• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Người biến mất
  3. Trang 35

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 34
  • 35
  • 36
  • More pages
  • 60
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 34
  • 35
  • 36
  • More pages
  • 60
  • Sau

Chương hai mươi chín

S

áng Chủ nhật trôi qua đầy thất vọng khi cuộc tìm kiếm Erick Weir vẫn giậm chân tại chỗ.

Nhóm biết được rằng sau trận hỏa hoạn ở Ohio, tay ảo thuật gia đã ở lại khoa bỏng của một bệnh viện địa phương trong vài tuần rồi tự ý rời đi, không chính thức làm thủ tục xuất viện. Có hồ sơ cho thấy gã đã bán căn nhà ở trung tâm Las Vegas không lâu sau đó, nhưng không có hồ sơ về việc mua một căn nhà khác. Tuy nhiên, Rhyme ngờ rằng trong một thành phố toàn xài tiền mặt như thế, người ta có thể dễ dàng mua được một chốn nho nhỏ trên sa mạc bằng một đống giấy bạc mà không cần phải hỏi gì cũng không cần giấy tờ chính thức.

Nhóm xoay xở tìm được mẹ người vợ quá cố của Weir. Nhưng bà Cosgrove không biết gã ở đâu. Gã chưa bao giờ liên lạc với họ sau tai họa đó để gửi lời chia buồn về cái chết của con gái họ. Tuy nhiên, bà nói là mình cũng không ngạc nhiên. Bà giải thích rằng Weir là một kẻ ích kỷ, độc ác, kẻ đã trở nên ám ảnh với đứa con gái nhỏ của bà và cuối cùng thôi miên nó khiến nó lấy gã. Không ai trong gia đình Cosgrove có liên lạc gì với Weir.

Cooper tập hợp những thông tin còn lại từ những lần tìm kiếm trên máy tính về Weir, nhưng không có gì nhiều. Không có báo cáo nào trên VICAP hay NCIC. Không có chi tiết gì khác thêm về gã, các cảnh sát lần theo gia đình Weir chỉ tìm thấy thông tin là cha mẹ gã đều đã chết, rằng gã là con một và không có người thân trực hệ nào có thể xác định được.

Đến cuối buổi sáng, người trợ lý kia của Weir, Art Loesser, gọi lại cho họ từ Las Vegas. Anh ta không ngạc nhiên khi biết sếp cũ có liên quan tới một tội ác và nói lại những gì họ đã biết: rằng Weir là một trong những ảo thuật gia xuất sắc nhất thế giới, nhưng gã quá coi trọng nghề nghiệp đó và nổi tiếng với những màn ảo thuật nguy hiểm cùng tính khí cáu bẳn. Loesser vẫn còn gặp ác mộng về thời làm tập sự cho gã.

Tôi nói “tổn thương.” Ý tôi là “ám ảnh.” Anh ta vẫn còn ám tôi.

“Tất cả những trợ lý trẻ đều chịu ảnh hưởng của người thầy,” Loesser nói với nhóm qua loa. “Nhưng người trị liệu tâm lý cho tôi nói rằng trong trường hợp của Weir, chúng tôi bị anh ta thôi miên.”

Vậy là cả hai người họ đều đi trị liệu.

“Anh ta nói rằng việc ở cùng Weir tạo ra một mối quan hệ theo kiểu hội chứng Stockholm. Anh biết điều đó không?”

Rhyme nói anh biết – đó là khi con tin hình thành mối quan hệ gần gũi, thậm chí thấy quý mến và yêu thương kẻ bắt cóc.

“Lần cuối anh gặp anh ta là khi nào?” Sachs hỏi. Bài tập đánh giá đã kết thúc, hôm nay cô mặc quần áo thoải mái – quần bò và một chiếc áo len màu xanh lá cây.

“Trong bệnh viện, ở khoa bỏng. Vào khoảng ba năm trước. Lúc đầu tôi tới thăm anh ta khá thường xuyên, tất cả những gì anh ta nói là phải tính sổ với bất kỳ kẻ nào làm tổn thương anh ta hay không đồng ý với kiểu ảo thuật của anh ta. Rồi anh ta biến mất và tôi không bao giờ gặp lại anh ta nữa.”

Nhưng rồi, người học việc cũ giải thích, Weir bỗng nhiên gọi lại khoảng hai tháng trước. Cùng một thời điểm, Rhyme nhớ lại lời của người trợ thủ kia. Vợ của Loesser là người nhận cuộc gọi đó. “Anh ta không để lại số và nói sẽ gọi lại nhưng không bao giờ gọi. Cảm ơn Chúa. Thực lòng, tôi không biết mình có thể xử lý nổi cuộc gọi đấy không.”

“Anh có biết anh ta ở đâu khi gọi tới không?”

“Không. Tôi đã hỏi Kathy – tôi sợ là anh ta đã trở lại thành phố – nhưng cô ấy nói anh ta không cho biết mình ở đâu và cuộc gọi là từ một số ‘ngoài vùng.’”

“Anh ta không nói với vợ anh là anh ta gọi tới vì việc gì à? Anh có đầu mối nào để biết anh ta ở đâu không?”

“Cô ấy nói anh ta nghe có vẻ kỳ lạ, bực dọc. Anh ta thầm thì, khó mà nghe được. Tôi nhớ điều đó bắt đầu từ sau trận hỏa hoạn. Phổi anh ta bị thương tổn. Khiến anh ta còn đáng sợ hơn.”

