• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Người biến mất
  3. Trang 39

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 38
  • 39
  • 40
  • More pages
  • 60
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 38
  • 39
  • 40
  • More pages
  • 60
  • Sau

Chương ba mươi ba

N

gười đàn ông nhận tin nhắn ở một nhà hàng trên đường 244, vì hắn không có điện thoại trong chiếc xe kéo của mình – không muốn và cũng không tin điện thoại. Đây là nơi hắn nhận và gọi tất cả các cuộc gọi.

Thi thoảng, phải vài ngày trôi qua hắn mới nhận tin nhắn, nhưng vì hôm nay hắn đang đợi một cuộc điện thoại quan trọng nên hắn vội vã hơn, chưa bao giờ hắn vội như thế, đến thẳng Elma’s Diner ngay sau khi tan lớp ở lớp giáo lý.

Hobbs Wentworth là một gã đàn ông to như gấu với bộ râu đỏ mỏng quanh mặt và mớ tóc xoăn, nhạt hơn bộ râu. “Sự nghiệp” là một từ mà không ai ở Canton Falls, New York, dành cho Hobbs. Không có nghĩa là hắn không làm việc như trâu. Hắn sẽ làm xứng với tiền công, miễn đó là công việc ngoài trời, không đòi hỏi tính toán quá nhiều và người thuê là một người Công giáo da trắng.

Hobbs kết hôn với một phụ nữ ít nói, khô khan tên là Cindy, người dành phần lớn thời gian nuôi dạy con ở nhà, nấu ăn, khâu vá và thăm những cô bạn cũng làm công việc tương tự. Bản thân Hobbs dành phần lớn thời gian để làm việc và săn bắn, buổi tối thì tụ tập với mấy ông bạn, nhậu nhẹt và cãi cọ (dù hầu hết các cuộc “tranh luận ý kiến” này nên được gọi là “nhất trí quan điểm” vì hắn và bạn bè hắn suy nghĩ cực kỳ giống nhau).

Là người sống cả đời ở Canton Falls, hắn thích nơi này. Có rất nhiều khu đất săn bắn tốt, gần như không khu nào được đăng tải trên mạng. Con người ở đây đáng tin, tốt bụng và hiểu rõ về nhau (“suy nghĩ cực kỳ giống nhau” có thể áp dụng cho hầu hết những người ở Canton Falls). Hobbs có nhiều cơ hội để làm những thứ mà hắn thích. Hơn tất cả thì hắn thích dạy học ở lớp giáo lý. Học hết lớp tám và có một chiếc mũ tốt nghiệp ăn cắp được, nhưng học hành được mấy để khoe khoang, Hobbs chưa bao giờ am tường vũ trụ tư duy của Chúa Trời mà bất kỳ ai muốn hắn chỉ dạy.

Nhưng hóa ra hắn có tài trong việc dạy trẻ ở các lớp giáo lý Chủ nhật. Hắn không chủ trì các buổi cầu nguyện hay tư vấn hay các buổi hát thánh ca Chúa-yêu-con-và-con-biết… Không, tất cả những gì hắn làm là kể chuyện trong Kinh Thánh cho bọn trẻ. Nhưng hắn thành danh ngay lập tức, chủ yếu nhờ vào việc hắn không chịu tuân theo mạch truyện thông thường. Lấy ví dụ, trong phiên bản của hắn, thay vì Jesus cho đám đông ăn hai con cá và năm ổ bánh mì, Hobbs kể việc Con Trai Chúa Trời đi săn bằng cung và giết một con hươu từ khoảng cách hơn chín mươi mét rồi tự mình lột da xẻ thịt nó ở quảng trường thị trấn cho người dân ăn. (Để minh họa cho câu chuyện, Hobbs mang theo cây cung trợ lực Clearwater MX Flex tới lớp học và, chíu, một mũi tên đầu cứng cắm sâu bảy phân vào một bức tường bê tông than xỉ, làm những đứa nhóc khoái trá.)

Vừa dạy xong một lớp như thế, hắn bước vào quán Elma’s. Nữ phục vụ đi tới chỗ hắn.

“Chào, Hobbs. Bánh nướng chứ?”

“Không, cho một chai Vernors và trứng chiên phô mai. Nhiều tương Kraft. Này, tôi có nhận được một cuộc gọi...”

Hắn còn chưa nói xong thì nữ phục vụ đã đưa cho hắn một mảnh giấy.

Trên đó có mấy chữ: Gọi cho tôi – JB.

