M
ột cảnh sát NYPD mẫn cán, có thể vì nghe âm thanh lạ, có thể vì thấy một cánh cửa không khóa, đã bước vào con hẻm ở khu West Side. Mười lăm giây sau, một người đàn ông khác xuất hiện, mặc một chiếc áo len chui cổ màu đỏ nâu, quần bò bó, đội mũ bóng chày.
Không còn trong vai cảnh sát Larry Burke nữa, Malerick chủ tâm đi về phía Broadway. Nhìn mặt gã, chú ý vẻ tán tỉnh của gã khi liếc xung quanh – một cái nhìn như thể mồi chài – người ta sẽ ngỡ gã là một kẻ chuyên lang thang rình mò, đang hướng về một quán bar ở khu West Side để phục hồi cái tôi và khả năng tình dục, cả hai thứ đều giảm bớt gần đây khi gã bước vào tuổi trung niên.
Gã dừng lại ở một quán cocktail dưới hầm, liếc nhìn vào trong. Gã quyết định đó sẽ là một nơi tốt để tạm lánh cho tới lúc trở lại chỗ của Lincoln Rhyme và xem xem trận hỏa hoạn đã gây ra thiệt hại như thế nào.
Gã tìm thấy một ghế đẩu ở cuối quầy bar, gần bếp, và gọi một chai Sprite cùng bánh mì kẹp gà tây. Gã nhìn quanh: những máy chơi game dùng xu với âm thanh điện tử, một máy hát tự động bụi bặm, căn phòng ám khói và tối thui, nồng mùi mồ hôi, nước hoa và chất khử mùi, những tràng cười ré lên vì say rượu và tiếng rì rầm của những cuộc hội thoại vô nghĩa. Tất cả đưa gã trở lại với tuổi trẻ của mình ở thành phố xây trên cát ngày xưa.
Las Vegas là một tấm gương được vây quanh bởi những ngọn đèn chói mắt; dù nhìn chằm chằm vào nó vài tiếng nhưng tất cả những gì ta thực sự nhìn thấy là chính mình, với những vết rỗ, những nếp nhăn, sự phù phiếm, lòng tham, nỗi tuyệt vọng của ta. Đó là một nơi bụi bặm, khó sống, nơi mà ánh sáng hân hoan của Dải Las Vegas67 mờ nhạt đi rất nhanh sau chỉ một hay hai ngã tư và không tỏa được ra hết mọi nơi khác trong thành phố: những căn nhà xe kéo, những lán trại tồi tàn, những khu mua sắm bụi bặm, những hiệu cầm đồ bán nhẫn đính hôn, áo vest, tay chân giả – bất cứ thứ gì có thể kiếm được vài xu còm cõi.
67 Là một đoạn đường dài hơn sáu cây số thuộc Đại lộ Las Vegas, đây là nơi tọa lạc của các khách sạn, sòng bạc và khu nghỉ dưỡng lớn nhất thế giới.
Và khắp mọi nơi là sa mạc bụi bặm, vô tận, mờ ảo.
Malerick đã ra đời trong một thế giới như thế.
Cha gã là một người chia bài xì dách và mẹ là tiếp viên nhà hàng (cho tới khi bà trở nên quá nặng nề và phải chuyển sang làm công việc thu ngân), họ là hai người trong đội quân phục dịch ở Vegas, bị đám quản lý sòng bạc lẫn khách chơi đối xử như con sâu cái kiến. Hai người đã bỏ cả cuộc đời mình sống ngập trong tiền bạc nhưng họ chỉ có thể ngửi thấy mùi mực, mùi nước hoa và mồ hôi trên những tờ giấy đó, vĩnh viễn biết rằng đợt thác lũ đó chỉ trượt qua tay họ trong những khoảnh khắc ngắn ngủi nhất thời mà thôi.
Giống như nhiều đứa trẻ Vegas bị cha mẹ bỏ mặc vì họ phải làm những ca dài và vào giờ giấc trái khoáy – và như nhiều đứa trẻ khác sống trong những gia đình cay đắng như thế ở mọi nơi – con trai của họ đã lùi về một nơi mà nó tìm được chút an ủi.
Nơi đó với nó là dải Las Vegas.
