M
ẹ phải thấy, mẹ ạ. Con nghĩ là con đã làm họ ngây ngất.”
Kara ngồi trên thành ghế, cầm ly cà phê Starbucks âm ấm trong tay cô, hơi ấm từ chiếc cốc giấy thật giống với độ ấm của da người – như nhiệt độ làn da mẹ cô chẳng hạn, làn da vẫn còn hồng hào, còn rạng rỡ.
“Con có nguyên sân khấu cho riêng mình trong bốn mươi lăm phút. Hay không?”
“Con…?”
Từ đó không phải là của một cuộc đối thoại tưởng tượng. Người phụ nữ đã thức giấc và hỏi một câu rành rọt.
Con.
Dù Kara không biết được ý mẹ mình là gì. Nó có thể có nghĩa là: Con vừa nói gì?
Hay: Con là ai? Tại sao con vào phòng ta và ngồi ở đây như thể chúng ta quen biết nhau?
Hay: Ta từng nghe từ “con” ở đâu đó rồi nhưng ta không biết nó có nghĩa gì và ta xấu hổ quá không dám hỏi. Ta biết là nó quan trọng, nhưng ta không nhớ nổi. Con, con, con…
Rồi mẹ cô nhìn ra cửa sổ vào đám thường xuân leo, rồi nói, “Mọi việc sẽ ổn. Chúng ta rồi sẽ vượt qua chuyện này thôi.”
Kara biết sẽ chỉ thất vọng mà thôi nếu tiếp tục nói chuyện với bà khi bà đang ở trong trạng thái tâm trí thế này. Những câu nói của bà chẳng liên quan gì tới nhau. Thậm chí đôi khi bà còn quên mất dòng suy nghĩ của mình ngay trong một câu và giọng nói của bà sẽ lặng dần, trở thành sự tĩnh lặng đầy bối rối.
Nên bản thân Kara lúc này cũng chỉ nói lan man, về màn trình diễn Hóa thân mà cô vừa thực hiện. Và rồi, còn xúc động hơn, cô kể với mẹ về việc giúp cảnh sát bắt được một kẻ giết người.
Trong một khoảnh khắc, lông mày mẹ cô nhướn lên như thể nhận ra điều gì đó và tim Kara bắt đầu đập mạnh. Bà ngả người về phía trước.
“Ta đã tìm thấy chiếc hộp thiếc. Ta nghĩ là ta không bao giờ thấy nó nữa chứ.”
Rồi bà lại ngả xuống gối.
Tay Kara nắm lại thành nắm đấm. Hơi thở của cô dồn dập. “Là con đây mà, mẹ! Là con! Nhóc hoàng gia đây. Mẹ không thấy con sao?”
“Con?”
Mẹ kiếp! Kara điên tiết trong im lặng với con quỷ dữ đã nhập vào người phụ nữ tội nghiệp này và ngấu nghiến linh hồn của bà. Hãy để bà ấy yên! Trả bà ấy lại cho tao!
“Xin chào.” Giọng một phụ nữ ở cửa làm Kara giật mình, cô kín đáo lau những giọt nước mắt trên má, gọn gàng như khi biểu diễn màn đồng xu Pháp, rồi quay lại.
“Chào,” cô nói với Amelia Sachs. “Cô theo đuôi tôi hả?”
“Tôi là cảnh sát. Đó là những gì chúng tôi làm.” Cô bước vào phòng, tay cầm hai ly Starbucks. Cô liếc nhìn ly cà phê trong tay Kara. “Xin lỗi. Hơi thừa rồi.”
Kara gõ gõ chiếc cốc giấy mà cô đang cầm. Cô cầm lấy ly cà phê thứ hai đầy biết ơn. “Tôi không bao giờ lãng phí cafein.” Cô bắt đầu nhấp cà phê. “Cảm ơn. Mọi người vui chứ?”
“Chắc chắn rồi. Người phụ nữ kia thật tuyệt. Jaynene ấy. Thom đã phải lòng chị ấy. Và chị ấy thực sự làm Lincoln cười.”
“Chị ấy đúng là khiến tất cả mọi người vui vẻ,” Kara nói. “Một người tuyệt vời.”
Amelia nói, “Balzac lôi cô đi khá nhanh lúc buổi diễn kết thúc. Tôi chỉ muốn ghé qua và cảm ơn cô lần nữa. Và nói rằng cô nên gửi hóa đơn cho chúng tôi vì thời gian cô đã bỏ ra.”
