• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Người biến mất
  3. Trang 38

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 37
  • 38
  • 39
  • More pages
  • 60
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 37
  • 38
  • 39
  • More pages
  • 60
  • Sau

CHƯƠNG BA MƯƠI HAI

N

ày, mọi chuyện thế nào rồi?” Người đàn ông trong bộ vest màu xám hỏi, làm Luis Martinez – viên thanh tra ít nói, vạm vỡ làm việc cho Roland Bell – giật mình.

Tay vệ sĩ đang ngồi trên ghế bành trước ti-vi, với một tờ The New York Times ngày Chủ nhật ở trên đùi. “Trời, làm tôi giật mình.” Anh gật đầu chào, liếc nhìn phù hiệu và thẻ căn cước rồi lướt qua cả khuôn mặt của người mới tới. “Anh là người thay ca?”

“Phải.”

“Làm sao anh vào được? Họ đưa anh chìa khóa à?”

“Lấy chìa khóa dưới Trung tâm.” Anh ta nói giọng thì thầm khàn khàn, như là bị cảm.

“May cho anh,” Luis lầm bầm. “Chúng tôi phải dùng chung một chìa. Phiền phức không tả nổi.”

“Anh Grady đâu?”

“Trong bếp. Với vợ anh ấy và Chrissy. Sao anh tới sớm vậy?”

“Tôi không biết,” người đàn ông đáp. “Tôi chỉ được yêu cầu hỗ trợ. Họ nói tôi tới giờ này.”

“Đời chúng ta là thế nhỉ?” Luis nói. Anh ta nhíu mày. “Tôi không nghĩ là mình biết anh.”

“Tôi là Joe David,” người đàn ông nói. “Thường làm việc ở khu vực Brooklyn.”

Luis gật đầu. “Phải, đó là nơi tôi lớn lên, khu Bảy Mươi.”

“Đây là ca đầu tiên của tôi ở đây. Làm cảnh vệ, ý tôi là thế.” Một âm thanh lớn phát ra từ quảng cáo trên ti-vi.

“Xin lỗi,” Luis nói. “Tôi nghe không rõ. Anh nói là ca đầu tiên của anh hả?”

“Phải.”

Viên thanh tra cao lớn nói, “Được rồi, nếu đây là ca cuối luôn thì sao?” Luis bỏ tờ báo xuống và nhảy ra khỏi ghế bành, rút khẩu Glock của anh ra nhẹ nhàng và chĩa nó vào người đàn ông mà anh biết là Erick Weir. Bình thường luôn điềm đạm, giờ đây Luis đang hét vào micro của anh, “Gã ở đây! Gã đã vào đây – trong phòng khách!”

Hai cảnh sát khác đã chờ sẵn trong nhà bếp – thanh tra Bell và viên thiếu úy mập mạp, Lon Sellitto – xô vào qua một cánh cửa khác, cả hai đều lộ vẻ sững sờ. Họ vồ lấy tay của Weir và lôi ra một khẩu súng ngắn giảm thanh từ thắt lưng của gã.

“Nằm xuống ngay lập tức!” Sellitto hét lên với giọng thô ráp, gai góc, khẩu súng của anh ấn vào mặt gã. Và biểu cảm trên gương mặt đó mới ấn tượng làm sao! Luis nghĩ. Anh đã nhìn thấy nhiều nghi phạm bị bất ngờ nhiều năm qua. Nhưng kẻ này là số một. Gã đang thở gấp, không nói nên lời. Nhưng Luis cho rằng gã cũng không ngạc nhiên gì hơn so với những cảnh sát có mặt ở đó.

“Gã ở chỗ quái nào ra thế?” Sellitto hỏi trong hơi thở gấp gáp. Bell lắc đầu bực dọc.

Khi Luis thô bạo còng tay Weir hai lần, Sellitto ngả người về phía thủ phạm. “Mày chỉ có một mình hả? Mày còn có viện trợ bên ngoài không?”

“Không.”

“Đừng giỡn mặt!”

“Tay tôi, các anh làm tay tôi đau!” Weir kêu lên. “Còn có ai khác ngoài mày không?”

“Không, không, tôi xin thề.”

Bell gọi những người khác trên bộ đàm của anh. “Xin Chúa cứu rỗi – gã đã vào trong… Tôi không biết bằng cách nào.”

