúng ta chưa biết, thanh tra. Nhưng đó là một bước gần hơn tới việc hiểu được gã.” Nữ cảnh sát xem lại những ghi chú của cô. “Được rồi, gã làm trò với lưỡi lam, có nhắc tới màn Tấm gương cháy. Gã nói chuyện với quý khán giả thân mến của gã. Gã bị ám ảnh với lửa. Gã chọn một nghệ sĩ trang điểm, một nhạc công và một người cưỡi ngựa để sát hại vì những gì mà họ đại diện – dù cho điều đó có là gì. Anh còn nghĩ được gì khác không?”
Anh lại nhắm mắt. Cố nghĩ kỹ.
Nhưng chỉ thấy những lưỡi dao lam, ngọn lửa, mùi khói.
“Không,” anh nói, nhìn lại cô. “Anh nghĩ chỉ có thế thôi.”
“Được rồi. Tốt, Rhyme.”
Và anh nhận ra tông điệu trong giọng nói của cô.
Anh biết điều đó vì đó là giọng anh vẫn hay nói.
Nó có nghĩa là cô vẫn chưa xong đâu.
Sachs ngẩng lên khỏi những ghi chú của cô và nói chậm rãi, “Anh biết không, anh lúc nào cũng trích dẫn Locard69.”
69 Edmond Locard (1877 - 1966), nhà tội phạm học người Pháp, người tiên phong trong khoa học pháp y, được biết đến với cái tên “Sherlock Holmes của Pháp.”
Rhyme gật đầu khi cô nhắc tới thanh tra pháp y và nhà tội phạm học người Pháp thời kỳ đầu, người đã phát triển nguyên lý sau này được đặt theo tên ông. Quy tắc đó nói rằng ở mỗi hiện trường tội ác luôn có sự trao đổi bằng chứng giữa kẻ thủ ác và nạn nhân hay chính địa điểm, dù ít ỏi tới đâu.
“Em nghĩ là có cả sự trao đổi về tâm lý nữa. Giống như sự tiếp xúc vật chất.”
Rhyme cười lớn trước ý tưởng điên rồ đó. Locard là một nhà khoa học; ông hẳn sẽ bác bỏ việc áp dụng nguyên lý của mình cho một điều kém ổn định như tâm lý con người. “Ý em là gì?”
Cô nói tiếp, “Anh không bị bịt miệng trong suốt quãng thời gian đó, đúng không?”
“Không, chỉ vào lúc cuối thôi.”
“Vậy điều đó có nghĩa là anh cũng trao đổi điều gì đấy. Anh cũng tham gia vào việc tương tác.”
“Anh hả?”
“Không phải sao? Không phải là anh cũng nói gì đó với gã sao?”
“Đúng. Nhưng vậy thì sao? Những gì gã nói mới quan trọng.”
“Em đang nghĩ gã có thể đã nói gì đó đáp lại anh.”
Rhyme quan sát kỹ Sachs. Một vệt bồ hóng hình một phần tư mặt trăng trên má cô, mồ hôi lấm tấm trên môi trên vểnh lên của cô. Cô đang ngồi thẳng người, và dù giọng cô trầm tĩnh, anh có thể cảm nhận được sự căng thẳng vì tập trung trong tư thế của cô. Tất nhiên là cô không biết điều đó, nhưng cô có vẻ đang cảm thấy chính xác những gì mà anh cảm thấy khi anh hướng dẫn cô làm việc ở một hiện trường tội ác cách xa nhiều dặm.
“Hãy nghĩ về điều đó đi, Rhyme,” cô nói. “Hãy tưởng tượng rằng anh đang ở một mình với thủ phạm. Không nhất thiết phải là Gã phù thủy. Bất kỳ thủ phạm nào. Anh sẽ nói gì với tên đó? Anh muốn biết điều gì?”
Phản ứng của anh là tiếng thở dài mệt mỏi mà anh xoay xở sao cho nó nghe đầy vẻ yếm thế. Nhưng chắc chắn rồi, câu hỏi của cô đang nhảy múa trong tâm trí anh. “Anh nhớ rồi!” Anh nói. “Anh hỏi gã gã là ai.”
“Câu hỏi hay đấy. Và gã nói gì?”
“Gã nói gã là một phù thủy… Không, không chỉ là một phù thủy mà là điều gì đấy rất cụ thể.” Rhyme nheo mắt khi anh cố nhớ lại những diễn biến khó chịu đó. “Nó nhắc anh nghĩ tới Phù thủy xứ Oz… Phù thủy độc ác phương Tây.” Anh nhíu mày. Rồi anh nói, “Rồi, nhớ rồi. Gã nói gã là Phù thủy phương Bắc. Anh chắc chắn là thế.”
“Điều đó có ý nghĩa gì với cô không?” Sachs hỏi Kara.
“Không.”
“Gã nói mình có thể trốn thoát khỏi bất kỳ thứ gì. Trừ việc, gã không nghĩ là có thể trốn thoát khỏi chúng ta. Cụ thể là khỏi anh. Gã lo là sẽ bị chúng ta ngăn cản. Đó là lý do gã tới đây. Gã nói phải ngăn anh trước buổi chiều ngày mai. Đó là khi gã sẽ lại bắt đầu giết người nữa.”