Cô hỏi, “Là gã Jeddy đó hả? Nghe có vẻ là gã. Vì dạo gần đây cảnh sát xuất hiện ở quanh đây, cảnh sát bang, ý tôi là thế, tôi chưa gặp gã bao giờ.”

Hắn phớt lờ câu hỏi của cô ta và chỉ nói, “Khoan hãy đặt món.” Rồi hắn đi tới chỗ chiếc điện thoại công cộng, lục túi quần bò tìm tiền xu, tâm trí hắn quay ngay lại với bữa trưa tuần trước nữa ở Riverside Inn tại Bedford Junction. Có hắn, Frank Stemple và Jeddy Barnes từ Canton Falls và một người tên là Erick Weir, mà sau này Barnes gọi là Nhà Ảo thuật, vì hơn tất thảy anh ta là một ảo thuật gia chuyên nghiệp.

Barnes đã làm Hobbs sướng rơn bằng cách mỉm cười và đứng lên khi Hobbs tới, rồi nói với Weir, “Đây, thưa anh, xin gặp tay súng giỏi nhất mà chúng tôi có ở hạt này. Chưa kể đây là một tay xạ thủ dùng cung. Và một người điều hành sắc sảo nữa.”

Hobbs đã ngồi ăn thứ đồ ăn hào nhoáng ở nhà hàng hào nhoáng đó, vừa tự hào vừa bồn chồn (hắn chưa bao giờ mơ tới việc ăn ở Riverside), chọc chiếc nĩa của hắn vào món đặc biệt trong ngày của quán và lắng nghe khi Barnes và Stemple kể với hắn chuyện bọn họ đã gặp Weir thế nào. Anh ta đại khái là một kiểu lính đánh thuê, điều mà Hobbs vốn biết rất rõ bởi hắn là độc giả thường xuyên của tờ Soldier of Fortune76. Hobbs để ý thấy những vết sẹo trên ngực người đàn ông và những ngón tay bị biến dạng, tự hỏi anh ta đã tham gia vào những cuộc chiến kiểu gì để bị tổn thương tới mức như thế. Có lẽ là bom napan.

76 Tờ tạp chí Mỹ thành lập năm 1975 với những chủ đề về chiến tranh hiện đại, vũ khí, lính đánh thuê…

Tất nhiên, ban đầu Barnes rất miễn cưỡng dù chỉ là gặp gỡ Weir, nghĩ rằng đó là một cái bẫy. Nhưng Nhà Ảo thuật đã trấn an hắn bằng cách bảo họ hãy theo dõi tin tức vào một ngày cụ thể. Câu chuyện chính là về vụ sát hại một người làm vườn người Mexico – một người nhập cư bất hợp pháp – làm việc cho một gia đình giàu có ở thị trấn gần đó. Weir đã mang cho Barnes chiếc ví của người đàn ông đó. Một chiến tích, giống như bộ sừng của một con hươu đực vậy.

Weir đi thẳng vào vấn đề. Anh ta nói với họ rằng anh ta chọn nạn nhân Mexico vì quan điểm của Barnes về dân nhập cư, nhưng cá nhân anh ta không tin vào những sứ mệnh cực đoan của họ – anh ta chỉ bận tâm tới việc kiếm tiền với tài năng đặc biệt của mình. Điều thích hợp với tất cả mọi người. Trong bữa trưa, Nhà Ảo thuật Weir vạch ra kế hoạch của anh ta về Charles Grady, rồi anh ta bắt tay họ và rời đi. Vài ngày trước, Barnes và Stemple đã đưa lão mục sư chểnh mảng, mê gái trẻ Swensen tới New York với chỉ thị giết Grady vào tối thứ Bảy. Và lão mục sư đã làm hỏng việc như dự tính.

Hobbs được cho là phải “đợi một cuộc gọi”, anh Weir đã nói thế. “Trường hợp cần tới anh ta.”

Và giờ có lẽ đã cần tới hắn. Hắn bấm số chiếc di động mà Barnes vẫn dùng, số này đứng tên một người khác, và nghe thấy tiếng trả lời đột ngột “Sao?”

“Là tôi đây.”

Vì cảnh sát bang đang tỏa khắp hạt để tìm Barnes, họ đã nhất trí sẽ nói chuyện qua điện thoại càng ít càng tốt.

Barnes nói, “Anh phải làm những gì chúng ta đã trao đổi vào bữa trưa.”

“Ừ hừm. Tới hồ nước.”

“Đúng.”

“Tới hồ nước và mang theo đồ câu cá?” Hobbs nói.