Hai cảnh sát mặc đồng phục được chỉ định cho nhóm giải cứu nhân chứng vội vã bước vào từ hành lang, nơi họ đã ẩn nấp gần thang máy. “Có vẻ gã đã cạy cửa sổ ở tầng này,” một người trong số họ nói. “Các anh biết đấy, cửa sổ chỗ cầu thang thoát hiểm.”

Bell liếc nhìn Weir và anh hiểu ngay vấn đề. “Bệ cửa sổ bên Lanham hả? Mày nhảy qua à?”

Weir không nói gì nhưng đó chắc hẳn là câu trả lời. Họ đã cắt cử cảnh sát canh chừng con hẻm giữa Lanham và tòa nhà của Grady và cả trên nóc của hai tòa nhà đó. Nhưng họ chưa bao giờ nghĩ rằng gã sẽ đi dọc theo bệ cửa sổ và nhảy qua ống thông hơi.

Bell hỏi mấy viên cảnh sát, “Không có dấu hiệu của người nào khác nữa à?”

“Không. Có vẻ gã chỉ có một mình.”

Sellitto đeo găng tay cao su vào và lục soát người gã. Anh thu được các thiết bị đột nhập cùng nhiều đồ vật và đồ dùng cho ảo thuật. Thứ lạ nhất là những đầu ngón tay giả, dính chặt với nhau bằng keo. Sellitto kéo chúng ra và bỏ vào một túi bằng chứng. Nếu tình hình không nghiêm trọng như thế – khi một sát thủ đã thực sự lọt vào trong căn hộ của gia đình mà họ phải bảo vệ – hình ảnh mười chiếc đầu ngón tay trong một chiếc túi hẳn sẽ thật nực cười.

Họ nhìn qua con mồi trong lúc Sellitto tiếp tục lục soát gã. Weir cơ bắp và có vóc dáng đẹp, bất chấp việc trận hỏa hoạn đã gây ra một số tổn thương nghiêm trọng – những vết sẹo khá khó coi.

“Có giấy tờ tùy thân gì không?” Bell hỏi.

Sellitto lắc đầu. “FAO Schwarz.” Có nghĩa là phù hiệu NYPD và giấy tờ tùy thân giả chất lượng thấp. Không hơn gì những món đồ chơi.

Weir liếc về phía bếp, gã không nhìn thấy ai cả. Gã nhíu mày.

“Ồ, nhà Grady không có ở đây,” Bell nói, như thể mọi chuyện thật rõ ràng.

Gã nhắm mắt lại và ngả đầu lên tấm thảm sờn. “Bằng cách nào? Làm sao mà các anh biết được?”

Sellitto trả lời đại khái. “Chà, đoán xem? Sẽ có người thích được trả lời câu hỏi đó cho mày. Đi nào, chúng ta đi một chuyến.”

***

Nhìn qua kẻ sát nhân bị xích đứng ở ngưỡng cửa phòng thí nghiệm, Lincoln Rhyme nói, “Chào mừng trở lại.”

“Nhưng… đám cháy.” Bực tức, gã nhìn về phía chiếc cầu thang dẫn lên phòng ngủ.

“Xin lỗi vì bọn tao đã làm hỏng màn trình diễn của mày,” Rhyme nói lạnh lùng. “Tao đoán là rốt cuộc mày không thể thoát được tao, đúng không, Weir?”

Gã quay lại nhìn vào nhà tội phạm học và rít lên, “Đó không còn là tên tao nữa.”

“Mày đổi tên rồi hả?”

Weir lắc đầu. “Không chính thức. Nhưng Weir đã từng là tên tao. Giờ tao là người khác.”

Rhyme nhớ lại nhận xét của chuyên gia tâm lý học Terry Dobyns rằng trận hỏa hoạn đã “giết chết” con người cũ của Weir và gã đã trở thành người khác.

Kẻ sát nhân lúc này đang nhìn vào cơ thể Rhyme. “Mày hiểu mà, đúng không? Tao nghĩ mày cũng thích quên đi quá khứ và trở thành một người khác.”

“Mày tự gọi mình là gì?”

“Đó là chuyện của tao và khán giả của tao.”

À, phải, quý khán giả thân mến của gã.

Bị còng tay hai lần, có vẻ bối rối và khuất phục, Weir mặc một bộ vest xám kiểu doanh nhân. Mái tóc giả gã đội tối qua đã biến mất; mái tóc thật của gã dày, dài và có màu vàng sậm. Trong ánh sáng ban ngày, Rhyme có thể thấy vết sẹo phía trên cổ áo gã rõ hơn; trông nó khá nghiêm trọng.

