• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Người biến mất
  3. Trang 37

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 36
  • 37
  • 38
  • More pages
  • 60
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 36
  • 37
  • 38
  • More pages
  • 60
  • Sau

Chương ba mươi mốt

M

ặc một bộ đồng phục của nhân viên khuân vác gần khớp với của những nhân viên khách sạn Lanham Arms, trên đường Upper East Side ở Manhattan, Malerick đi dọc theo hành lang tầng mười lăm của khách sạn. Gã bê một khay phục vụ phòng nặng, trên đó có một chiếc đĩa có nắp đậy và một bình hoa cắm một đóa tulip đỏ lớn.

Mọi thứ về gã hòa hợp với những thứ xung quanh tới mức không gây ra chút nghi ngờ nào. Bản thân Malerick chính là hình mẫu của một nhân viên khách sạn luôn tôn trọng khách, luôn thoải mái. Cặp mắt nửa nhìn đi chỗ khác, nụ cười nửa miệng, bước đi khiêm nhường, chiếc khay sạch bong.

Chỉ có một điều khiến gã khác với những nhân viên khách sạn khác ở Lanham này: dưới chiếc nắp đậy kim loại trên khay không phải là một đĩa trứng Benedict hay bánh mì kẹp mà là một khẩu súng ngắn tự động Beretta đã nạp đạn, lắp thêm thiết bị giảm thanh dày như một cây xúc xích, và một túi da đựng đồ phá khóa cùng các dụng cụ khác.

“Quý vị có hài lòng với việc nghỉ ở đây?” Gã hỏi một cặp đôi.

Có, quả là như thế, và họ chúc gã một buổi chiều tốt lành.

Gã tiếp tục gật đầu và mỉm cười với những vị khách đang trở lại phòng của họ sau bữa sáng muộn ngày Chủ nhật hay đang trên đường đi ngắm cảnh vào buổi chiều xuân đẹp đẽ này.

Gã đi qua một cửa sổ, ở đó gã có thể nhìn thấy chút màu xanh – một phần của công viên Trung Tâm. Gã tự hỏi sự phấn khích thế nào đang diễn ra ở đó vào thời điểm này, bên trong căn lều trắng của Cirque Fantastique – nơi mà gã đã bỏ ra vài ngày để dẫn dắt cảnh sát với những đầu mối gã bỏ lại ở những hiện trường các vụ giết người.

Hay đánh lạc hướng họ, nói ngắn gọn là thế.

Đánh lạc hướng và mưu mẹo là những yếu tố then chốt để ảo thuật thành công và không ai giỏi trò đó hơn Malerick, người đàn ông có hàng triệu khuôn mặt, người đàn ông hiện ra như một que diêm bật sáng, và biến mất như một ngọn lửa thình lình tắt.

Người tự làm mình biến mất.

Tất nhiên là cảnh sát sẽ rối lên, tìm quả bom xăng mà họ tin rằng sẽ phát nổ bất kỳ lúc nào. Nhưng không có quả bom nào cả, không có nguy hiểm nào với hai nghìn người ở Cirque Fantastique (không có rủi ro nào ngoài khả năng một số người sẽ bị giẫm đạp tới chết trong cơn hoảng loạn vô tri).

Đến cuối hành lang, Malerick liếc nhìn lại đằng sau và thấy gã chỉ có một mình. Thật nhanh chóng, gã đặt khay trên sàn gần ngưỡng cửa và nhấc chiếc nắp đậy lên. Gã lấy khẩu súng lục màu đen và tuồn nó vào trong chiếc túi có khóa kéo của bộ đồng phục nhân viên khách sạn. Gã mở chiếc túi da đựng dụng cụ, lấy ra một chiếc tua vít và cũng bỏ vào túi.

Hành động thật nhanh, gã nới thanh kim loại ra khiến cánh cửa sổ chỉ mở hé được một chút (con người có vẻ như tận dụng bất cứ cơ hội nào để tự giết bản thân, có phải không? Gã nghĩ) và đẩy cửa sổ lên hết mức. Gã cẩn thận bỏ chiếc tua vít vào đúng chỗ của nó trong chiếc túi da và kéo khóa lại. Cánh tay mạnh mẽ của gã khéo léo đẩy người qua bệ cửa sổ. Gã bước đi thận trọng trên bệ cửa sổ cách mặt đất gần năm chục mét.

Bệ cửa sổ rộng hơn nửa mét – gã đã đo bệ cửa sổ giống thế ở căn phòng mà gã ở tại đây vài ngày trước – và dù gã không hay diễn trò nhào lộn trong đời mình, gã có sự thăng bằng tuyệt vời của những nhà ảo thuật lớn. Lúc này gã di chuyển dọc theo rìa đá hoa cương một cách thoải mái như thể đó là trên vỉa hè. Sau một cuộc tản bộ chỉ khoảng năm mét, gã đi tới góc khách sạn và dừng lại, nhìn vào tòa nhà bên cạnh Lanham Arms.