“Đúng rồi.”

“Được thưa sếp. Khi nào?”

“Bây giờ. Ngay bây giờ.”

“Thế thì tôi làm ngay.”

Barnes đột ngột gác máy và Hobbs đổi trứng rán thành một ly cà phê và bánh sandwich trứng với thịt xông khói, nhiều tương Kraft, mang đi. Khi Jeddy Barnes nói bây giờ, ngay bây giờ, thì ta phải làm đúng như thế.

Khi đồ ăn đã sẵn sàng hắn ra ngoài, khởi động chiếc xe bán tải của hắn và lái thật nhanh trên đường cao tốc. Hắn phải tới điểm dừng chân dọc đường – chiếc xe kéo của hắn. Rồi hắn sẽ đổi sang chiếc Dodge cũ mèm đăng ký dưới tên một người không tồn tại và lái thật nhanh xuống “hồ nước”, vốn không hề có nghĩa là một hồ nước tí nào: nó có nghĩa là một địa điểm cụ thể ở thành phố New York.

Giống như “đồ câu cá” mà hắn phải mang đi chắc chắn không có nghĩa là cần câu hay dây câu.


***


Trở lại trong Hầm mộ.

Ở một phía của chiếc bàn gắn vào sàn nhà là Joe Roth mặt dữ tợn, tay luật sư béo lùn của Andrew Constable.

Charles Grady ở phía bên kia, ngồi cạnh là cấp dưới của anh, Roland Bell. Amelia Sachs đứng; căn phòng thẩm vấn khắc nghiệt, với những cửa sổ vàng vọt, bẩn thỉu, cho cô một cảm giác mới của chứng sợ không gian hẹp, thời gian để áp chế nó lâu hơn sau cơn hoảng loạn kinh hoàng ở Cirque Fantastique. Cô cựa quậy và đu đưa người.

Cánh cửa mở ra và người canh giữ Constable để cho tay tù nhân đi vào phòng, còng tay gã lại ỏ phía trước mặt. Rồi anh đóng cánh cửa và trở lại hành lang.

“Không xong rồi” là câu đầu tiên Grady nói với gã. Giọng trầm tĩnh, không cảm xúc một cách lạ lùng, Sachs nghĩ, khi tính tới việc gia đình anh suýt thì bị giết sạch.

“Cái gì không…?” Constable lên tiếng. “Lần này là về thằng ngu Ralph Swensen đó hả?”

“Không, chuyện này là về Erick Weir,” Grady nói.

“Ai cơ?” Một cái nhíu mày thực sự đã lướt qua khuôn mặt gã đàn ông.

Vị công tố viên tiếp tục giải thích về nỗ lực lấy mạng gia đình anh của tay cựu ảo thuật gia chuyển ngạch thành sát thủ chuyên nghiệp.

“Không, không, không… Tôi không dính líu gì với Swensen. Và tôi cũng không liên quan gì tới chuyện này.” Gã đàn ông nhìn một cách tuyệt vọng vào mặt bàn đầy vết cắt xẻ. Có mấy hình graffiti bằng sơn màu xám cạnh tay hắn. Đó có vẻ là một chữ A, rồi một chữ C và một phần chữ K. “Tôi đã nói hết với các người rồi, Charles, có những người tôi quen biết trong quá khứ sẽ quá tay với những chuyện này. Họ coi các người và chính quyền bang là kẻ thù – làm việc cùng với bọn người Do Thái và người Mỹ gốc Phi và bất kỳ người nào nữa – và họ bóp méo lời lẽ của tôi, sử dụng tôi như một cái cớ để săn đuổi các người.” Hắn thấp giọng, “Tôi nhắc lại lần nữa. Tôi thề với các vị là tôi không liên quan gì đến chuyện này.”

Roth nói với tay công tố viên, “Đừng chiêu trò nữa, Charles. Anh chỉ đoán mò thôi. Nếu anh có điều để gì kết nối thân chủ của tôi với vụ đột nhập vào căn hộ của anh, thì...”

“Hôm qua Weir đã giết hai người và một cảnh sát. Đó là giết người cấp độ một.”

Constable chớp mắt. Luật sư của hắn huỵch toẹt chen vào, “À, tôi rất tiếc vì chuyện đó. Nhưng tôi thấy rằng anh không cáo buộc thân chủ của tôi. Vì anh không có bằng chứng nào kết nối anh ấy với Weir, đúng không?”

Grady bỏ qua câu đó và nói tiếp, “Ngay lúc này chúng tôi đang thương lượng với Weir về việc giao nộp bằng chứng cho bên công tố.”