Tôi biết, Rhyme nghĩ.

“Anh ta hỏi xem chúng tôi có nghe tin gì về Edward Kadesky không – ông ấy là giám đốc rạp Hasbro khi vụ hỏa hoạn xảy ra. Thế thôi.”

Loesser không thể cung cấp được thông tin nào có ích và họ gác máy.

Thom để hai nữ cảnh sát vào phòng thí nghiệm. Sachs gật đầu chào và giới thiệu họ với Rhyme. Diane Franciscovich và Nancy Ausonio.

Anh nhớ lại, họ là những cảnh sát phản ứng hiện trường ở vụ giết người đầu tiên và đã được phân công lần theo cái còng tay cũ.

Franciscovich nói, “Chúng tôi đã nói chuyện với tất cả những người bán hàng mà giám đốc bảo tàng đề xuất.” Cả hai nữ cảnh sát, người cao lớn tóc nâu và người thấp hơn tóc vàng, đều có vẻ rất mệt mỏi. Họ đã rất nghiêm túc với nhiệm vụ của mình, và có lẽ đã không ngủ chút nào từ tối hôm trước.

“Đó là còng tay Darby, như anh nghĩ,” Ausonio nói. “Chúng khá hiếm và đắt tiền. Nhưng chúng tôi có một danh sách của mười hai người…”

“Ôi, Chúa ơi, nhìn kìa.” Franciscovich chỉ vào bản đồ nhân chứng, nơi Thom đã viết:

• Nhân thân nghi phạm: Erick A. Weir.

Ausonio lật qua những tờ giấy cô đang cầm trong tay. “Erick Weir đặt mua qua thư một cặp còng tay từ cửa hàng Ridgeway Antique Weapons ở Seattle tháng trước.”

“Địa chỉ?” Rhyme hỏi đầy phấn khích.

“Hộp thư bưu điện ở Denver. Chúng tôi đã kiểm tra. Nhưng địa chỉ đó sai. Không có hồ sơ gì về một địa chỉ thường trú.”

“Và không có hồ sơ gì về việc Weir từng sống ở Denver.”

“Phương pháp thanh toán?” Sachs hỏi.

“Tiền mặt,” là câu trả lời đồng thanh từ Ausonio và Rhyme. Anh nói thêm, “Gã sẽ không phạm phải những sai lầm ngu xuẩn. Không đâu. Đầu mối này là ngõ cụt. Nhưng ít ra chúng ta xác định được rằng gã chính là người cần tìm.”

Rhyme cảm ơn các cảnh sát và Sachs tiễn họ ra cửa.

Một cuộc gọi khác vào máy của Rhyme. Mã vùng của số hiện ra trông rất quen, nhưng Rhyme không thể xác định được. “Lệnh, trả lời điện thoại… Xin chào?”

“Thưa ông. Tôi là thiếu úy Lansing, cảnh sát bang. Tôi đang cố liên lạc với thanh tra Roland Bell. Tôi được biết số này là điểm chỉ huy tạm thời của anh ấy.”

“Này, Harv,” Bell gọi và đi gần lại loa. “Tôi đây.” Anh giải thích với Rhyme, “Liên lạc viên của chúng ta về vụ Constable ở Canton Falls.”

Lansing nói tiếp, “Chúng tôi đã nhận được bằng chứng anh gửi tới sáng nay. Người bên pháp y của tôi đã xem qua. Chúng tôi cũng cử vài thanh tra tới nói chuyện với vợ của Swensen – tay mục sư mà các anh bắt được tối hôm qua. Bà ấy không cung cấp được điều gì có ích và người của tôi không tìm thấy thứ gì trong căn nhà xe kéo có thể kết nối ông ta với Constable hay bất kỳ ai trong Hội Ái quốc.”

“Không gì hết sao?” Bell thở dài. “Tệ quá. Tôi tưởng ông ta là loại người bất cẩn, dễ bị kích động.”

“Có lẽ mấy gã bên Hội Ái quốc đã tới đó trước và dọn dẹp sạch sẽ rồi.”

“Điều đó khó có khả năng xảy ra. Trời, tôi cảm thấy chúng ta cần chút may mắn ở đây. Được rồi, tiếp tục đi, Harv. Cảm ơn.”

“Chúng tôi sẽ báo cho anh biết nếu tìm được gì nữa, Roland.”

Họ gác máy.

“Vụ Constable rồi cũng khó như vụ này.” Anh hất đầu về phía mấy tấm bảng trắng.

Lại có tiếng gõ cửa.

Cầm trên tay một ly cà phê lớn, Kara bước vào phòng, nhìn mệt mỏi và phờ phạc hơn cả những nữ cảnh sát.

Sellitto đang có bài diễn văn về những cách thức mới để giảm cân thì bài giảng kiểu Jenny Craig73 của anh bị cắt ngang bởi một cuộc điện thoại nữa.

73 Jenny Craig, sinh năm 1932, là chuyên gia về giảm cân người Mỹ.

“Lincoln hả?” Giọng nói vang lên trên loa. “Bedding đây. Chúng tôi nghĩ là đã thu hẹp được chiếc chìa khóa xuống còn ba khách sạn. Lý do chậm trễ như thế là…”

Giọng cộng sự của anh, Saul, cắt ngang. “Hóa ra rất nhiều khách sạn cho thuê theo tháng và cho thuê dài hạn cũng sử dụng những chiếc thẻ chìa khóa đó.”