Thưa quý khán giả thân mến, tôi đang giải thích về việc đánh lạc hướng – về cách ảo thuật gia chúng tôi khiến quý vị phân tâm bằng cách thu hút sự chú ý của quý vị ra khỏi màn biểu diễn với chuyển động, màu sắc, ánh sáng, sự ngạc nhiên, tiếng ồn. Chà, sự đánh lạc hướng không chỉ là một kỹ thuật trong ảo thuật; nó cũng là một khía cạnh của cuộc đời. Chúng ta đều tuyệt vọng khi bị lôi về phía ánh sáng chớp lóa và đều muốn tránh xa sự nhàm chán, đơn điệu, tránh xa những chuyện cãi vã trong gia đình, tránh xa những giờ đồng hồ dài nóng nực, không thể di chuyển ở rìa sa mạc, tránh xa những đứa trẻ khinh thị đuổi ta đi vì ta gầy gò và bẽn lẽn rồi đấm ta thật hung tợn…
Dải Las Vegas là nơi trốn lánh của gã.
Cụ thể là những cửa hàng bán đồ ảo thuật. Có rất nhiều nơi như thế; Las Vegas nổi tiếng là thủ đô của ảo thuật. Cậu bé đó thấy những cửa hàng như thế không chỉ là những hiệu bán lẻ: chúng là nơi mà những ảo thuật gia đầy cảm hứng, dù còn biểu diễn hay đã giải nghệ, ghé qua để chia sẻ những câu chuyện, các trò diễn và để tán gẫu.
Ở một trong những cửa hàng như thế, cậu bé đã biết được một điều quan trọng về mình. Cậu có thể gầy gò, bẽn lẽn và chạy chậm, nhưng cậu khéo léo một cách kỳ diệu. Những ảo thuật gia ở đó sẽ cho cậu xem những trò mở tay, cấu véo, bỏ đồ, giấu đồ và cậu sẽ nhận ra ngay lập tức. Một trong những người bán hàng đã nhướng mày khi nói về cậu bé mười ba tuổi đấy, “Một kẻ nhanh tay lẹ mắt bẩm sinh.”
Cậu bé nhíu mày, chưa bao giờ nghe thấy từ đó.
“Một ảo thuật gia người Pháp đã nghĩ ra từ đó hồi những năm một nghìn tám trăm,” người đàn ông giải thích. “‘Nhanh tay’ như trong từ nhanh. ‘Lẹ mắt,’ như trong từ mắt – nhanh tay lẹ mắt68.”
68 Nguyên văn là “prestidigitator,” tiếng Ý “presto” là “nhanh” (gốc từ tiếng Latinh “praesto,”) và “digit” là “ngón tay” (gốc từ tiếng Latin “digitus.”)
Cậu từ từ tin tưởng vào điều đó, rằng cậu không chỉ là một kẻ lạc loài trong gia đình, một bao cát ở sân chơi.
Mỗi ngày cậu tan học lúc ba giờ mười và đi thẳng tới cửa hàng ưa thích nhất, nơi cậu sẽ tán gẫu và học những trò biểu diễn. Ở nhà cậu tập không ngừng nghỉ. Một người quản lý cửa hàng sẽ thuê cậu để thỉnh thoảng biểu diễn những màn ngắn cho các khách thăm Hang ảo thuật ở phía sau cửa hàng.
Gã vẫn có thể mường tượng ra rõ ràng màn biểu diễn đầu tiên. Từ ngày đó trở đi, Houdini Trẻ – nghệ danh sân khấu đầu tiên của gã – sẽ dùng miệng lưỡi, hay sự bắt nạt, để bước lên sân khấu bất cứ khi nào có cơ hội. Được mê hoặc khán giả, làm họ vui thích, khiến họ tin tưởng, lừa gạt họ là một niềm vui hiếm có. Cả làm họ sợ hãi nữa. Gã thích làm họ sợ.
Cuối cùng gã bị bắt gặp – bởi mẹ gã. Người phụ nữ đó rốt cuộc nhận ra rằng cậu bé hiếm khi có mặt ở nhà và đã lục phòng gã để tìm hiểu lý do. “Tao tìm thấy số tiền này,” bà quát, đứng lên từ chỗ bàn ăn và đi vào trong bếp để bắt gã trả lời khi gã về nhà bằng lối cửa sau vào một tối nọ. “Giải thích đi.”
“Ở chỗ Abracadabra.”
“Là ai?”
“Chỗ cửa hàng? Gần Tropicana. Con định nói với mẹ…”
“Tao đã nói mày tránh xa khu đấy ra.”