Constable nhìn sang Sachs, nhìn cô từ trên xuống dưới. Hắn có vẻ tuyệt vọng và ánh mắt cho thấy hắn đang cầu khẩn cô sẽ giúp đỡ thắn kiểu gì đó. Có lẽ cô được cho là sẽ mang tới tiếng nói với lý lẽ kiểu phụ nữ. Nhưng cô vẫn im lặng, Bell cũng thế. Việc của họ không phải là tranh luận với nghi phạm. Viên thanh tra ở đây là để trông chừng Grady và xem anh có thể biết thêm được gì về âm mưu lấy mạng viên trợ lý công tố và các cuộc tấn công có thể xảy ra trong tương lai hay không. Sachs ở đây để xem cô có thể biết thêm về Constable và những đối tác của hắn nhằm củng cố chứng cứ vụ án chống lại Weir không.

Ngoài ra, cô cũng tò mò về người đàn ông này – người mà cô nghe nói là vô cùng độc ác nhưng đồng thời lại có vẻ rất biết lý lẽ, hiểu biết và thật sự khó chịu với những biến cố trong mấy ngày qua. Rhyme chỉ hài lòng với việc xem xét bằng chứng; anh không có kiên nhẫn cho việc tìm hiểu tâm trí hay tâm hồn một thủ phạm. Tuy nhiên, Sachs lại rất hứng thú với những câu hỏi về thiện và ác. Cô đang nhìn vào một người đàn ông vô tội hay một Adolf Hitler nữa?

Constable lắc đầu. “Nghe này, không lý gì tôi lại tìm cách giết anh. Bang sẽ cử một trợ lý công tố khác thay thế. Phiên tòa vẫn sẽ diễn ra, chỉ là tôi có thêm bản án giết người chụp lên đầu. Tại sao tôi lại muốn làm thế? Lý do khả dĩ nào khiến tôi phải giết anh?”

“Vì anh là một kẻ cuồng tín và là một tên sát nhân và...” Constable nóng giận cắt ngang, “Nghe này. Tôi đã gặp đủ chuyện, thưa anh. Tôi bị bắt, bị sỉ nhục trước gia đình tôi. Tôi đã bị hành hạ ở đây và trên báo chí. Và anh có biết tội ác duy nhất của tôi là gì không?” Hắn nhìn thẳng vào Grady. “Đặt những câu hỏi khó.” “Andrew.” Roth chạm vào cánh tay hắn. Nhưng, với một tiếng hét lớn, tay tù nhân giật tay lại. Hắn đang căm phẫn và không thể kiềm chế.

“Ngay trong căn phòng này, ngay bây giờ, tôi sẽ phạm tội ác duy nhất mà tôi thực sự phạm phải. Tội thứ nhất: Tôi nêu câu hỏi là anh có đồng ý không, rằng khi chính quyền trở nên quá đồ sộ, nó xa rời người dân. Rằng khi cảnh sát rốt cuộc lại có quyền nhét một cây lau sàn vào hậu môn một tù nhân da đen bị tạm giam – một tù nhân vô tội, xin nói rõ.”

“Họ đã bị bắt,” Grady đáp lại một cách thờ ơ.

“Việc chúng vào tù không trả lại phẩm giá cho người đàn ông tội nghiệp đó, đúng không? Và bao nhiêu kẻ đã không bị bắt?... Hãy xem những gì đã xảy ra ở Washington. Họ để bọn khủng bố đi thẳng vào đất nước này, với ý định giết chết tất cả chúng ta, và chúng ta không dám làm phật lòng chúng bằng cách chặn chúng lại hay buộc chúng phải cung cấp vân tay hay mang giấy tờ tùy thân… Còn tội khác thì sao? Tôi hỏi anh, tại sao chúng ta không đơn giản thừa nhận rằng có sự khác biệt giữa các sắc tộc và các nền văn hóa? Tôi không bao giờ nói rằng một chủng tộc này tốt hay xấu hơn chủng tộc kia. Nhưng tôi có nói rằng anh sẽ chịu đau đớn nếu anh tìm cách trộn lẫn họ.”

“Chúng ta đã chấm dứt việc cách li một nhóm người chỉ vì chủng tộc của họ từ nhiều năm trước rồi,” Bell giọng lè nhè. “Anh biết đó là tội ác mà.”