“Tôi không bao giờ nghĩ tới chuyện đó. Cô đã giới thiệu tôi với cà phê kiểu Cuba. Thù lao vậy là đủ.”
“Không, hãy tính tiền chúng tôi đi. Gửi cho tôi và tôi đảm bảo thành phố sẽ chi trả.”
“Làm việc cho nhà nước,” Kara nói. “Đấy sẽ là câu chuyện tôi kể cho con cháu mình… Này, tối nay tôi rảnh, ông Balzac đi với bạn. Tôi sẽ gặp một số người ở dưới SoHo. Cô muốn đi cùng không?”
“Chắc chắn rồi,” nữ cảnh sát nói. “Chúng ta có thể...” Cô nhìn lên, qua vai Kara. “Xin chào.”
Kara liếc lại sau lưng và thấy mẹ cô, đang nhìn nữ cảnh sát đầy tò mò, và ánh mắt đánh giá đó. “Bây giờ bà ấy không biết gì đâu.”
“Là hồi mùa hè,” người phụ nữ lớn tuổi nói. “Là tháng Sáu, ta chắc chắn thế.” Bà nhắm mắt lại và nằm xuống.
“Bà ấy không sao chứ?”
“Chỉ tạm thời thôi. Bà ấy sẽ sớm hồi phục. Tâm trí bà ấy đôi khi hơi lạ lùng.” Kara vuốt cánh tay người phụ nữ rồi hỏi Sachs, “Cha mẹ cô thì sao?”
“Nghe sẽ quen đấy, tôi có cảm giác thế. Cha tôi đã chết. Mẹ tôi sống gần tôi ở Brooklyn. Quá gần để thấy thoải mái. Nhưng chúng tôi đã đi tới một… sự thấu hiểu.”
Kara biết rằng sự thấu hiểu giữa mẹ và con gái cũng phức tạp ngang các hiệp ước quốc tế và cô không yêu cầu Amelia nói rõ, không phải giờ. Sẽ có thời gian cho chuyện đó trong tương lai.
Một tiếng bíp lanh lảnh tràn ngập căn phòng và cả hai người phụ nữ với tay lấy máy nhắn tin ở thắt lưng họ. Amelia thắng. “Tôi đã tắt điện thoại di động khi tới đây. Có biển báo ở sảnh không cho sử dụng. Cô không phiền chứ?” Cô hất đầu về phía chiếc điện thoại trên bàn.
“Không sao, gọi đi.”
Cô cầm điện thoại lên và bấm số, Kara đứng lên để kéo lại chăn trên giường mẹ cô. “Còn nhớ khách sạn mà chúng ta nghỉ ở Warwick không, mẹ? Gần lâu đài ấy?”
Mẹ còn nhớ không? Nói với con là mẹ còn nhớ đi!
Giọng Amelia: “Rhyme hả? Em đây.”
Tuy nhiên, cuộc đối thoại một chiều của Kara bị cắt ngang vài giây sau đó khi cô nghe giọng viên cảnh sát trở nên khẩn trương, “Sao cơ? Khi nào?”
Quay sang nữ cảnh sát, Kara nhíu mày. Amelia đang nhìn cô, lắc đầu. “Em sẽ tới ngay… Em đang ở cùng cô ấy. Em sẽ báo với cô ấy.” Cô gác máy.
“Có chuyện gì vậy?” Kara hỏi.
“Có vẻ tôi không đi cùng mọi người được. Chúng ta đã bỏ sót một vật phá khóa hoặc một chiếc chìa khóa. Weir tháo được còng tay ở nơi giam giữ và lấy được súng của ai đó. Gã đã chết.”
“Ôi Chúa ơi.”
Amelia đi về phía cửa. “Tôi sẽ phải tới khám nghiệm hiện trường ở đó.” Cô dừng lại và liếc nhìn Kara. “Cô biết đấy, tôi đã lo về việc phải giam gã trong phiên tòa. Gã đơn giản là quá khó để nắm giữ. Nhưng tôi đoán là vẫn còn công lý. À, chuyện hóa đơn? Dù cô định tính bao nhiêu tiền, hãy gấp đôi số đó lên nhé.”
***
“Constable có thông tin,” giọng người đàn ông quả quyết qua điện thoại.