“Chưa kể tới những nơi cho thuê theo giờ. Nhưng đó là một câu chuyện hoàn toàn khác.”

“Chúng tôi đã kiểm tra tất cả. Dẫu sao, đây là những gì chúng tôi tìm thấy. Tôi cho là có lẽ, có lẽ, hoặc là Chelsea Lodge, hoặc là Beckman hoặc là… là gì nhỉ?”

“Hoặc là Lanham Arms,” cộng sự của anh nói.

“Đúng vậy. Đó là những nơi duy nhất dùng mẫu 42 màu xám. Hiện chúng tôi đang ở Beckman. Đường 34 và đường 5. Chúng tôi đang định thử nó đây.”

“Ý anh là gì khi nói thử nó?” Rhyme nói.

“Nói thế nào nhỉ?” Bedding hoặc Saul tự nhủ. “Những chìa khóa này chỉ dùng được một phía, còn phía kia thì không được.”

“Tức là sao?” Rhyme hỏi.

“Tức là, chỉ có ổ khóa trên cửa phòng khách sạn đọc được chìa. Thiết bị ở bàn lễ tân tạo mã cho thẻ chìa khóa trắng không thể đọc được thẻ đã được tạo và xác định được số phòng.”

“Tại sao lại không? Thế thì thật điên rồ.”

“Không ai có nhu cầu biết chuyện đó.”

“Tất nhiên, trừ chúng ta, đó là lý do chúng tôi phải đi từng phòng và thử tất cả chúng.”

“Chó chết,” Rhyme nói.

“Cũng là cảm tưởng của chúng tôi,” một trong hai thanh tra cảnh sát nói.

Sellitto hỏi. “Được rồi. Các anh có cần thêm người không?”

“Không. Chúng tôi chỉ có thể đi từng cửa một. Không có cách nào khác. Và nếu có một vị khách mới trong phòng…”

“… thì chiếc thẻ sẽ không còn hiệu lực. Điều đó cũng không giúp ích gì cho tâm trạng của chúng tôi.”

“Này, các quý ông?” Bell nói vào điện thoại. “Đang nghe đây, Roland.”

“Chúng tôi đã nhận được giọng.”

“Anh nói là Lanham Arms. Chỗ đó ở đâu đấy?”

“Đường 75 Đông. Gần Lex.”

“Tên nghe quen quen. Không nhớ chính xác được.” Bell nhíu mày, lắc đầu.

“Đó là khách sạn tiếp theo trong danh sách của chúng tôi.”

“Sau Beckman.”

“Với sáu trăm tám mươi hai phòng. Tốt hơn là nên làm thôi.”

Họ để Cặp song sinh bắt tay vào công việc khó nhọc đấy.

Máy tính của Cooper kêu bíp và anh đọc một thư điện tử vừa gửi tới. “Phòng thí nghiệm FBI ở Washington… Cuối cùng đã có báo cáo về dằm kim loại tìm thấy trong túi thể thao của Gã phù thủy. Họ nói các dấu vết cho thấy chúng tương đồng với phần máy của đồng hồ.”

“Nó không phải là đồng hồ,” Rhyme nói. “Rõ ràng là thế.”

“Làm sao anh biết?” Bell hỏi.

“Đó là một kíp nổ,” Sachs nói nghiêm trang.

“Tôi cũng cho là thế,” Rhyme xác nhận.

“Như quả bom xăng kia hả?” Cooper hỏi, hất đầu về phía chiếc khăn tay “kỷ niệm” thấm đẫm xăng mà Weir bỏ lại tối qua.

“Có khả năng.”

“Gã có nguồn dẫn xăng và gã bị ám ảnh bởi lửa. Gã sẽ thiêu nạn nhân tiếp theo.”

Giống như những gì đã xảy ra với anh.

Trận hỏa hoạn đã giết chết gã – con người cũ của gã – và bằng cách giết người khác, gã cảm thấy khá hơn; nó làm giảm sự lo lắng và giận dữ dâng cao trong gã…

Rhyme để ý là đã sắp mười hai giờ. Gần trưa rồi… Nạn nhân tiếp theo sẽ sớm thiệt mạng. Nhưng khi nào? Mười hai giờ một phút hay bốn giờ? Một cơn ớn lạnh vì thất vọng và giận dữ bắt đầu dâng lên dưới hộp sọ anh rồi biến mất trong cơ thể mất cảm giác của anh. Họ còn quá ít thời gian.

Có thể chẳng còn thời gian nữa.

Nhưng anh không thể đi tới kết luận dựa trên những bằng chứng họ có. Và ngày cứ thế trôi đi, chậm rãi như một cuộc truyền tĩnh mạch.

Một văn bản fax tới. Cooper đọc nó. “Từ tài liệu của người khám nghiệm ở Queens. Họ đã mở tờ báo trong chiếc Mazda. Không có ghi chú ở đâu cả và không có gì được khoanh lại. Còn đây là những dòng tít.”

Anh gõ lên bảng.

Cúp điện. Đóng đồn cảnh sát gần 4 tiếng

New York trước Đại hội Đảng Cộng hòa.

Phụ huynh biểu tình vì an ninh yếu kém ở trường nữ sinh.

Âm mưu giết người của lực lượng dân quân. Phiên tòa bắt đầu hôm thứ Hai.

Lễ hội cuối tuần ở MET để quyên tiền từ thiện. Giải trí mùa xuân cho trẻ em.