“Mẹ, đó chỉ là một cửa hàng thôi. Một cửa hàng bán các đồ ảo thuật.”
“Mày đã ở đâu? Có uống rượu không? Để tao ngửi xem nào.”
“Mẹ, không.” Lùi lại, cậu bé sợ hãi trước người phụ nữ to lớn mặc chiếc áo phông lấm lem sốt mì Ý, hơi thở của bà thật kinh khủng.
“Họ mà bắt được mày trong một sòng bạc thì tao mất việc. Bố mày cũng mất việc.”
“Con chỉ ở cửa hàng thôi. Biểu diễn một chút. Thỉnh thoảng được người ta cho tiền.”
“Nhiều tiền thế mà thỉnh thoảng hả. Tao chưa bao giờ được cho tiền khi làm bồi bàn.”
“Con giỏi mà,” cậu bé nói.
“Vậy là tao… Biểu diễn hả? Biểu diễn gì?”
“Ảo thuật.” Gã đã chán. Gã từng nói với bà chuyện này mấy tháng trước rồi. “Xem nhé.” Gã diễn một trò với lá bài cho bà.
“Hay đấy,” bà nói, gật đầu. “Nhưng vì mày nói dối tao, tao sẽ giữ lại số tiền này.”
“Con không nói dối!”
“Mày không cho tao biết mày đang làm gì. Như thế cũng là nói dối.”
“Mẹ, tiền này là của con.” “Mày nói dối, tao tịch thu.”
Bà cố nhét số tiền vào trong túi quần bò ngay gần bụng. Rồi bà lưỡng lự. “Được rồi, đưa lại mày mười đồng. Nếu mày nói chuyện này cho tao biết.”
“Nói gì…?”
“Kể tao nghe xem. Mày có bao giờ thấy bố mày đi với Tiffany Loam không?”
“Con không biết… Người đó là ai?”
“Mày biết. Đừng có giả vờ là không. Con bồi bàn ở Sands với chồng nó qua đây ăn tối vài tháng trước. Nó mặc chiếc áo cánh màu vàng.”
“Con…”
“Mày có thấy bọn nó không? Lái xe ra sa mạc hôm qua?”
“Con không thấy.”
Bà dò xét gã thật kỹ và tin là gã đã nói thật. “Nếu mày thấy bọn nó thì cho tao biết.”
Rồi bà bỏ mặc gã ở đó và trở về với món mì Ý đã đông lại trên chiếc khay trước ti-vi trong phòng khách.
“Tiền của con mà, mẹ!”
“Câm miệng. Phạt gấp đôi.”
Một ngày nọ, khi đang trình diễn một màn nhỏ ở Abracadabra, cậu bé ngạc nhiên để ý thấy một người đàn ông mảnh khảnh, lạnh lùng bước vào cửa hàng. Khi ông đi về phía Hang ảo thuật, mọi ảo thuật gia và nhân viên bán hàng trong cửa hàng bỗng nhiên im lặng. Ông là một ảo thuật gia danh tiếng và đã xuất hiện ở Tropicana. Ông có tiếng là nóng tính và nổi tiếng bởi những màn trình diễn đen tối, đáng sợ.
Sau buổi diễn, nhà ảo thuật ra hiệu cho cậu bé tới gần và hất đầu về phía dòng chữ viết trên sân khấu. “Cậu tự gọi mình là ‘Houdini Trẻ’ à?”
“Phải.”
“Cậu nghĩ cậu xứng đáng với cái tên đó sao?”
“Cháu không biết. Chỉ là cháu thấy thích.”
“Diễn thêm xem nào.” Ông hất đầu về phía chiếc bàn nhung.
Cậu bé diễn tiếp, giờ thấy thật hồi hộp, bởi một huyền thoại đang dõi theo từng chuyển động của cậu.
Một cái gật đầu, có vẻ là chấp thuận. Việc một cậu bé mười bốn tuổi nhận được lời khen ngợi như thế khiến các ảo thuật gia trong phòng sửng sốt đến câm nín.
“Cậu muốn học một bài không?” Cậu bé gật đầu háo hức.
“Đưa mấy đồng xu đây.”
Cậu chìa tay đưa mấy đồng xu ra. Ảo thuật gia nhìn xuống, nhíu mày. “Chúng đâu rồi?”
Tay cậu không có gì. Nhà ảo thuật cười cay nghiệt trước vẻ lúng túng của cậu bé, ông đã lấy những đồng xu; những đồng hai mươi lăm xu đang ở trong tay ông. Cậu bé sửng sốt; cậu không hề cảm thấy gì.