“Hắn đã chơi trò thám tử, phải không?” Charles Grady ráo hoảnh hỏi tay luật sư.
Ráo hoảnh – nhưng không mỉa mai. Công tố viên không ghét bỏ gì Joseph Roth, người dù bào chữa cho một kẻ tồi tệ, là một luật sư đã xoay xở đi vòng qua được những điều tồi tệ mà thân chủ của anh ta đã làm cũng như đối xử với văn phòng công tố và cảnh sát một cách trung thực và tôn trọng. Grady coi trọng điều đó.
“Phải, đúng thế. Đã gọi vài cuộc lên Canton Falls và gợi nỗi sợ Chúa trong vài tay ở Hội Ái quốc. Họ đã kiểm tra thử. Có vẻ như một số thành viên cũ đã phát cuồng.”
“Là ai? Barnes? Stemple?”
“Chúng tôi không đào sâu. Tất cả những gì tôi biết là anh ta khá bực dọc. Anh ta cứ nói mãi, ‘Judas, Judas, Judas.’ Hết lần này tới lần khác.”
Grady không mấy cảm thông. Chơi với dao thì thế thôi… Anh nói với tay luật sư, “Hắn biết là tôi sẽ không để hắn thoát được dễ dàng.”
“Anh ta hiểu điều đó, Charles.”
“Anh biết là Weir đã chết chứ?”
“Có… Tôi phải nói với anh rằng Andrew vui lòng được nghe điều đó. Tôi thực sự tin rằng anh ta không liên quan gì tới việc làm hại anh, Charles.”
Grady chẳng hứng thú gì với ý kiến của tay luật sư bào chữa, ngay cả với những tay luật sư thẳng thớm như Roth. Anh hỏi, “Và hắn ta có thông tin gì chắc chắn không?”
“Có, anh ta có.”
Grady tin anh ta. Roth là một người bạn đơn giản là không thể qua mặt được; nếu anh ta nghĩ Constable sẽ khai ra một vài người của hắn thì điều đó sẽ xảy ra. Tất nhiên, sự thành công của vụ án tới đâu thì lại là vấn đề khác. Nhưng nếu Constable đưa ra thông tin tương đối chính xác và nếu cảnh sát bang làm việc khá khẩm một chút với cuộc điều tra và bắt giữ của họ, anh tự tin anh có thể tóm được những thủ phạm. Grady cũng sẽ đảm bảo Lincoln Rhyme sẽ giám sát phần pháp y.
Grady có cảm xúc lẫn lộn về cái chết của Weir. Trong khi công khai, anh bày tỏ sự quan ngại về vụ nổ súng của hắn ta và hứa sẽ tiến hành điều tra chính thức, còn thâm tâm anh vui mừng vì kẻ xấu xa đó đã bị xử lý. Anh vẫn còn sốc và giận dữ vì một kẻ sát nhân đã bước thẳng vào căn hộ nơi vợ và con gái anh sống, còn sẵn sàng giết cả họ.
Grady nhìn vào ly rượu vang mà anh đang rất muốn uống, nhưng nhận ra rằng một hệ quả của cuộc gọi đó là lúc này đây, nó không cho phép anh uống rượu. Vụ Constable hết sức quan trọng tới mức anh cần tập trung toàn bộ tâm trí của anh.
“Anh ta muốn gặp mặt trực tiếp,” Roth nói.
Đó là rượu Grgich Hills Cabernet Sauvignon. Một chai năm 1997, chứ không phải năm nào khác. Nho tuyệt ngon, năm tuyệt vời.
Roth nói tiếp, “Bao giờ anh có thể xuống nơi giam giữ?”
“Nửa tiếng. Tôi đi bây giờ đây.”
Grady gác máy và tuyên bố với vợ mình, “Tin tốt là sẽ không có phiên tòa nào hết.”
Luis, tay vệ sĩ có đôi mắt lờ đờ, nói, “Tôi sẽ đi với anh.”
Sau cái chết của Weir, Lon Sellitto đã giảm nhóm vệ sĩ xuống còn một người.
“Không, anh ở đây với gia đình tôi, Luis. Tôi thấy thế tốt hơn.”
Vợ anh hỏi thận trọng, “Anh yêu, nếu đó là tin tốt, thì tin xấu là gì?”
“Anh sẽ không về ăn tối được,” công tố viên đáp, ném một nắm bánh quy giòn Goldfish vào miệng và chiêu một ngụm lớn thứ rượu vang ngon lành, trong đầu nghĩ, mặc kệ, cứ ăn mừng đã nào.