Thống đốc, thị trưởng họp về kế hoạch mới cho khu West Side.

“Một trong các dòng tít đó là điều quan trọng,” Rhyme nói. Nhưng dòng nào? Phải chăng kẻ sát nhân đang nhắm tới trường nữ sinh? Hay lễ hội? Phải chăng gã đã thử nghiệm một trò làm ngắt điện ở đồn cảnh sát? Anh thấy càng chán nản hơn vì họ có thêm vài bằng chứng mới, nhưng ý nghĩa của nó vẫn chưa được hiểu hết.

Điện thoại của Sellitto reo. Lúc anh nghe máy, mọi người nhìn anh chằm chằm, chờ đợi tin có thêm người chết.

Giờ là một giờ ba phút.

Đã qua trưa lâu rồi, đã tới giờ giết chóc.

Nhưng có vẻ tin tức nhận được không phải là tin xấu. Viên thanh tra nhướng mày ngạc nhiên một cách hài lòng và nói vào điện thoại, “Đúng rồi… Thật sao? À, không xa lắm. Ông có thể tới đây được không?” Sau đó anh đọc địa chỉ của Rhyme và gác máy.

“Ai vậy?”

“Edward Kadesky. Tay giám đốc gánh xiếc ở Ohio, nơi mà Weir bị bỏng. Ông ta đang trong thành phố. Ông ta đã nhận được tin nhắn ở Chicago và tới đây nói chuyện với chúng ta.”

 

GÃ PHÙ THỦY

Hiện trường tội ác trường Âm nhạc

• Mô tả nghi phạm: Tóc nâu, râu giả, không có gì nổi bật, tầm vóc trung bình, chiều cao trung bình, tuổi: ngoài năm mươi. Ngón tay đeo nhẫn và ngón út dính với nhau. Thay đồ nhanh để giống một người gác cổng lớn tuổi, hói đầu.

• Không có động cơ rõ ràng.

• Nạn nhân: Svetlana Rasnikov.

• Sinh viên âm nhạc toàn thời gian

• Kiểm tra gia đình, bạn bè, các sinh viên, đồng nghiệp để có thêm đầu mối khả dĩ.

• Không có bạn trai, không có kẻ thù. Trình diễn ở tiệc sinh nhật cho trẻ em.

• Bảng mạch điện tử có gắn loa.

• Đã gửi cho phòng thí nghiệm FBI, thành phố New York.

• Máy ghi âm kỹ thuật số, có thể chứa giọng nói của nghi phạm. Mọi dữ liệu đã bị hủy.

• Đoạn ghi âm là một “mánh.” Tự làm.

• Sử dụng còng tay sắt kiểu cũ để còng nạn nhân.

• Còng tay là loại Darby. Scotland Yard. Kiểm tra với Bảo tàng Houdini ở New Orleans để có thêm đầu mối.

• Phá hủy đồng hồ của nạn nhân vào đúng 8 giờ sáng.

• Dây vải giữ ghế. Loại dây thường. Quá nhiều nguồn cung cấp.

• Pháo tạo hiệu ứng tiếng súng. Đã bị hủy. Quá nhiều nguồn cung cấp.

• Dây dẫn cháy. Loại phổ biến. Quá nhiều nguồn cung cấp.

• Cảnh sát hiện trường cho biết có đèn nháy trong không trung. Không tìm thấy vật liệu liên quan.

• Là vải chớp sáng hoặc giấy chớp sáng.

• Quá nhiều nguồn cung cấp.

• Giày của nghi phạm: hiệu Ecco cỡ 10.

• Sợi tơ, nhuộm màu xám, đã xử lý để trở nên mờ xỉn.

• Từ bộ đồ người gác cổng thay nhanh.

• Đối tượng có thể đội tóc giả màu nâu.

• Gỗ hồ đào đỏ và địa y Parmelia, được tìm thấy chủ yếu ở công viên Trung Tâm.

• Bụi có dính dầu khoáng khác thường. Đã gửi cho FBI để phân tích.

• Dầu Tack-Pure dùng cho yên cương và da.

• Mảnh lụa đen, khoảng 1,8 x 1,2 mét. Được dùng làm vật ngụy trang. Không thể truy nguồn gốc.

• Các ảo thuật gia thường xuyên sử dụng.

• Đeo bọc ngón tay của ảo thuật gia để giấu vân tay.

• Dấu vết cao su, dầu thầu dầu, mỹ phẩm.

• Đồ hóa trang cho sân khấu.

• Dấu vết alginate.

• Sử dụng trong các “thiết bị” tạo khuôn cao su.

• Vũ khí giết người: dây thừng lụa trắng với lõi là lụa đen.

• Sợi thừng là một trò ảo thuật. Màu sắc thay đổi. Không truy được nguồn gốc.

• Nút thắt khác thường.

• Đã được gửi cho FBI và Bảo tàng Hàng hải – không có thông tin gì.

• Các nút thắt giống như trong những màn trình diễn của Houdini, gần như không thể cởi ra.

• Dùng mực vô hình trong sổ đăng ký.

Hiện trường tội ác ở East Village

• Nạn nhân thứ hai: Tony Calvert.

• Nghệ sĩ trang điểm, đoàn kịch.

• Không có kẻ thù.

• Có vẻ không có liên hệ gì với nạn nhân thứ nhất.

• Không có động cơ rõ ràng.

• Nguyên nhân tử vong:

• Vết thương do vật cùn đập vào đầu, sau đó cơ thể bị cắt ra khi đã chết bằng cưa tay.