Chỗ này, một tòa nhà chung cư ở đường 75 Đông, không có bệ cửa sổ chìa ra nhưng có một lối thoát hiểm, cách chỗ gã đang đứng bây giờ gần hai mét – nhìn xuống một ống thông gió lúc nào cũng thổi phần phật vì máy điều hòa. Malerick lấy đà và nhảy qua khoảng trống không đáy đó, gã dễ dàng bám được vào cầu thang thoát hiểm và đu lên chấn song.

Gã trèo lên hai nhịp thang và dừng lại ở một cửa sổ của tầng mười bảy. Gã liếc vào trong. Hành lang không người. Gã đặt khẩu súng và bộ dụng cụ lên bệ cửa sổ rồi cởi bộ đồ nhân viên khách sạn giả ra bằng một động tác thật nhanh, để lộ bên trong là một bộ vest xám đơn giản, sơ-mi trắng và cà-vạt. Khẩu súng được giắt vào thắt lưng và gã lại sử dụng các dụng cụ lần nữa để mở khóa cửa sổ. Gã nhảy vào trong.

Đứng đó bất động, lấy hơi. Malerick sau đó bắt đầu đi về cuối hành lang, tới chỗ căn hộ gã tìm kiếm. Dừng ở cửa, gã quỳ gối xuống và lại mở bộ dụng cụ ra. Gã nhét một thanh chịu lực vào lỗ khóa và ở trên đó là đồ phá khóa. Chỉ trong ba giây, gã đã phá được khóa. Trong năm giây là then cửa. Gã đẩy cửa mở hé chỉ đủ để nhìn thấy bản lề, và xịt dầu lên đó từ một bình xịt nhỏ xíu, như bình xịt suyễn, để chúng không kêu. Một thoáng sau gã đã ở trong hành lang dài, tối tăm của căn hộ. Malerick khẽ đóng cửa lại.

Gã định hướng lại, nhìn quanh chỗ lối vào.

Trên tường có một số bản in những tranh phong cảnh siêu thực của Salvador Dalí được sản xuất hàng loạt, vài bức ảnh gia đình, và nổi bật nhất, một bức họa màu nước vụng về miêu tả thành phố New York do trẻ con vẽ (chữ ký của họa sĩ là “Chrissy”). Một cái bàn nhếch nhác đặt ở gần cửa ra vào, chiếc chân ngắn của nó được chèn cho khỏi cập kênh bằng tờ giấy viết khổ to gập lại màu vàng. Một chiếc giày trượt tuyết, dây buộc đã bung ra, nằm cô đơn dựa vào góc hành lang. Giấy dán tường đã cũ và ố vàng.

Malerick đi dọc hành lang, tới chỗ có âm thanh của chiếc ti- vi trong phòng khách, nhưng gã đi vòng một chút, bước vào một phòng nhỏ tối tăm có kê một cây đại dương cầm mini Kawai bằng gỗ mun. Một cuốn sách nhạc với các hướng dẫn được ghi chú ở lề mở ra phía trên cây đàn. Cái tên “Chrissy” cũng xuất hiện ở đây – viết trên bìa sách. Malerick chỉ có kiến thức sơ đẳng về âm nhạc, nhưng khi gã lật qua cuốn sách học nhạc, gã thấy rằng những bài học đó có vẻ khá khó.

Gã cho rằng cô bé có thể là một họa sĩ tệ, nhưng là một tài năng âm nhạc trẻ – cô bé Christine Grady này, con gái của trợ lý công tố quận New York Charles Grady.

Người đàn ông đó là chủ của căn hộ này. Người đàn ông mà Malerick đã được trả một trăm nghìn đô-la để sát hại.

***

Amelia Sachs ngồi trên đám cỏ bên ngoài căn lều của Cirque Fantastique, nhăn nhó vì cơn đau đang nhói lên quanh quả thận bên phải của cô. Cô đã giúp vài chục người thoát khỏi cảnh bị chen lấn và tìm được một chỗ để hít thở.

Nhìn chằm chằm vào cô từ tấm băng-rôn trắng đen khổng lồ trên đầu là Arlecchino đeo mặt nạ, vẫn đang gào thét dữ dội trong gió. Anh ta có vẻ đáng sợ vào ngày hôm qua; còn giờ đây, sau cơn hoảng loạn ở trong kia – do chính anh ta đã gây ra – hình ảnh đó trở nên gớm ghiếc và kinh tởm.