“Làm sao bọn mày tìm được tao?” Gã rít lên. “Tao đã dẫn bọn mày tới…”

“Tới Cirque Fantastique đúng không? Quả thế.” Khi Rhyme dắt mũi được tên hung thủ, tâm trạng của anh cải thiện đáng kể và anh trò chuyện thoải mái. “Ý mày là mày đã chỉ dẫn sai cho chúng tao tới đó. Thấy không, tao đã xem xét bằng chứng và tao thấy là cả vụ này như vậy thì có vẻ dễ dàng quá.”

“Dễ sao?” Gã ho một chập.

“Ở hiện trường tội ác có hai loại bằng chứng. Có những bằng chứng mà hung thủ vô tình bỏ lại và những bằng chứng được sắp đặt sẵn, là những thứ cố tình được bỏ lại để đánh lạc hướng bọn tao.

Sau khi tất cả mọi người chạy đi tìm những quả bom xăng ở rạp xiếc, tao có cảm giác là một số vật chứng đã được sắp đặt vào. Chúng có vẻ quá rõ ràng. Những chiếc giày mày bỏ lại ở căn hộ của nạn nhân thứ hai có lông chó, chất bẩn và dấu vết dẫn tới công viên Trung Tâm. Tao chợt nhận ra rằng một thủ phạm thông minh có thể bỏ đất và đám lông vào giày và để chúng lại hiện trường khiến bọn tao tìm thấy và nghĩ rằng đó là sân chơi cho chó cạnh rạp xiếc. Và tất cả những thứ về vụ hỏa hoạn khi mày tới thăm tao tối qua.” Anh liếc về phía Kara. “Là sự đánh lạc hướng bằng lời, đúng không, Kara?”

Đôi mắt khó chịu của Weir nhìn cô gái trẻ từ trên xuống dưới.

“Phải,” cô nói, đổ đường vào ly cà phê của mình.

“Nhưng tao đã tìm cách giết mày,” Weir rít lên. “Nếu tao nói với mày những chuyện đó để đánh lạc hướng, tao phải để mày sống chứ.”

Rhyme cười lớn. “Mày hoàn toàn không tìm cách giết tao. Mày chưa bao giờ định làm thế. Mày muốn mọi việc có vẻ như thế để khiến những gì mày nói với tao đáng tin. Điều đầu tiên mày làm sau khi phóng hỏa phòng ngủ của tao là chạy ra ngoài và gọi 911 từ một chiếc điện thoại trả trước. Tao đã kiểm tra với người nhận cuộc gọi. Người gọi tới nói là đã nhìn thấy lửa từ một bốt điện thoại. Ngoại trừ việc bốt điện thoại đó ở góc đường. Mày không thể nhìn thấy phòng tao từ đó. Thom đã kiểm tra chuyện đó, nhân đây. Cảm ơn, Thom,” Rhyme gọi người trợ lý, tình cờ lúc đó đi ngang qua cửa.

“Không có chi,” lời đáp lại đầy lo lắng.

Weir nhắm mắt lại, lắc đầu khi gã nhận ra sai lầm của mình nghiêm trọng thế nào.

Rhyme nheo mắt, nhìn vào bảng bằng chứng. “Tất cả các nạn nhân đều có công việc hoặc sở thích tương ứng với những màn trình diễn trong rạp xiếc – nhạc công, nghệ sĩ trang điểm, người cưỡi ngựa. Và các kỹ thuật giết người cũng là những trò ảo thuật. Nhưng nếu động cơ thực sự của mày là để hủy hoại Kadesky, mày hẳn đã dẫn bọn tao khỏi Cirque Fantastique, chứ không phải tới đó. Điều đó có nghĩa là mày đang dẫn dắt bọn tao khỏi điều gì đó khác. Là gì? Tao xem xét bằng chứng lần nữa. Ở hiện trường thứ ba, ở bờ sông, bọn tao đã làm mày bất ngờ. Mày đã không có thời gian để lấy chiếc áo khoác với tấm thẻ báo chí và thẻ phòng khách sạn trong túi, nó có nghĩa là đó không thể là những đầu mối được cài cắm. Chúng có liên hệ hợp lý nào đó với những gì mày đang thật sự toan tính.