“Giờ ta sẽ giữ đồng này trong không trung…”
Cậu bé nhìn lên nhưng bỗng nhiên bản năng mách bảo cậu, khép ngón tay lại ngay! Ông ấy sẽ đặt những đồng xu trở lại. Khiến cậu hổ thẹn trước một căn phòng đầy ảo thuật gia. Hãy chụp lấy tay ông ấy!
Bỗng nhiên, không hề nhìn xuống, nhà ảo thuật cứng người lại và thì thầm, “Cậu có chắc là muốn làm thế không?”
Cậu bé chớp mắt kinh ngạc. “Cháu…”
“Hãy nghĩ cho kỹ.” Ông liếc xuống tay cậu bé.
Houdini Trẻ nhìn vào lòng bàn tay cậu, đang sắp sửa chụp lấy tay của ảo thuật gia. Cậu sửng sốt thấy thứ mà người đàn ông đã đặt vào đấy, không phải những đồng xu mà là năm chiếc dao lam lưỡi kép. Nếu cậu nắm tay lại như dự tính, bàn tay Houdini Trẻ sẽ nát bấy.
“Để tôi xem tay cậu nào,” ông nói rồi lấy những lưỡi dao lam ra và làm chúng biến mất ngay lập tức.
Houdini Trẻ giơ bàn tay cậu lên và người đàn ông chạm vào chúng, lấy ngón cái của ông chọc vào chúng. Cậu bé cảm thấy như có dòng điện chạy qua.
“Cậu có đôi tay để trở thành nhà ảo thuật tài ba,” ông thì thầm để một mình cậu bé nghe thấy. “Cậu có quyết tâm và ta biết cậu có cả sự tàn nhẫn… Nhưng cậu không có tầm nhìn. Chưa có.” Một lưỡi dao lại hiện ra và người đàn ông dùng nó để cắt qua một mảnh giấy, mảnh giấy bắt đầu chảy máu. Ông vò mảnh giấy lại rồi mở nó ra. Không có vết cắt hay máu ở đâu cả. Ông đưa nó cho cậu, trên đó có một địa chỉ viết bằng mực đỏ.
Khi mà đám khán giả nhỏ bé ở đó lấy làm thích thú và vỗ tay với sự ngưỡng mộ, hay ghen tức thì nhà ảo thuật thì thầm, “Hãy tới gặp ta.” Ông nghiêng người về trước, môi khẽ lướt qua tai Houdini Trẻ. “Cậu còn phải học rất nhiều. Và ta còn phải dạy cậu rất nhiều.”
Cậu bé giữ địa chỉ của nhà ảo thuật nhưng không đủ can đảm để tới gặp ông. Rồi ở tiệc sinh nhật thứ mười lăm của cậu, mẹ cậu đã thay đổi vĩnh viễn chặng đường đời con trai mình khi lao vào rủa xả một tràng và phi một đĩa mì fettuccine vào ông chồng vì thông tin tình báo mới nhận được về cô Loam khét tiếng. Những cái chai bay qua bay lại, đồ lưu niệm vỡ tan, cảnh sát tới.
Cậu bé quyết định như vậy là quá đủ. Ngày hôm sau, cậu tới chỗ nhà ảo thuật, người đồng ý làm thầy dạy cậu. Thời điểm thật hoàn hảo. Hai ngày nữa, người đàn ông sẽ bắt đầu chuyến lưu diễn dài quanh nước Mỹ. Ông cần một trợ lý. Houdini Trẻ vét sạch tài khoản ngân hàng bí mật của cậu và làm đúng điều mà người cùng tên với cậu đã làm: bỏ nhà đi để trở thành ảo thuật gia. Tuy nhiên, có một khác biệt lớn giữa họ; không giống Harry Houdini, người đã bỏ nhà đi chỉ để kiếm tiền và giúp đỡ gia đình nghèo khó của ông, và sẽ sớm đoàn tụ với họ, Malerick sẽ không bao giờ gặp lại người thân của gã nữa.
“Này, anh sao thế?”
Một giọng khàn khàn của phụ nữ đánh thức gã khỏi những ký ức khó phai đó khi gã đang ngồi ở quầy bar của quán rượu thuộc khu Upper West Side. Gã đoán cô ta là khách quen ở đây. Một phụ nữ ngoài năm mươi nỗ lực bất thành để tạo ảo giác trẻ hơn mười tuổi, cô ta chọn nơi này để mồi chài chủ yếu là vì ánh sáng mờ ảo. Cô ta chuyển sang một ghế đẩu cạnh gã và ngả người về phía trước, để lộ khe ngực.