“Bán rượu cũng từng là tội ác, thưa thanh tra. Đi làm vào Chủ nhật từng là tội ác. Sử dụng đám trẻ mười tuổi làm việc ở nhà máy từng là hợp pháp. Rồi người ta ngoan hơn và thay đổi những luật lệ đó vì chúng không phản ánh bản chất thực sự của con người.”

Hắn ngả người về phía trước và nhìn từ Bell sang Sachs. “Hai người bạn cảnh sát của tôi đây… Tôi xin hỏi hai vị một câu hỏi khó. Hai vị được tin báo một người đàn ông có thể đã phạm tội giết người và anh ta là người da đen hoặc gốc Tây Ban Nha. Hai vị thấy anh ta trong một con hẻm. Phải chăng ngón tay của hai vị sẽ siết chặt vào cò súng hơn nếu như anh ta là người da trắng? Hay nếu anh ta là một người da trắng và có vẻ là sáng sủa – nếu anh ta còn đủ răng và mặc đồ không bốc mùi như nước tiểu qua đêm – thì khi đó, liệu quý vị có bóp cò chậm hơn một chút không? Khi lục soát các vị có nhẹ nhàng hơn chút không?”

Tay tù nhân ngồi trở lại, lắc đầu. “Đó là những tội ác của tôi. Vậy thôi. Nêu những câu hỏi như vậy.”

Grady nói đầy châm biếm, “Hay lắm, Andrew. Nhưng trước khi anh chơi lá bài bị truy bức, anh sẽ nói gì về việc Erick Weir đã ăn trưa với ba người khác ở quán Riverside Inn thuộc khu Bedford Junction hai tuần trước. Vốn chỉ cách nơi họp mặt của Hội Ái quốc ở Canton Falls hai cây số và cách nhà anh khoảng năm cây.”

Constable chớp mắt. “Quán Riverside Inn?” Hắn nhìn ra ngoài cửa sổ, nó u ám tới mức không thể nói bầu trời màu xanh da trời hay là màu vàng ô nhiễm hay là màu xám lạnh lẽo.

Mắt Grady nheo lại. “Sao? Anh biết gì về nơi đó à?”

“Tôi…” Luật sư của hắn chạm vào tay hắn để ra hiệu im lặng. Họ thì thầm với nhau một lát.

Grady không thể cưỡng lại việc thúc ép thêm. “Anh có biết ai là khách quen ở đó không?”

Constable liếc nhìn Roth, người đang lắc đầu và tay tù nhân im lặng.

Một lát sau Grady hỏi, “Xà lim của anh ra sao, Andrew?”

“Cái gì?”

“Xà lim của anh trong khu giam giữ này.”

“Không quan tâm lắm. Tôi tưởng là anh biết rồi.”

“Ở trong tù còn tệ hơn. Và anh sẽ bị biệt giam bởi vì đám da đen sẽ rất thích thú được...”

“Thôi nào, Charles,” Roth nói đầy lo lắng. “Chúng tôi không cần nghe chuyện đó.”

Tay công tố viên nói, “À, Joe, tôi nói nốt này. Tất cả những gì tôi nghe thấy là tôi không làm chuyện nọ, tôi không làm chuyện kia. Rằng có người đã gài bẫy và lợi dụng anh ta. Chà, nếu là như thế” – anh quay người nhìn thẳng Constable – “thì hãy lê mông khỏi đó và chứng minh cho tôi thấy. Chứng minh cho tôi thấy là anh không liên quan gì với cố gắng tìm cách giết tôi và gia đình tôi, và cho tôi tên của những người đã làm, rồi chúng ta sẽ nói chuyện.”

Một lượt tư vấn thì thầm nữa giữa thân chủ và luật sư.

Cuối cùng Roth nói, “Thân chủ của tôi sẽ thực hiện vài cuộc gọi. Dựa trên những gì chúng tôi biết được, anh ấy sẵn lòng cân nhắc về việc hợp tác.”

“Như thế không đủ. Cho tôi những cái tên ngay bây giờ.”

Khó chịu, Constable nói trực tiếp với Grady, “Chuyện phải vậy. Tôi cần chắc chắn về việc này.”

“Sợ là anh sẽ phải bán đứng vài người bạn hả?” Tay công tố viên nói lạnh lẽo. “Chà, anh nói anh thích nêu những câu hỏi khó. Để tôi hỏi anh một câu: Bạn bè kiểu gì mà sẵn sàng để anh ngồi tù suốt phần đời còn lại?” Grady đứng lên. “Đến chín giờ tối nay, nếu tôi không nghe được gì từ anh, chúng tôi sẽ mở phiên tòa vào ngày mai theo đúng kế hoạch.”