Tấm thẻ phòng khách sạn là từ một trong ba khách sạn, trong đó có Lanham Arms. Thanh tra Bell nghĩ cái tên đó nghe quen quen và kiểm tra sổ danh bạ của anh ấy. Hóa ra anh ấy từng uống cà phê với Charles Grady ở quầy bar trong sảnh để trao đổi về chi tiết an ninh cho gia đình ấy một tuần trước. Roland nói với tao rằng Lanham ở ngay bên cạnh khu căn hộ của Grady. Còn tấm thẻ báo chí thì sao? Tao gọi cho phóng viên mà mày đã đánh cắp thẻ. Anh ta đang đưa tin về phiên tòa của Andrew Constable và đã phỏng vấn Charles Grady vài lần… Bọn tao tìm thấy ít vụn đồng và tưởng đó là điều tồi tệ nhất, rằng chúng là từ một quả bom hẹn giờ. Nhưng chúng có thể là từ một chiếc chìa khóa hay một dụng cụ nào đó.”

Sachs kể tiếp câu chuyện. “Còn trang báo của tờ The New York Times mà bọn tao tìm thấy trong chiếc xe của mày dưới dòng sông ư? Nó có một bài báo về rạp xiếc, đúng. Nhưng cũng có một bài báo về phiên tòa của Constable.”

Một cái hất đầu về phía bảng bằng chứng.


Âm mưu giết người của lực lượng vũ trang. Phiên tòa khai mạc hôm thứ Hai


Rhyme nói tiếp, “Cả hóa đơn nhà hàng nữa. Lẽ ra mày nên vứt nó đi.”

“Hóa đơn nào?” Weir hỏi, mày nhíu lại.

“Cũng trong áo khoác của mày. Thứ Bảy tuần trước nữa.”

“Nhưng cuối tuần đó tao...” Bỗng nhiên gã im lặng.

“Không ở trong thành phố, ý mày là thế đúng không?” Sachs hỏi. “Phải, bọn tao biết. Tờ hóa đơn từ một nhà hàng ở Bedford Junction.”

“Tao không biết bọn mày đang nói về chuyện gì.”

“Một cảnh sát tiểu bang ở Canton Falls đang điều tra Hội Ái quốc đã gọi vào điện thoại của tao, hỏi gặp Roland,” Rhyme nói. “Tao nhận ra mã vùng từ số gọi đến giống với mã vùng của nhà hàng trên tờ hóa đơn.”

Đôi mắt Weir ngừng lại và Rhyme tiếp tục, “Bedford Junction hóa ra là thị trấn bên cạnh Canton Falls, vốn là nơi Constable sống.”

“Bọn mày nói Constable nào vậy?” Gã hỏi thật nhanh. Nhưng Rhyme có thể nhìn thấy những dấu hiệu bộc lộ sự thú nhận trên khuôn mặt gã.

Sellitto tiếp tục. “Có phải Barnes là một trong số những người mày đã ăn trưa cùng? Jeddy Barnes?”

“Tao không biết mày nói đến ai.”

“Nhưng mày biết Hội Ái quốc chứ?”

“Chỉ những gì tao đọc được trên báo.”

“Bọn tao không tin mày,” Sellitto nói.

“Tin gì thì mặc xác bọn mày,” Weir quát. Rhyme có thể thấy cơn giận dữ dội trong mắt gã, cơn giận mà Dobyns đã tiên đoán. Một lát sau, gã hỏi, “Làm sao bọn mày tìm ra tên thật của tao?”

Không ai trả lời, nhưng đôi mắt Weir dừng lại ở dòng cuối cùng trên sơ đồ bằng chứng. Gã sầm mặt lại và kêu lên, “Có người đã phản bội tao, phải không? Kẻ đó đã nói với bọn mày về trận hỏa hoạn và Kadesky. Ai?” Một nụ cười độc ác khi gã liếc từ Sachs sang Kara và cuối cùng dừng lại ở Rhyme. “Là John Keating phải không? Nó đã nói với bọn mày là tao gọi cho nó, đúng không? Thằng chó hèn nhát. Nó chưa bao giờ bảo vệ tao. Art Loesser nữa, phải không? Bọn chúng đều là những thằng Judas75 chó chết. Tao sẽ nhớ chúng. Tao sẽ nhớ những kẻ nào đã phản bội tao.” Gã ho sặc sụa. Khi tràng ho kết thúc, Weir nhìn qua căn phòng. “Kara… Tên mày đúng không? Và mày là ai?”