“Xin lỗi?”
“Chỉ hỏi xem anh thế nào thôi. Tôi nghĩ là chưa bao giờ gặp anh ở đây.”
“Mới tới thành phố được một, hai ngày.”
“À,” cô ta nói giọng lè nhè. “Tôi cần lửa.” Tạo ấn tượng khó chịu là gã phải coi việc được châm điếu thuốc cho cô ta là một đặc ân.
“Ồ, đương nhiên rồi,” gã nói.
Gã bật lửa và giơ lên. Gã quan sát ngọn lửa bập bùng dữ dội khi cô ta vòng những ngón tay xương xẩu màu đỏ quanh tay gã để đưa chiếc bật lửa tới môi cô ta.
“Cảm ơn.” Cô ta nhả một làn khói mỏng lên trần nhà. Khi cô ta nhìn lại, Malerick đã trả tiền và đang đi khỏi quầy bar.
Cô ta nhíu mày.
“Tôi phải đi.” Gã mỉm cười nói, “À, đây, cô có thể giữ cái này.”
Gã đưa cô ta chiếc bật lửa nhỏ bằng kim loại. Cô ta cầm lấy nó và chớp mắt. Cái nhíu mày của cô ta càng sâu hơn. Đó là bật lửa của chính cô ta, gã đã nẫng khỏi ví khi cô ta ngả người về phía gã.
Malerick thì thầm lạnh lùng, “Tôi đoán là cô không cần nó.”
Bỏ lại cô ta ở quầy bar với hai giọt nước mắt kéo theo mascara chảy xuống má, gã nghĩ rằng trong tất cả những trò ảo thuật tàn ác mà gã từng thực hiện và lên kế hoạch vào cuối tuần này – máu, việc cắt xẻ thịt người, ngọn lửa – có lẽ đây là trò đáng hài lòng nhất.
***
Cô nghe tiếng còi hụ khi họ còn cách nhà Rhyme hai ngã tư.
Tâm trí Amelia Sachs thật buồn cười: nghe thấy tiếng còi điện tử báo động từ một chiếc xe khẩn cấp, cô nghĩ âm thanh đó có vẻ tới từ hướng căn nhà phố của anh.
Tất nhiên là không thể nào, cô đinh ninh thế.
Thế thì trùng hợp quá.
Nhưng rồi, những ánh đèn chớp xanh và đỏ rộ lên ở Central Park West, chỗ nhà của anh.
Coi nào, cô gái, cô tự trấn an, chỉ là tưởng tượng thôi, bị kích thích vì ký ức về nhân vật kịch câm đáng sợ trên tấm băng-rôn phía trước lều của Cirque Fantastique trong công viên, những nghệ sĩ trình diễn đeo mặt nạ, nỗi kinh hoàng từ những vụ giết người của Gã phù thủy. Chúng đã khiến cô trở nên hoang tưởng.
Rờn rợn…
Hãy quên nó đi.
Chuyển chiếc túi mua sắm lớn có đồ ăn Cuba đầy mùi tỏi sang tay kia, cô và Kara đi tiếp dọc theo vỉa hè đông đúc, tán chuyện về các bậc phụ huynh, về sự nghiệp, về Cirque Fantastique. Về cả đàn ông.
Pằng, phằng…
Người phụ nữ trẻ nhấp ly cà phê Cuba đúp của cô, thứ mà cô nói là đã nghiện ngay khi nếm ngụm đầu tiên. Kara thấy nó không chỉ có giá bằng một nửa Starbucks mà còn mạnh gấp đôi. “Tôi không giỏi toán lắm, nhưng tôi nghĩ như thế có nghĩa là tốt gấp bốn,” người phụ nữ trẻ nói. “Nói cho cô biết, tôi thích những phát hiện như thế này. Những điều nhỏ nhặt trong cuộc sống, cô có nghĩ thế không?”
Nhưng Sachs đã quên mất cuộc nói chuyện. Một chiếc xe cứu thương nữa tăng tốc qua. Cô gửi theo một lời cầu nguyện là nó sẽ lướt qua nhà Rhyme.
Không hề. Chiếc xe phanh gấp ở ngã tư tiếp theo gần tòa nhà của anh.