“Phù thủy phương Bắc,” Sachs nói, nhìn qua những ghi chú của cô. “Giờ thì…”
Rhyme thở dài. “Anh thực sự nghĩ là hết rồi, Sachs. Giếng. Đã. Cạn.”
Sachs tắt máy ghi âm rồi nghiêng về phía trước với một miếng khăn giấy để lau mồ hôi trên trán anh. “Em hiểu. Giờ em định nói là anh cần một ly rượu. Được không?”
“Nếu em hoặc Kara rót,” Rhyme nói với cô. “Đừng để anh ta rót.” Hất đầu về phía Thom.
“Cô có muốn dùng gì không?” Thom hỏi Kara.
Rhyme nói, “Cô ấy sẽ muốn cà phê Ireland, tôi cá thế… Tại sao Starbucks không bán thứ đó nhỉ?”
Kara từ chối rượu nhưng xin một ly cà phê đen Maxwell House hay Folgers.
Sellitto hỏi xem có gì ăn được không bởi món bánh mì kẹp kiểu Cuba của anh đã không sống sót được qua chuyến trở lại căn nhà phố.
Lúc người trợ lý biến mất vào trong bếp, Sachs đưa những ghi chú của cô cho Kara và yêu cầu cô viết ra bất kỳ thứ gì cô nghĩ là có liên quan lên phần bảng của ảo thuật gia. Người phụ nữ trẻ đứng lên và đi vào phòng thí nghiệm.
“Tốt đấy,” Sellitto nói với Sachs, “cuộc thẩm vấn ấy. Tôi không biết có trung sĩ nào có thể làm được tốt hơn thế.”
Cô gật đầu công nhận mà không cười gì cả, nhưng Rhyme có thể nói là cô hài lòng với lời khen đấy.
Vài phút sau, Mel Cooper bước vào qua ngưỡng cửa, mặt anh cũng bị dính bẩn. Anh giơ lên một cái túi nhựa. “Đây là tất cả bằng chứng từ chiếc Mazda.” Trong túi có một thứ giống một tờ bốn trang – một tờ giấy lớn gấp lại – của báo The New York Times. Rõ ràng Sachs không phải là người kiểm tra hiện trường đó; bằng chứng ướt lẽ ra phải được chứa trong hộp giấy hay hộp sợi mắt lưới, chứ không phải túi nhựa, vốn làm rêu mốc tăng trưởng và có thể phá hủy nó nhanh chóng.
“Đây là tất cả những gì họ tìm thấy hả?” Rhyme hỏi.
“Cho tới giờ. Họ vẫn chưa đưa được chiếc xe lên. Như thế quá nguy hiểm.”
Rhyme hỏi anh, “Anh có xem được ngày không?”
Cooper kiểm tra tờ báo sũng nước. “Từ hai ngày trước.”
“Vậy thì nó phải là của Gã phù thủy,” Rhyme lưu ý. “Chiếc xe bị đánh cắp trước đó. Tại sao lại có người chỉ giữ một mảnh mà không phải toàn bộ tờ báo?” Câu hỏi đó, như nhiều câu hỏi khác của Rhyme, chỉ là câu hỏi tu từ và anh không bận lòng để người khác có cơ hội trả lời. “Vì trong đó có một bài báo quan trọng với gã. Và vì thế có thể quan trọng với chúng ta. Tất nhiên, gã có thể là một tên già dâm ô và thích các quảng cáo của Victoria’s Secret. Nhưng ngay cả điều đó cũng là thông tin có ích. Anh có đọc được gì trên đó không?”
“Không. Và tôi không muốn mở nó ra lúc này. Quá ướt.”
“Được rồi, đưa nó tới chỗ phòng thí nghiệm tài liệu đi. Nếu họ không mở nó ra được thì ít ra họ có thể chụp lại các dòng tít bằng máy hồng ngoại.”
Cooper sắp xếp để một người đưa tin đưa mẫu tới phòng thí nghiệm tội phạm NYPD ở Queens rồi gọi cho người đứng đầu bộ phận giám định tài liệu để xúc tiến việc phân tích. Anh biến mất vào trong phòng thí nghiệm để chuyển tờ báo sang một chỗ chứa tốt hơn.
Thom quay lại cùng mấy món đồ uống và một đĩa bánh mì kẹp, Sellitto tấn công ngay lập tức.
Vài phút sau, Kara trở lại, vui vẻ cầm cốc cà phê lên. Khi bắt đầu đổ đường vào, cô nói với Sachs, “Tôi đã viết những thứ chúng ta tìm được về gã trên bảng? Và tôi nảy ra một ý. Nên tôi gọi một cú điện thoại. Tôi nghĩ là tôi đã biết tên thật của gã.”
“Ai cơ?” Rhyme hỏi, nhấp ngụm whisky tuyệt diệu của anh.
“À, Gã phù thủy.”
Tiếng lanh canh mờ nhạt khi Kara khuấy đường trong cốc cà phê trở thành âm thanh duy nhất trong căn phòng bỗng trở nên im lặng như tờ.