***
Chiếc Camaro SS màu vàng rách bươm vì chiến trận của Sachs dừng lại bên ngoài số 100 đường Centre. Cô ném tấm biển NYPD lên kính trước rồi bước ra ngoài. Cô gật đầu với một nhân viên khám nghiệm hiện trường đang đứng cạnh chiếc xe kéo của họ. “Hiện trường ở đâu?”
“Phía sau tầng một. Hành lang tới phòng giam.”
“Phong tỏa chưa?”
“Rồi.”
“Vũ khí của ai?”
“Linda Welles. Cục Trại giam. Cô ấy khá là sốc. Gã khốn đó đã làm vỡ mũi cô ấy.”
Sachs chụp một cái valy và treo nó vào một chiếc xe đẩy hành lý có bánh, rồi đi về phía cửa trước tòa nhà Tòa án Hình sự. Những kỹ thuật viên hiện trường khác cũng làm thế và đi theo cô.
Hiện trường này sẽ dễ thôi, hẳn vậy. Một vụ vô ý nổ súng liên quan tới một cảnh sát và một nghi phạm tìm cách trốn thoát ư? Chỉ là vấn đề thủ tục. Dẫu vậy, biến cố đó vẫn gây chết người và đòi hỏi một báo cáo hiện trường đầy đủ cho Ủy ban Sự cố Nổ súng và bất kỳ cuộc điều tra và kiện tụng nào. Amelia Sachs sẽ kiểm tra nó kỹ lưỡng như mọi hiện trường khác.
Một lính gác kiểm tra giấy tờ tùy thân của họ và để nhóm đi qua một mê cung những hành lang vào trong tầng hầm. Cuối cùng họ tới chỗ một dải băng vàng của cảnh sát giăng ngang qua một cánh cửa đóng. Ở đây cô thấy một thanh tra đang trao đổi với một cảnh sát mặc đồng phục, mũi cô ấy nhét đầy giấy ăn và băng gạc.
Sachs tự giới thiệu và giải thích rằng cô sẽ kiểm tra hiện trường. Viên thanh tra bước sang một bên và Sachs hỏi Linda Welles chuyện gì đã xảy ra.
Bằng giọng nghẹt mũi ngập ngừng, nữ cảnh vệ giải thích rằng trên đường từ chỗ lấy dấu vân tay tới chỗ nhốt, nghi phạm không biết bằng cách nào đã tháo được còng tay. “Gã chỉ mất hai, ba giây. Tất cả các còng. Cứ như thế, chúng mở ra. Gã không lấy được chìa khóa của tôi.” Cô chỉ vào túi áo của mình, nơi chìa khóa hẳn nằm ở đó. “Gã có đồ phá khóa hay chìa khóa hay thứ gì đó ở hông.”
“Trong túi sao?” Sachs hỏi, nhíu mày. Cô nhớ là họ đã lục soát người gã rất kỹ lưỡng.
“Không, chân gã. Rồi cô sẽ thấy.” Cô hất đầu về phía hành lang nơi thi thể Weir đang nằm. “Có một vết cắt trên da gã. Dưới miếng băng cá nhân. Mọi thứ diễn ra quá nhanh.”
Sachs cho rằng gã đã tự rạch cơ thể mình để tạo ra một nơi giấu đồ. Một ý nghĩ khiến cô buồn nôn.
“Rồi gã chụp lấy vũ khí của tôi và chúng tôi vật lộn giành giật nó. Nó được rút ra. Tôi không cố ý bóp cò. Tôi thực sự không cố ý. Nhưng… Tôi đã cố gắng để kiểm soát tình hình và tôi không thể. Súng nổ.”
Kiểm soát… Súng nổ. Những từ đó, ngôn ngữ chính thức của cảnh sát, có lẽ là một nỗ lực để giúp cô nguôi ngoai cảm giác tội lỗi hiện giờ. Chuyện này không liên quan gì tới thực tế là một kẻ giết người đã chết, rằng sinh mạng cô đã bị đe dọa, hay hơn một chục cảnh sát khác đã bị gã này qua mặt; không, đó là một phụ nữ đang run rẩy. Phụ nữ làm việc ở NYPD bị yêu cầu những chuẩn mực cao; những yêu cầu với họ luôn khó khăn hơn với nam giới.