“Không,” cô thì thầm.
“Có chuyện gì vậy?” Kara tự hỏi. “Một tai nạn sao?”
Tim đập nhanh, Sachs bỏ túi đồ ăn xuống và bắt đầu chạy thật nhanh về phía tòa nhà.
“Ôi, Lincoln…”
Kara theo sau cô, làm đổ cà phê nóng ra tay và ném cái ly đi. Cô chạy bên cạnh viên nữ cảnh sát. “Có chuyện gì?”
Khi rẽ ở góc đường, Sachs đếm được khoảng nửa tá xe cứu hỏa và cứu thương.
Ban đầu cô ngờ rằng anh bị một cơn tăng phản xạ tự phát. Nhưng đây rõ ràng là một vụ hỏa hoạn. Cô nhìn lên tầng hai và thở gấp vì sốc. Khói đang bốc ra từ cửa sổ phòng ngủ của Rhyme.
Chúa ơi, không!
Sachs cúi nhanh qua hàng rào cảnh sát và chạy về phía nhóm lính cứu hỏa ở cửa ra vào. Cô nhảy lên cầu thang trước, quên cả cơn thấp khớp. Rồi cô đi qua cửa, suýt nữa thì trượt ngã trên sàn đá hoa cương. Hành lang và phòng thí nghiệm có vẻ không hề hấn gì, nhưng một làn khói mỏng tràn ngập sảnh dưới lầu.
Hai lính cứu hỏa đang từ từ đi xuống cầu thang. Mặt họ lộ vẻ đã bỏ cuộc.
“Lincoln!” Cô hét lên.
Và lao lên cầu thang.
“Không, Amelia!” Giọng nói cộc cằn của Lon Sellitto cắt qua hành lang.
Cô quay lại, hoảng hốt, nghĩ rằng anh ta muốn ngăn không cho cô thấy xác đã cháy của anh. Nếu Gã phù thủy cướp mất Lincoln khỏi tay cô, gã sẽ phải chết. Không điều gì trên thế giới này ngăn được cô.
“Lon!”
Anh ra hiệu cho cô lùi lại khỏi cầu thang và ôm lấy cô. “Anh ấy không có trên đấy, Amelia.”
“Vậy…”
“Không, không, không sao. Anh ấy không sao. Thom đã đưa anh ấy vào phòng khách ở phía sau. Tầng này.”
“Cảm ơn Chúa,” Kara nói. Cô nhìn quanh sững sờ khi thấy nhiều lính cứu hỏa đi xuống cầu thang, những người đàn ông và phụ nữ thậm chí còn trông to lớn hơn bình thường bởi bộ đồng phục và trang thiết bị của họ.
Thom, mặt mày u ám, tới chỗ họ từ phía sau sảnh. “Anh ấy ổn, Amelia. Không bị phỏng, hít phải một ít khói. Huyết áp cao. Nhưng anh ấy đang được chăm sóc y tế. Sẽ ổn thôi.”
“Chuyện gì xảy ra vậy?” Cô hỏi viên thanh tra.
“Gã phù thủy,” Sellitto thì thầm. Anh thở dài. “Gã đã giết Larry Burke. Đánh cắp đồng phục của anh ấy. Gã lọt vào nhà bằng cách đó. Rồi gã đã lẻn lên phòng của Rhyme. Đốt lửa quanh giường anh ấy. Chúng tôi ở dưới này thậm chí không biết có chuyện xảy ra; có người thấy khói từ ngoài đường và gọi 911. Và bên Đội Khẩn cấp gọi cho tôi. Thom, Mel và tôi dập gần tắt đám cháy trước khi xe cứu hỏa tới.”
Cô hỏi Sellitto, “Tôi cho là chúng ta không bắt được gã, Gã phù thủy ấy?”
Một tiếng cười chua xót. “Cô nghĩ gì vậy? Gã đã biến mất. Tan biến trong không trung.”
***
Sau tai nạn khiến anh bị liệt, sau khi Rhyme đã thoát khỏi tình trạng đau buồn suốt nhiều tháng với niềm hy vọng chân anh sẽ đi lại được như cũ, anh đã từ bỏ điều bất khả đó và tập trung năng lượng và sức mạnh ý chí vào một mục tiêu hợp lý hơn.
Tự mình thở được.