• Hung thủ trốn thoát giả làm một phụ nữ ngoài bảy mươi. Kiểm tra khu vực lân cận xem có đồ hóa trang bị bỏ đi và các bằng chứng khác không.

• Không tìm thấy gì.

• Đồng hồ bị đập chính xác lúc 12 giờ.

• Có thể là mô thức không? Nạn nhân tiếp theo có thể bị hại vào 4 giờ chiều.

• Hung thủ trốn đằng sau tấm gương. Không thể truy nguồn gốc. Vân tay đã được gửi cho FBI.

• Không có vân tay nào khớp.

• Sử dụng mèo đồ chơi (“feke”) để dụ nạn nhân vào con hẻm. Món đồ chơi không thể truy nguồn gốc.

• Tìm thấy thêm dầu khoáng, giống ở hiện trường thứ nhất. Đang đợi báo cáo của FBI.

• Dầu Tack-Pure cho yên cương và da.

• Tìm thấy thêm cao su và đồ trang điểm từ những miếng bịt ngón tay.

• Tìm thấy thêm alginate.

• Để lại giày Ecco.

• Tìm thấy lông chó trên giày, từ ba giống chó khác nhau. Cả phân nữa.

• Là phân ngựa, không phải phân chó.

Hiện trường tội ác sông Hudson và những khu vực liên quan

• Nạn nhân: Cheryl Marston.

• Luật sư.

• Ly dị nhưng chồng cũ không phải là nghi can.

• Không có động cơ.

• Nghi phạm nói tên là “John.” Có sẹo ở cổ và ngực. Bàn tay dị dạng được xác nhận.

• Nghi phạm thay đồ nhanh thành một doanh nhân không có râu, mặc quần tây và áo sơ- mi dài tay, rồi một tay đi mô-tô mặc áo phông Harley vải bò.

• Chiếc xe vẫn ở dưới sông Harlem. Nghi phạm có thể đã đen.

• Mực không phai, màu trốn thoát.

• Keo dán để bịt miệng. Không truy được nguồn gốc.

• Pháo giống như lần trước. Không truy được nguồn gốc.

• Dây xích và khóa, loại phổ biến, không truy được nguồn gốc.

• Dây thừng, loại phổ biến, không truy được nguồn gốc.

• Thêm đồ trang điểm, cao su và dầu Tack-Pure.

• Túi tập thể dục, sản xuất ở Trung Quốc, không truy được nguồn gốc. Bao gồm:

• Dấu vết của loại thuốc dùng trong những vụ hiếp dâm flunitrazepam.

• Sáp dính của ảo thuật gia, không truy được nguồn gốc.

• Dăm đồng (?). Đã gửi cho FBI.

• Nhất quán với máy trong đồng hồ. Có thể là thiết bị bom hẹn giờ.

• Mực không phai, màu đen

• Tìm thấy áo gió màu xanh hải quân, không có chữ viết tắt hay ký hiệu của tiệm giặt ủi. Bao gồm:

• Thẻ phóng viên của kênh truyền hình cáp CTN, thẻ của Stanley Saferstein. (Anh ta không phải là nghi phạm – tìm kiếm trên NCIC, VICAP không cho ra kết quả.)

• Thẻ chìa khóa khách sạn bằng nhựa, American Plastic Cards, Akron, Ohio. Mẫu APC- 42, không có dấu vân tay.

• CEO đang tìm hồ sơ bán hàng.

• Các cảnh sát Bedding và Saul đang lùng các khách sạn.

• Khoanh lại còn các khách sạn Chelsea Lodge, Beckman và Lanham Arms. Vẫn đang kiểm tra.

• Hóa đơn nhà hàng ở Riverside Inn, Bedford Junction, NY, cho thấy có bốn người ăn trưa, bàn 12, ngày thứ Bảy, hai tuần trước. Gà tây, bánh thịt xay, bít-tết, món đặc biệt trong ngày. Nước ngọt. Nhân viên nhà hàng không biết khách ăn là ai. (Đồng phạm?)

• Con hẻm nơi Gã phù thủy bị bắt.

• Phá khóa còng tay.

• Nước bọt (đồ phá khóa giấu trong miệng).

• Không xác định được nhóm máu.

• Dao cạo nhỏ để thoát khỏi dây trói (cũng được giấu trong miệng).

• Không biết cảnh sát Burke đang ở đâu.

• Có tin thi thể ở đâu đó thuộc khu Upper West Side.

Hiện trường sông Harlem:

• Không có bằng chứng, trừ dấu trượt trên bùn.

• Tờ báo lấy từ chiếc xe. Các dòng tít:

Cúp điện. Đóng đồn cảnh sát gần 4 tiếng

New York trước Đại hội Đảng Cộng hòa

Phụ huynh biểu tình vì an ninh yếu kém ở trường nữ sinh

Âm mưu giết người của lực lượng dân quân. Phiên tòa bắt đầu hôm thứ Hai

Lễ hội cuối tuần ở MET quyên tiền cho từ thiện

Giải trí mùa xuân cho trẻ em

Thống đốc, thị trưởng họp về kế hoạch mới cho khu West Side.

Hiện trường tội ác vụ Lincoln Rhyme

• Nạn nhân: Lincoln Rhyme.

• Nhân thân nghi phạm: Erick A. Weir.

• LKA Las Vegas.