Cô đã tránh được việc bị giẫm đạp tới chết; đầu gối và chiếc ủng đã đạp trúng người cô là của một người đàn ông đang quờ quạng trên đầu và vai của đám khán giả để chen ra cửa. Dẫu vậy, lưng, xương sườn và mặt cô đau nhức kinh khủng. Cô đã ngồi ở đây được gần mười lăm phút, chóng mặt và buồn nôn, một phần vì cuộc chen lấn, một phần vì chứng sợ hãi không gian hẹp. Về cơ bản, cô chịu được những căn phòng hẹp, thậm chí là thang máy. Nhưng bị ép chặt hoàn toàn, không thể cử động khiến cô phát bệnh thật sự và phủ nỗi kinh hãi lên cô.

Xung quanh cô, những người bị thương đang được chữa trị. Không có gì nghiêm trọng, người phụ trách bộ phận cứu thương đã báo lại với cô – chủ yếu là các ca bong gân và trầy xước. Có vài ca trật khớp và một cánh tay bị gãy.

Sachs và những người xung quanh cô đã bị đẩy ra chỗ lối ra phía nam của căn lều. Khi đã ở ngoài, cô khuỵu gối xuống cỏ, bò ra khỏi đám đông. Không còn bị mắc kẹt trong không gian khép kín với một quả bom sắp phát nổ hay một tên khủng bố có vũ trang, khán giả trở nên hiền lành hơn hẳn và giúp đỡ những người bị chóng mặt hay bị thương.

Cô vẫy tay gọi một cảnh sát ở đội phá bom, ngước nhìn anh ta từ chiếc nệm cỏ của cô, giơ phù hiệu ra và nói với anh ta về món đồ phủ vải dầu dưới những chiếc ghế gần cửa phía nam. Anh ta trở lại với các đồng sự của mình ở trong.

Rồi tiếng nhạc lanh lảnh trong lều dừng lại và Edward Kadesky bước ra ngoài.

Theo dõi đội phá bom làm việc, một số khán giả nhận ra là có một mối đe dọa thật sự và chính sáng kiến của Kadesky đã cứu họ khỏi một cơn hoảng loạn tồi tệ hơn; họ đã cho ông một tràng pháo tay bất ngờ, điều mà ông đã đón nhận một cách khiêm nhường khi đi vòng quanh để kiểm tra các nhân viên và khán giả của mình. Những người đi xem xiếc khác – dù bị thương hay không – ít rộng lượng hơn và cau có đòi được biết chuyện gì đã xảy ra và than phiền rằng ông lẽ ra phải xử lý việc sơ tán tốt hơn.

Trong khi đó, đội phá bom và một tá lính cứu hỏa tản ra tìm kiếm khắp lều và không thấy dấu hiệu gì của bất kỳ thiết bị nào. Chiếc hộp bịt vải dầu hóa ra là thùng giấy vệ sinh. Cuộc tìm kiếm mở rộng tới những chiếc xe kéo và xe tải hậu cần nhưng cảnh sát cũng không tìm thấy gì ở đó.

Sachs nhíu mày. Họ đã sai chăng? Làm sao có thể như vậy? Cô tự nhủ. Bằng chứng quá rõ ràng. Rhyme có kiểu đưa ra những giả định táo bạo về bằng chứng và thi thoảng đúng là anh có phạm sai lầm. Nhưng trong trường hợp Gã phù thủy, có vẻ mọi bằng chứng đều ăn khớp với nhau và chỉ thẳng về mục tiêu của gã là Cirque Fantastique.

Rhyme đã biết là họ không tìm thấy quả bom nào chưa? Cô tự hỏi. Ngày càng bất an, cô đi mượn bộ đàm của ai đó; chiếc Motorola của cô, giờ đã vỡ tan thành từng mảnh gần cửa phía nam của căn lều, có vẻ là nạn nhân đã tử vong duy nhất của cơn hoảng loạn.

***

Bước đi lặng lẽ ra khỏi phòng nhạc trong căn hộ của Charles Grady, Malerick trở lại hành lang tối tăm và dừng lại, lắng nghe âm thanh từ phòng khách và nhà bếp.

Gã tự hỏi chuyện này có thể nguy hiểm tới mức nào.