Một kẻ liệt tứ chi như Rhyme – cổ anh bị gãy ở đốt sống thứ tư tính từ cuối xương sọ – đứng ở ranh giới của việc phải dùng máy thở. Dây thần kinh từ não đi xuống các cơ hoành có thể hoặc không thể hoạt động. Trong trường hợp của Rhyme, phổi anh lúc đầu có vẻ không hoạt động đúng cách và anh phải thở máy, với một chiếc ống được cấy vào ngực. Rhyme ghét thiết bị đó, với tiếng động cơ của nó và cảm nhận lạ lùng của việc không cần phải thở dù chính anh biết là không phải thế. (Cỗ máy cũng có một thói quen khó chịu là thỉnh thoảng lại dừng chạy.)
Rồi phổi anh đột nhiên bắt đầu hoạt động trở lại và anh được giải phóng khỏi thiết bị sinh học đó. Các bác sĩ nói sự cải thiện là nhờ việc cơ thể tái ổn định sau sang chấn một cách tự nhiên. Nhưng Rhyme biết câu trả lời thực sự. Anh đã tự mình làm điều đó. Bằng sức mạnh ý chí. Hít được hơi vào trong phổi – lúc đầu chỉ là những hơi thở yếu ớt, nhưng là tự anh thở – là một trong những thành tựu lớn nhất của đời anh. Anh đã nỗ lực rất nhiều với những bài tập có thể giúp tăng cảm nhận giác quan khắp cơ thể và thậm chí là nhúc nhích các chi; nhưng dù có thành công thế nào với những việc đó đi nữa, anh cũng không nghĩ là sự tự hào của anh lúc ấy có thể sánh được với khi anh lần đầu tiên gỡ máy thở ra.
Tối nay, nằm trong phòng cho khách nhỏ xíu, anh nhớ lại lúc thấy những đám mây khói bay ra từ vải vóc và giấy và đồ nhựa bị cháy xung quanh anh. Trong cơn hoảng loạn, anh ít nghĩ tới việc bị cháy tới chết và nghĩ nhiều hơn tới làn khói kinh khủng đang tràn vào phổi anh như những mảnh dằm kim loại và lấy đi chiến thắng duy nhất của anh trong cuộc chiến với tật nguyền. Như thể Gã phù thủy đã chọn được điểm yếu nhất của anh để tấn công.
Khi Thom, Sellitto và Cooper lao vào phòng, suy nghĩ đầu tiên của anh không phải là về những bình chữa cháy mà hai viên cảnh sát cầm trong tay, mà là bình khí oxy màu xanh lá cây người trợ lý mang theo. Anh chỉ nghĩ, Hãy cứu lấy những lá phổi của tôi!
Trước khi ngọn lửa tắt, Thom đã chụp mặt nạ oxy lên mặt anh và anh gấp gáp hít vào dòng khí ngọt ngào. Họ đưa anh xuống lầu và cả bác sĩ cấp cứu lẫn bác sĩ riêng của Rhyme đều kiểm tra anh, làm sạch và xử lý một số vết bỏng nhỏ và tìm kiếm kỹ vết cắt vì dao lam (không có vết nào; cũng không có lưỡi dao lam nào trong bộ đồ ngủ của anh). Chuyên gia về cột sống tuyên bố phổi của anh ổn, dù Thom nên xoay anh thường xuyên hơn bình thường để giữ cho chúng sạch sẽ.
Chỉ tới lúc đó Rhyme mới bình tĩnh lại. Nhưng anh vẫn rất lo lắng. Kẻ sát nhân đã làm một điều tàn ác hơn nhiều so với việc gây ra thương tật thể chất cho anh. Vụ tấn công nhắc Rhyme là sự sống của anh mong manh ra sao và tương lai của anh bất trắc thế nào.
Anh ghét cảm giác đó, bất lực và dễ tổn thương khủng khiếp.
“Lincoln!” Sachs đi nhanh vào phòng, ngồi trên chiếc giường Clinitron cũ và sà xuống ngực anh, ôm chặt anh. Anh hạ đầu xuống tóc cô. Cô đang khóc. Anh mới thấy cô khóc hai lần kể từ khi quen biết cô.
“Không gọi tên,” anh thì thầm. “Không may, nhớ không? Và chúng ta đã gặp đủ vận rủi cho hôm nay rồi.”
“Anh không sao chứ?”