“Chúng tôi đã bắt và lục soát gã,” Sachs nói thật dịu dàng. “Và chúng tôi cũng đã bỏ sót chiếc chìa khóa đó.”
“Phải,” người cảnh sát thì thầm. “Nhưng chuyện này vẫn sẽ được nêu ra.”
Ý cô là ở cuộc điều tra nổ súng. Và đúng, sẽ là như thế.
Sachs sẽ trình bày hết sức tỉ mỉ trong báo cáo của cô để hỗ trợ nữ cảnh sát nhiều nhất có thể.
Welles khẽ chạm vào mũi mình. “Ôi, đau quá.” Nước mắt tràn mi. “Mấy đứa con tôi sẽ nói gì đây? Chúng luôn hỏi tôi là tôi có làm gì nguy hiểm không. Và tôi luôn nói với chúng là không. Giờ hãy xem này…”
Đeo găng tay cao su vào, Sachs hỏi lấy khẩu Glock của người phụ nữ. Cô cầm nó, lấy ổ đạn ra và đổ đạn khỏi hộp đạn. Tất cả mọi thứ được cho vào một túi nhựa đựng bằng chứng.
Chuyển sang trạng thái trung sĩ, Sachs nói, “Cô có thể xin nghỉ phép, cô biết đấy.”
Welles còn không nghe lời cô nói. “Súng cứ thế nổ,” người phụ nữ nói bằng giọng trống rỗng. “Tôi không muốn thế. Tôi không muốn giết ai cả.”
“Linda?” Sachs nói. “Cô có thể xin nghỉ phép. Một tuần hoặc mười ngày.”
“Được sao?”
“Hãy nói chuyện với cấp trên của cô.”
“Chắc chắn rồi. Phải. Tôi có thể làm thế.” Welles đứng lên và lững thững đi về phía tay bác sĩ đang điều trị cho đồng đội của cô, anh ta bị một vết bầm chướng mắt ở cổ nhưng ngoài ra thì có vẻ ổn.
Đội hiện trường lập một khu vực kiểm soát tạm thời bên ngoài cửa dẫn vào hành lang nơi vụ nổ súng xảy ra, mở các valy và sắp xếp thiết bị thu thập bằng chứng, thiết bị lấy vân tay, máy quay phim và chụp ảnh. Sachs mặc bộ áo liền quần Tyvek trắng và thêm phụ kiện bằng những dải cao su quấn quanh chân cô.
Cô chỉnh lại micro ở trên đầu và yêu cầu kết nối với điện thoại của Lincoln Rhyme. Xé dải băng của cảnh sát ra, cô mở cửa, trong đầu nghĩ: Một vết cắt trên da để giấu đồ phá khóa và chìa khóa còng tay ư? Trong tất cả những nghi phạm cô và Lincoln đã đối phó, Gã phù thủy là...
“Ôi, mẹ kiếp,” cô bật ra.
“Chào em, Sachs,” Rhyme nói chua chát qua tai nghe của cô. “Ít ra anh nghĩ đó là em. Chẳng thấy lên tiếng gì cả.”
“Không thể tin nổi, Rhyme ơi. Người khám nghiệm pháp y đã lấy thi thể đi trước khi em kịp xử lý.” Sachs đang nhìn dọc theo hành lang, đẫm máu nhưng không một bóng người.
“Sao cơ?” Anh quát. “Ai cho phép điều đó?”
Quy tắc khám nghiệm hiện trường vụ án là những người phụ trách cấp cứu có thể vào hiện trường để cứu một người bị thương, nhưng trong trường hợp chết người, thi thể phải được tất cả mọi người giữ nguyên tại chỗ, bao gồm vị bác sĩ của văn phòng Khám nghiệm Pháp y, cho tới khi nó đã được xử lý bởi người giám định pháp y. Đây là công tác cơ bản của cảnh sát và sự nghiệp của bất kỳ ai đã đưa xác của Gã phù thủy đi giờ chắc chắn đang lâm nguy.
“Có vấn đề sao, Amelia?” Một kỹ thuật viên gọi cô từ lối vào.
“Xem này,” cô nói đầy phẫn nộ, hất đầu về phía hành lang. “Người khám nghiệm pháp y đã đưa thi thể đi trước khi chúng ta xử lý nó. Đã xảy ra chuyện gì vậy?”