• Bị bỏng trong vụ hỏa hoạn ở Ohio từ ba năm trước. Gánh xiếc Hasbro và Keller Brothers. Biến mất sau đó. Bỏng độ ba. Nhà sản xuất là Edward Kadesky.

• Bị kết án ở New Jersey vì bất cẩn gây nguy hiểm cho người khác.

• Ám ảnh với lửa.

• Điên loạn. Nói tới “quý khán giả thân mến.”

• Biểu diễn những màn nguy hiểm.

• Đã kết hôn với Marie Cosgrove, thiệt mạng trong vụ hỏa hoạn.

• Không liên lạc với gia đình cô ấy kể từ đó.

• Cha mẹ đã chết, không có người thân trực hệ.

• Không có trong hồ sơ VICAP hay NCIC.

• Tự gọi mình là “Phù thủy phương Bắc.”

• Tấn công Rhyme để ngăn anh trước chiều thứ Bảy. (Nạn nhân tiếp?)

• Màu mắt – nâu.

• Hồ sơ tâm lý học (theo Terry Dobyns, NYPD): Sự báo thù tạo động cơ cho gã dù gã có thể không nhận ra. Gã muốn tính toán sòng phẳng. Lúc nào cũng tức giận. Bằng cách giết người, gã làm giảm bớt đôi chút sự đau đớn vì cái chết của vợ, sự mất mát khả năng biểu diễn.

• Weir gần đây đã liên lạc với các trợ lý: John Keating và Arthur Loesser, ở Nevada. Hỏi về vụ hỏa hoạn và những người liên quan. Mô tả Weir là điên dại, độc đoán, loạn trí, nguy hiểm, nhưng tài năng.

• Liên lạc với cựu giám đốc lúc xảy ra vụ hỏa hoạn, Edward Kadesky.

• Giết nạn nhân vì điều mà họ đại diện cho – có thể là những khoảnh khắc hạnh phúc hay bi kịch trước trận hỏa hoạn.

• Chiếc khăn tay đẫm xăng, không truy được nguồn gốc.

• Giày Ecco, không truy được nguồn gốc.

Hồ sơ của ảo thuật gia

• Nghi phạm sẽ dùng việc đánh lạc hướng để đối phó với các nạn nhân và che mắt cảnh sát.

• Đánh lạc hướng về vật lý (để gây phân tâm).

• Đánh lạc hướng về tâm lý (để loại trừ sự nghi ngờ).

• Nghi phạm trốn thoát ở trường Âm nhạc bằng cách thức giống với tiết mục ảo thuật Người biến mất. Quá phổ thông để truy nguồn gốc.

• Nghi phạm về cơ bản là một ảo thuật gia.

• Có tài trong thể loại nhanh tay lẹ mắt.

• Cũng biết ảo thuật biến y (thay đồ nhanh). Sẽ sử dụng quần áo tách ra được, ni-lông và lụa, mũ hóa trang hói đầu, bọc ngón tay và các thiết bị cao su khác. Có thể ở bất kỳ độ tuổi, giới tính hay chủng tộc nào.

• Cái chết của Calvert mô phỏng màn trình diễn Cắt một phụ nữ làm đôi của Selbit.

• Giỏi mở khóa (có thể là mở khóa “hàng loạt”). Biết các kỹ thuật trốn thoát.

• Có kinh nghiệm ảo thuật với động vật.

• Sử dụng thuật thao túng tâm lý để có thông tin về nạn nhân.

• Sử dụng thuật nhanh tay lẹ mắt để bỏ thuốc cô ấy.

• Cố gắng giết nạn nhân thứ ba với màn trốn thoát của Houdini. Ngục nước.

• Biết thuật nói tiếng bụng.

• Những lưỡi dao lam.

• Quen thuộc với trò Tấm gương cháy. Rất nguy hiểm, ngày nay hiếm khi được biểu diễn.

Người đàn ông vạm vỡ, chiều cao trung bình. Một bộ râu bạc và mái tóc bồng bềnh cùng màu.

Rhyme, giờ đa nghi sau chuyến ghé thăm mới nhất của Weir tối qua, chào Edward Kadesky rồi hỏi giấy tờ tùy thân.

“Xin cảm phiền ông,” Sellitto nói tiếp, giải thích rằng gần đây họ gặp rắc rối với một nghi phạm chuyên đóng giả người khác.

Kadesky – một người vốn không quen với việc không được ai nhận ra, chứ đừng nói là phải trình giấy tờ – lấy làm khó chịu, nhưng ông tuân theo và cho Sellitto xem tấm bằng lái Illinois của mình. Mel Cooper kín đáo nhìn vào bức ảnh và tay sản xuất rồi gật đầu với Rhyme. Người kỹ thuật viên đã lên mạng của Nha lộ vận Illinois và kiểm tra những đặc điểm của bằng lái và ảnh người đàn ông. Tất cả đều khớp.

“Tin nhắn của các anh nói nội dung cuộc gặp này là về Erick Weir?” Kadesky hỏi. Ánh mắt ông như diều hâu và rất cao ngạo. “Đúng.”

“Vậy là anh ta vẫn còn sống?”

Việc người này hỏi câu đó là một sự thất vọng với Rhyme; nó có nghĩa là Kadesky thậm chí còn biết ít hơn cả họ.

Rhyme nói, “Còn sống khỏe. Gã là nghi phạm của hàng loạt các vụ giết người trong thành phố.”

“Không! Anh ta đã giết những ai?”