75 Kẻ phản bội Chúa Jesus, chỉ điểm cho quân La Mã bắt giữ và đóng đinh Chúa.

“Tôi là một ảo thuật gia,” cô nói cứng cỏi.

“Một trong số bọn ta,” Weir mỉa móc, nhìn cô từ đầu đến chân. “Một nữ ảo thuật gia. Và mày làm gì? Tư vấn hay cái gì? Có thể sau khi tao được thả ra, tao sẽ ghé thăm mày. Có thể tao sẽ làm mày biến mất.”

Sachs quát, “À, mày sẽ không được thả ra trong cuộc đời này đâu, Weir.”

Tiếng cười lớn như mắc nghẹn của Gã phù thủy thật đáng sợ. “Vậy thì lúc tao trốn thoát thì sao? Những bức tường, xét cho cùng, cũng chỉ là một ảo ảnh.”

“Tao không nghĩ trốn thoát là một lựa chọn đâu,” Sellitto nói. Rhyme nói, “Chà, tao đã trả lời câu hỏi ‘làm sao’ của mày, Weir. Hay mày thích gọi là gì thì mặc mày. Thế bây giờ mày trả lời tao ‘tại sao’ nhé? Chúng tao đã nghĩ đó là một màn báo thù Kadesky. Nhưng rồi hóa ra là mày lại săn đuổi Grady. Mày là gì? Một nhà ảo thuật giết thuê à?”

“Báo thù?” Weir hỏi, giận dữ. “Báo thù thì có cái chó gì hay? Nó có làm những vết sẹo biến mất và chữa lành lá phổi của tao không? Nó có mang vợ tao trở về không?... Mày đếch hiểu gì hết! Thứ duy nhất trong đời tao, thứ duy nhất có ý nghĩa với tao là trình diễn. Ma thuật, ảo thuật. Thầy tao đã trui rèn tao để biểu diễn suốt cả cuộc đời tao. Ngọn lửa đã lấy điều đó của tao. Tao không có sức khỏe để biểu diễn. Tay tao biến dạng. Giọng nói bị hủy hoại. Ai sẽ đi xem tao đây? Tao chẳng thể làm thứ duy nhất mà Chúa ban cho tao tài năng để làm. Nếu cách duy nhất để tao có thể trình diễn là phạm pháp, thì tao sẽ làm thế.”

Hội chứng Bóng ma trong nhà hát…

Gã liếc nhìn cơ thể Rhyme lần nữa. “Mày cảm thấy thế nào sau tai nạn, có nghĩ mày không bao giờ làm cảnh sát được nữa không?” Rhyme im lặng. Nhưng những lời của kẻ sát nhân đã trúng đích. Anh đã cảm thấy thế nào? Tức giận, tương tự Erick Weir. Và phải, sau tai nạn, lối tư duy đúng và sai đã hoàn toàn biến mất. Tại sao không trở thành tội phạm chứ? Anh đã nghĩ trong cơn điên loạn vì giận dữ và tuyệt vọng. Mình có thể tìm thấy bằng chứng tốt hơn bất kỳ ai trên trái đất này. Điều đó có nghĩa mình cũng có thể thao túng nó. Mình có thể phạm tội ác hoàn hảo…

Cuối cùng, tất nhiên là, nhờ vào những người như Terry Dobyns, các bác sĩ khác cùng vài đồng đội và tinh thần của chính anh, những suy nghĩ đó mờ nhạt dần. Nhưng đúng, anh biết chính xác Weir đang nói gì. Dù ngay cả trong những khoảnh khắc trống trải và giận dữ nhất, anh cũng chưa bao giờ nghĩ tới việc tước đoạt một mạng sống – tất nhiên, trừ mạng sống của chính anh.

“Vậy là mày đã bán tài năng của mình như một gã lính đánh thuê à?”

Có vẻ Weir nhận ra rằng gã đã mất kiểm soát trong chốc lát và nói quá nhiều. Gã không nói thêm bất kỳ điều gì nữa.

Cơn giận của Sachs bùng nổ và cô bước lên tấm bảng trắng, xé toạc vài bức ảnh của hai nạn nhân đầu tiên. Gí chúng vào mặt Weir, cô quát, “Mày giết những người này chỉ để đánh lạc hướng? Với mày họ chỉ có nghĩa như thế thôi sao?”