“Ừ, anh không sao,” anh thì thầm, đau khổ vì nỗi sợ hãi phi lý là nếu anh nói lớn hơn, những hạt khói bằng cách nào đó sẽ đâm thủng và làm xẹp phổi anh. “Mấy con chim thế nào?” Anh hỏi, cầu nguyện là mấy con chim cắt lớn không việc gì. Anh không phiền nếu chúng chuyển sang một tòa nhà khác, nhưng anh sẽ rất khổ sở nếu biết chúng bị thương hay bị giết.
“Thom nói chúng ổn. Chúng đang đậu trên ngưỡng cửa khác.”
Cô ôm anh một lúc rồi Thom xuất hiện ở cửa vào. “Tôi phải xoay người cho anh.”
Viên nữ cảnh sát ôm anh lần nữa rồi bước lùi lại khi Thom tiến lại gần giường.
“Hãy rà soát hiện trường,” Rhyme nói với cô. “Gã phải bỏ lại thứ gì đó. Có chiếc khăn tay gã quấn quanh cổ anh. Và gã có mấy lưỡi dao lam.”
Sachs nói sẽ tiến hành việc đó ngay lập tức và rời căn phòng. Thom tiếp quản và bắt đầu làm sạch phổi anh một cách thành thạo.
Hai mươi phút sau Sachs trở lại. Cô cởi bộ áo liền quần Tyvek ra, cẩn thận gấp và xếp nó lại, cho vào chiếc valy thiết bị điều tra hiện trường.
“Không tìm thấy gì nhiều,” cô báo lại. “Đã lấy được chiếc khăn tay và vài dấu chân. Gã đi một đôi giày Ecco mới. Nhưng em không tìm thấy dao lam. Và bất kỳ thứ gì gã có thể bỏ lại đã bốc hơi. À, có một chai rượu whisky nữa. Nhưng em cho rằng đấy là của anh.”
“Phải, đúng rồi,” Rhyme thì thầm. Bình thường anh sẽ nói một câu đùa – điều gì đó về sự tàn nhẫn của việc dùng rượu Single Malt làm chất dẫn cháy trong một vụ cố ý phóng hỏa. Nhưng lúc này anh không còn tâm trạng đùa cợt.
Anh biết sẽ không có nhiều bằng chứng. Vì mức độ hủy hoại rộng khắp trong một vụ hỏa hoạn, những bằng chứng ở hầu hết các hiện trường thường chỉ tiết lộ nơi và cách thức trận hỏa hoạn xảy ra. Nhưng họ đã biết điều đó rồi. Dẫu vậy, anh nghĩ vẫn sẽ có nhiều hơn thế.
“Còn miếng băng keo thì sao? Thom đã gỡ nó ra và bỏ nó.”
“Không có băng keo.”
“Hãy tìm chỗ đằng sau đầu giường. Gã phù thủy từng đứng ở đó. Gã có thể đã…”
“Em tìm rồi.”
“Tìm lại đi. Em chắc đã lỡ thứ gì đó. Hẳn là thế.”
“Không,” cô đáp.
“Sao cơ?”
“Hãy quên hiện trường tội ác đi. Nó cháy hết rồi. Cứ cho là thế đi.”
“Chúng ta cần phải giúp vụ chết tiệt này tiến triển.”
“Chúng ta sẽ làm thế, Rhyme. Em sẽ đi hỏi nhân chứng.”
“Có nhân chứng sao?” Anh càu nhàu. “Không ai nói với anh là có nhân chứng đấy.”
“À, có đấy.”
Cô bước tới cửa, gọi xuống hành lang để Lon Sellitto tham gia với họ. Anh chen vào, ngửi chiếc áo khoác của mình và nhăn mũi. “Bộ vest hai trăm bốn mươi đô-la chết tiệt. Lịch sử. Chó chết. Chuyện gì vậy, sĩ quan?”
“Tôi sẽ phụ trách hỏi nhân chứng, Thiếu úy. Anh có máy ghi âm ở đây chưa?”
“Chắc chắn rồi.” Anh lấy máy ra khỏi túi và đưa nó cho cô. “Có nhân chứng sao?”
Rhyme nói, “Quên nhân chứng đi, Sachs. Em biết họ không đáng tin thế nào mà. Hãy dựa vào bằng chứng.”
“Không, chúng ta sẽ có được thứ gì đó hay ho. Em chắc chắn là thế.”
Anh liếc mắt ra cửa. “Vậy đó là kẻ quái nào thế?”
“Anh,” cô nói, kéo chiếc ghế lại gần giường.