Gã bước đi sao cho làm giảm khả năng những vệ sĩ của Grady sẽ hoảng loạn và bắn hạ gã. Trong bữa trưa tại Riverside Inn thuộc khu Bedford Junction hai tuần trước, gặp gỡ Jeddy Barnes và những kẻ khác trong nhóm vũ trang ở vùng thượng New York, Malerick đã vạch ra kế hoạch này. Gã quyết định rằng tốt nhất là để ai đó tìm cách lấy mạng tay công tố viên trước khi Malerick đột nhập vào căn hộ của Grady hôm nay. Kẻ được vũ trụ lựa chọn làm bình phong hứng chịu là một mục sư trụy lạc ở Canton Falls tên là Ralph Swensen. (Barnes có thể ít nhiều thao túng tay mục sư nhưng hắn giải thích với Malerick rằng hắn không hoàn toàn tin tưởng ông ta. Nên sau khi thoát khỏi sông Harlem hôm qua, tay ảo thuật gia đã mặc bộ đồ gác cổng và đi theo lão mục sư từ khách sạn tồi tàn của lão tới khu Greenwich Village – chỉ để đảm bảo rằng lão khốn đó không chùn bước vào phút chót.)

Việc Swensen thất bại đã nằm trong kế hoạch của Malerick (khẩu súng mà Barnes cung cấp cho lão thực chất đã hỏng kim hỏa). Malerick lập luận rằng việc bắt được một tay sát thủ sẽ khiến những vệ sĩ của Grady trở nên tự mãn và về mặt tâm lý sẽ ít phản ứng kịch liệt hơn khi thấy kẻ sát nhân thứ hai.

Chà, lý thuyết là thế, gã nghĩ không thật thoải mái. Hãy xem liệu điều đó có đúng trong thực tế không.

Gã bước đi lặng lẽ qua những bức tranh xấu òm khác, thêm những bức ảnh gia đình, qua những chồng tạp chí – về pháp luật và những tờ Vogue và The New Yorkers – những món đồ cổ đường phố cũ mèm mà nhà Grady đã mua với ý định sửa sang lại nhưng rồi nằm yên ở đó như những vật chứng trường tồn rằng họ chẳng có đủ thời giờ.

Malerick biết hết đường lối trong căn hộ; gã từng ở đây một thời gian ngắn trước kia – đóng giả làm một người bảo trì – nhưng đó chỉ là công tác thăm dò cơ bản, tìm hiểu cách bố trí, lối vào và các lối thoát. Gã đã không có đủ thời gian để để ý tới khía cạnh riêng tư của đời sống gia đình này: những bằng cấp của tay Grady và vợ cũng là một luật sư. Những bức ảnh cưới. Các ảnh chụp người thân và cả một phòng tranh ảnh của cô con gái tóc vàng chín tuổi của họ.

Malerick nhớ lại cuộc gặp của gã với Barnes và các cộng sự trong bữa trưa. Những kẻ vũ trang đó đã lạc đề sang việc có nên giết cả vợ và con gái Grady không. Theo kế hoạch của Malerick, hy sinh Swensen là hợp lý. Nhưng gã tự nhủ mục đích của việc giết cả gia đình Grady là gì? Gã đã nêu câu hỏi đó với Barnes và những người khác trong khi ăn những miếng gà tây quay rất ngon.

“Giờ thì, ông Weir,” Jeddy Barnes nói với Malerick. “Đấy là một câu hỏi hay. Tôi sẽ nói là ông nên giết hết chúng.”

Và Malerick đã gật đầu, bộc lộ một cử chỉ trầm tư; gã hiểu biết đủ để không bao giờ coi thường cả khán giả lẫn những người bạn diễn cùng. “Tôi không ngại giết họ,” gã giải thích. “Nhưng chẳng phải là sẽ hợp lý hơn nếu để họ còn sống, trừ khi họ là một nguy cơ – như nguy cơ họ có thể nhận dạng tôi? Hay giả sử, con bé chạy tới chỗ điện thoại và gọi cảnh sát? Có lẽ bên phía các anh cũng có những người phản đối việc giết phụ nữ và trẻ em.”

“Đấy là kế hoạch của ông, ông Weir,” Barnes nói. “Chúng tôi sẽ chấp nhận những gì ông tính toán.” Dù ý tưởng hành động chừng mực có vẻ khiến hắn không hài lòng đôi chút.

Giờ Malerick dừng lại bên ngoài phòng khách của Grady và đeo một phù hiệu NYPD giả vào cổ, chiếc phù hiệu gã đã giơ ra cho các cảnh sát ở gần Cirque Fantastique khi gã nói họ được phép về nhà hôm nay. Gã liếc nhìn vào một tấm gương mua ở chợ trời mà mặt gương cần phải được sơn phủ lại.

Phải, gã đã vào vai, nhìn hệt như một thanh tra cảnh sát có mặt ở đây để bảo vệ một công tố viên chống lại những lời dọa sát hại kinh khủng.

Gã hít một hơi thật sâu. Không lo lắng.

Và giờ, thưa quý khán giả thân mến, đèn đã bật, màn đã kéo lên.

Buổi diễn thực sự sắp sửa bắt đầu…

Tay buông tự nhiên bên cạnh thân người, Malerick rẽ ở góc hành lang và bước vào trong phòng khách.