Weir nhìn thẳng vào mắt cô, ra chiều ngán ngẩm. Rồi gã nhìn quanh và cười lớn. “Bọn mày thực sự nghĩ là có thể giữ được tao trong tù hả? Bọn mày có biết rằng trong một thử thách, Harry Houdini đã bị lột trần truồng và bỏ vào buồng biệt giam ở Washington, D.C không? Ông ấy đã thoát ra khỏi xà lim của mình nhanh tới mức còn có thời gian để mở tất cả những cánh cửa trong cả khu đó và tráo đổi các tử tù đã bị kết án ở các buồng với nhau trước khi nhóm kiểm tra thử thách quay lại sau giờ ăn trưa.”

Sellitto nói, “Phải, chuyện đó đã từ lâu lắm rồi. Ngày nay bọn tao tinh vi hơn thế.” Rồi nói với Rhyme và Sachs, “Tôi sẽ đưa gã xuống Trung tâm, xem gã có gì chia sẻ thêm với chúng ta không.”

Nhưng vào lúc họ bắt đầu ra đến cửa, Rhyme nói, “Đợi đã.” Mắt anh đang nhìn vào sơ đồ bằng chứng.

“Chuyện gì?” Sellitto hỏi.

“Khi gã thoát khỏi Larry Burke sau hội chợ đồ thủ công, gã đã mở được chiếc còng tay.”

“Đúng.”

“Chúng ta tìm thấy nước bọt, nhớ không? Tìm thử trong miệng gã xem có đồ phá khóa hay chìa khóa giấu trong đó không.”

Weir nói, “Tao không có, thật đấy.”

Sellitto đeo găng tay cao su mà Mel Cooper đưa. “Mở miệng ra. Mày mà cắn tao thì tao sẽ làm bi của mày biến mất đấy. Hiểu chưa? Một nhát cắn, không còn bi.”

“Đã hiểu.” Gã phù thủy mở miệng ra và Sellitto rọi đèn pin vào trong, tìm kiếm một chút. “Không thấy gì.”

Rhyme nói, “Có một chỗ khác mà chúng ta phải kiểm tra.” Sellitto càu nhàu. “Tôi sẽ đảm bảo họ làm điều đó dưới Trung tâm, Linc. Những điều mà tôi sẽ không làm với đồng lương họ đang trả cho tôi.”

Vào lúc viên thanh tra dẫn Weir đi ra cửa, Kara nói, “Đợi đã. Hãy kiểm tra răng của gã. Hãy lắc thử xem. Nhất là răng hàm ấy.”

Weir cứng người lại khi Sellitto tới gần. “Mày không được làm thế.”

“Mở miệng ra,” viên thanh tra to lớn quát. “À, và vẫn áp dụng quy tắc mất bi nhé.”

Gã phù thủy thở dài. “Răng hàm trên bên phải. Ý tôi là bên phải của tôi.”

Sellitto liếc nhìn Rhyme rồi thò tay vào và nhẹ nhàng kéo ra. Anh rút ra một chiếc răng giả. Bên trong là một mẩu kim loại nhỏ uốn cong. Anh ném nó lên một bảng kiểm tra bằng chứng rồi đặt được chiếc răng lại.

Viên thanh tra nói, “Khá là nhỏ. Gã thực sự có thể sử dụng nó sao?”

Kara kiểm tra nó. “Ồ, gã có thể mở một chiếc còng bình thường trong khoảng hai giây với thứ đó.”

“Mày rắc rối quá, Weir. Đi nào.”

Rhyme nghĩ ra điều gì đó. “À, Lon?” Viên thanh tra liếc về phía anh. “Anh có cảm giác là khi gã giúp chúng ta tìm ra đồ phá khóa trong răng của gã, đó có thể là một màn đánh lạc hướng nho nhỏ không?”

Kara gật đầu. “Anh có lý.”

Weir tỏ vẻ ghê tởm trong lúc Sellitto tìm kiếm lần nữa. Lần này viên thanh tra kiểm tra từng chiếc răng một. Anh tìm thấy một cái phá khóa thứ hai trong một chiếc răng giả tương tự ở hàm dưới bên trái.

“Tao đảm bảo sẽ nhốt mày ở một nơi hết sức đặc biệt,” viên thanh tra nói như báo một điềm không lành. Rồi anh gọi một cảnh sát khác trong phòng và lệnh cho anh ta xích chân Weir lại bằng hai bộ còng.

“Thế này tao không thể đi được,” Weir rít lên than phiền.

“Đi từng bước nhỏ,” Sellitto nói bằng giọng lạnh lùng. “Đi từng bước nhỏ thôi.”