“Vài dân địa phương. Cả một cảnh sát nữa,” Sellitto giải thích. “Chúng tôi hy vọng ông có thể cung cấp cho chúng tôi vài thông tin giúp tìm ra gã.”

“Tôi chưa nghe gì về anh ta kể từ sau vụ hỏa hoạn. Quý vị biết chuyện đó chứ?”

“Một chút,” Sachs nói. “Xin thông tin thêm cho chúng tôi.”

“Anh ta đổ lỗi cho tôi vì vụ hỏa hoạn, các vị biết đấy… Cách đây ba năm. Weir và các trợ lý của anh ta đang thực hiện một màn ảo thuật và biến y trong buổi diễn của chúng tôi. Chà, họ giỏi lắm. Ý tôi là thật sự gây kinh ngạc. Nhưng chúng tôi đã nhận được nhiều lời than phiền trong nhiều tháng. Từ các nhân viên và cả khán giả. Weir làm người ta sợ. Anh ta hơi giống một kẻ độc tài. Những trợ lý của anh ta – chúng tôi gọi họ là hai chàng mộng mơ. Anh ta đã truyền giáo cho họ. Ảo thuật với anh ta giống như một tôn giáo. Đôi khi có người bị thương khi diễn thử hoặc trong buổi diễn – thậm chí là cả những khán giả tình nguyện. Và Weir chẳng mảy may quan tâm. Anh ta nghĩ ảo thuật hay nhất là khi có chút rủi ro. Anh ta nói ảo thuật phải là một thanh sắt nóng; nó phải đóng dấu lên linh hồn ta.” Nhà sản xuất cười khẳng định. “Nhưng chúng tôi không thể làm thế trong ngành kinh doanh biểu diễn ngày nay, đúng không? Vì thế tôi nói chuyện với Sidney Keller – ông ấy là chủ – và chúng tôi quyết định là phải sa thải anh ta. Một sáng thứ Bảy trước buổi diễn chiều, tôi nói với giám đốc sân khấu để anh ta đi.”

“Đó là ngày xảy ra vụ hỏa hoạn à?” Rhyme hỏi.

Kadesky gật đầu. “Tay giám đốc tìm thấy Weir đang lắp ống dẫn propan vào sân khấu cho một tiết mục của anh ta. Tấm gương cháy. Ông ấy nói với anh ta quyết định của chúng tôi. Nhưng Weir nổi đóa lên – anh ta xô tay giám đốc xuống cầu thang và tiếp tục lắp ống. Tôi đi xuống sân khấu. Anh ta chụp lấy tôi. Chúng tôi không thực sự đánh nhau, chỉ là xô đẩy, nhưng một ống propan bung ra. Chúng tôi ngã vào mấy chiếc ghế kim loại, và tôi đoán là một tia lửa đã bắt vào đám khí thoát ra. Anh ta bị bỏng và vợ anh ta chết. Cả căn lều bị phá hủy. Chúng tôi đã cân nhắc tới việc kiện anh ta, nhưng anh ta trốn khỏi bệnh viện và biến mất.”

“Chúng tôi tìm thấy một vụ ở New Jersey. Gã đã gây nguy hiểm cho người khác vì bất cẩn. Ông có biết là gã còn bị bắt ở đâu nữa không?” Rhyme hỏi.

“Không biết.” Kadesky lắc đầu. “Tôi lẽ ra không nên thuê anh ta. Nhưng nếu anh đã từng xem anh ta biểu diễn, anh sẽ hiểu. Anh ta là người giỏi nhất. Khán giả có thể kinh hoàng, họ có thể bị dọa nạt, nhưng họ vẫn mua vé để xem anh ta. Giá mà anh nghe được những tràng pháo tay.” Tay sản xuất chương trình nhìn đồng hồ của ông ta. Lúc đó là một giờ bốn lăm phút. “Quý vị biết đấy, buổi diễn của tôi bắt đầu trong mười lăm phút nữa… Tôi nghĩ sẽ là ý hay nếu đưa vài xe cảnh sát tới đó. Vì Weir đang ở quanh đây và những chuyện đã xảy ra giữa chúng tôi.”

“Tới đâu?” Rhyme hỏi.

“Tới buổi diễn của tôi.” Ông ta hất đầu về phía công viên Trung Tâm.

“Đó là của ông hả? Gánh Cirque Fantastique?”

“Phải. Tôi tưởng quý vị biết điều đó. Có xe cảnh sát đậu ở đó… Quý vị biết rằng Cirque Fantastique là gánh Hasbro và Keller Brothers cũ, phải không?”

“Sao cơ?” Sellitto hỏi.

Rhyme liếc mắt nhìn Kara, người đang lắc đầu. “Ông Balzac không hề nói với tôi điều đó khi tôi gọi cho ông ấy tối qua.”

“Sau vụ hỏa hoạn,” Kadesky nói, “chúng tôi tái thiết. Cirque du Soleil thành công tới mức tôi đề xuất với Sid Keller rằng chúng tôi nên làm theo những điều họ đã làm. Khi chúng tôi có tiền bảo hiểm, chúng tôi khởi sự Fantastique.”

“Không, không, không,” Rhyme thì thầm, nhìn trừng trừng vào sơ đồ bằng chứng.

“Có chuyện gì, Linc?” Sellitto hỏi.

“Đó là việc mà Weir sẽ làm,” anh tuyên bố. “Buổi diễn của ông là mục tiêu của gã. Cirque Fantastique.”

“Sao cơ?”

Anh lướt qua bằng chứng lần nữa. Áp dụng các dữ kiện vào tiền đề.

Rhyme gật đầu. “Những con chó!”

“Sao cơ?” Sachs hỏi.

“Những con chó chết tiệt! Hãy nhìn vào sơ đồ đi. Nhìn nó đi! Lông động vật và bụi ở công viên Trung Tâm là từ sân chơi cho chó! Ngay bên ngoài cửa sổ này.” Một cái hất đầu mạnh về phía trước căn nhà phố của anh. “Gã không theo dõi Cheryl Marston trên con đường cưỡi ngựa; gã đang theo dõi gánh xiếc. Tờ báo, tờ báo trên chiếc Mazda – hãy xem dòng tít: ‘Giải trí cho trẻ em.’ Hãy xem tờ báo xem – xem nó có thông tin gì về gánh xiếc không. Thom – gọi cho Peter! Nhanh lên.”

Người trợ lý là bạn tốt của một phóng viên ở tờ Times, một chàng trai trẻ thỉnh thoảng từng giúp đỡ họ trong quá khứ. Anh chụp lấy điện thoại và thực hiện cuộc gọi. Peter Hoddins làm việc ở ban quốc tế, nhưng anh mất không tới một phút để tìm ra câu trả lời. Anh chuyển lại thông tin cho Thom, người tuyên bố, “Gánh xiếc là tâm điểm của câu chuyện đó. Tất cả các chi tiết – giờ giấc, các màn diễn, tiểu sử nhân viên. Thậm chí có cả một mục phụ về an ninh.”

“Chết tiệt,” Rhyme quát. “Gã đang thực hiện nghiên cứu của mình… Và tấm thẻ báo chí? Để gã có quyền tiếp cận hậu trường.” Rhyme nheo mắt khi nhìn vào sơ đồ bằng chứng. “Phải! Tôi hiểu rồi. Những nạn nhân. Họ đại diện cho điều gì? Là những công việc trong gánh xiếc. Nghệ sĩ trang điểm. Người cưỡi ngựa… Và nạn nhân đầu tiên! Phải, cô ấy là một sinh viên nhưng công việc của cô ấy là gì? Hát và giúp vui cho trẻ em – như việc một chú hề vẫn làm.”

“Và bản thân các kỹ thuật giết người nữa,” Sachs chỉ ra. “Chúng đều là các trò ảo thuật.”

“Phải. Gã đang săn lùng buổi diễn của ông. Terry Dobyns nói rằng động cơ cuối cùng của gã là báo thù. Trời, gã đã cài một quả bom xăng.”

“Lạy Chúa tôi,” Kadesky nói. “Đang có hai nghìn người ở đó! Và buổi diễn sẽ bắt đầu trong vòng mười phút nữa.”

Vào lúc hai giờ chiều…

“Buổi diễn chiều Chủ nhật,” Rhyme bổ sung. “Đúng như ở Ohio ba năm trước.”

Sellitto chụp chiếc bộ đàm Motorola của anh và gọi cho các cảnh sát ở rạp xiếc. Không có trả lời. Viên thanh tra nhíu mày và thực hiện một cuộc gọi trên loa của Rhyme.

“Cảnh sát Koslowski nghe đây,” người đàn ông trả lời sau một lát.

Sellitto xưng tên và quát, “Tại sao anh không nghe bộ đàm, anh cảnh sát?”

“Bộ đàm ư? Thì chúng tôi đang không làm nhiệm vụ mà thiếu úy.”

“Không làm nhiệm vụ? Anh vừa được giao nhiệm vụ mà.”

“Thưa thanh tra, chúng tôi đã nhận được lệnh rút lui.”

“Các anh nhận được lệnh sao?”

“Một vị thanh tra nào đấy tới đây khoảng nửa tiếng trước và nói không cần chúng tôi nữa. Anh ta bảo chúng ta có thể nghỉ luôn hôm nay. Tôi đang trên đường tới bãi biển Rockaway với gia đình. Tôi có thể...”

“Mô tả gã ta đi.”

“Ngoài năm mươi. Có râu, tóc nâu.”

“Gã đã đi đâu?”

“Không biết. Đi tới xe, giơ phù hiệu và bảo chúng tôi giải tán.”

Sellitto giập mạnh máy. “Đúng thế rồi… Ôi trời, đúng thế rồi.” Anh quát lên với Sachs,“Gọi đội sáu, đưa đội phá bom tới đó.” Rồi chính anh gọi cho Trung tâm và yêu cầu cử các đội Khẩn cấp và xe cứu hỏa tới rạp xiếc.

Kadesky chạy về phía cửa. “Tôi sẽ sơ tán khu lều.”

Bell nói anh đã gọi cho đội Dịch vụ Cấp cứu Khẩn cấp và có các nhóm chuyên về trị bỏng túc trực ở bệnh viện Columbia Presbyterian.

“Tôi muốn có thêm nhiều cảnh sát chìm hơn trong công viên,” Rhyme nói. “Thật nhiều. Tôi có linh cảm là Gã phù thủy sẽ ở đó.”

“Ở đó sao?” Sellitto hỏi.

“Để chứng kiến trận hỏa hoạn. Gã sẽ ở gần. Tôi nhớ cặp mắt gã khi nhìn những ngọn lửa trong phòng tôi. Gã thích xem lửa. Không, gã sẽ không bỏ lỡ điều này dù phải đánh đổi cả thế giới.”