Người kỹ thuật viên trẻ tuổi tóc ngắn nhíu mày. Anh liếc nhìn đồng sự rồi nói, “Ừm, vị bác sĩ ở ngoài kia. Ông ấy là người đang trao đổi với chúng tôi khi cô tới. Người cho bồ câu ăn ấy. Ông ấy đang đợi để đưa thi thể đi khi chúng ta xong việc.”
“Có chuyện gì xảy ra vậy?” Rhyme càu nhàu. “Anh nghe có những tiếng nói, Sachs.”
Cô nói với anh, “Một người của văn phòng Khám nghiệm Pháp y ở ngoài, Rhyme. Có vẻ như họ chưa đưa thi thể đi. Có chuyện...”
“Ôi Chúa ơi. Không!”
Cơn ớn lạnh xâm chiếm linh hồn cô. “Rhyme, anh không nghĩ là...?”
Anh nạt ngang, “Em nhìn thấy gì, Sachs? Vết máu trông như thế nào?”
Cô chạy tới chỗ vụ nổ súng đã xảy ra và nghiên cứu vết máu trên tường. “Ôi, không. Trông không giống từ một vụ nổ súng bình thường, Rhyme.”
“Não thì sao, xương nữa?”
“Màu xám, phải. Nhưng cũng không ổn. Có một ít xương. Tuy nhiên, không nhiều, với một phát đạn từ cự ly gần.”
“Làm xét nghiệm máu đi. Sẽ xác định được ngay.”
Cô chạy nhanh tới cửa vào.
“Có chuyện gì…?” Một kỹ thuật viên hỏi, nhưng anh ta im lặng khi thấy cô đào xới điên loạn đống valy.
Sachs chụp lấy bộ thử máu bằng chất xúc tác Kastle-Meyer rồi trở lại hành lang và lấy máu trên tường bằng một cái tăm bông. Cô xử lý nó với phenolphthalein và lát sau đã có câu trả lời. “Em không biết là gì, nhưng chắc chắn không phải là máu.” Cô liếc xuống đống lộn xộn đo đỏ dưới sàn nhà. Tuy nhiên, dưới này nhìn lại thật. Cô thử một mẫu và đó đúng là máu. Rồi cô chú ý thấy con dao cạo đẫm máu ở góc tường.
“Chúa ơi, Rhyme, gã đã làm giả vụ nổ súng. Tự cắt vào người để đổ máu thật và đánh lừa những người lính gác.”
“Gọi an ninh ngay.”
Sachs quát, “Đây là một vụ vượt ngục – lập tức đóng hết tất cả các lối thoát lại!”
Viên thanh tra đi nhanh dọc hành lang và nhìn chằm chằm xuống sàn nhà. Linda Welles đi cạnh anh ta, mắt cô mở to. Sự nhẹ nhõm trong giây lát khi cô thực ra không liên quan gì tới cái chết của một con người đã tan biến ngay khi cô nhận ra những ngụ ý tệ hại hơn nhiều của những gì đã xảy ra. “Không thể nào! Gã đã ở đó. Mắt gã mở trừng trừng. Gã đã chết.” Giọng cô vang lên, hoảng loạn. “Ý tôi là, đầu gã… đầy máu. Tôi có thể thấy… Tôi có thể thấy vết thương đó!”
Cô chỉ thấy ảo giác về một vết thương, Sachs cay đắng nghĩ.
Viên thanh tra gọi, “Họ đã lưu ý những người canh gác ở tất cả các lối ra. Nhưng Chúa ơi, đây không phải là một hành lang kín. Ngay khi chúng ta đóng các cửa ở đây, gã có thể đã đứng lên và lang thang tới bất kỳ đâu. Có lẽ gã đang ăn cắp một chiếc xe ngay lúc này hoặc đang trên tàu điện ngầm tới Queens.”
Amelia Sachs bắt đầu ban bố các mệnh lệnh. Dù cho cấp bậc của viên thanh tra là gì, thì anh ta vẫn quá sốc bởi vụ trốn tù tới mức anh ta không nghi vấn gì về quyền ra lệnh của cô. “Gửi ngay một thông báo vượt ngục,” cô nói. “Tất cả các đơn vị trong khu vực trung tâm. Liên bang và bang. Đừng quên Cơ quan Giao thông Thành phố. Tên kẻ vượt ngục là Erick Weir. Đàn ông da trắng. Ngoài năm mươi. Quý vị đã có ảnh nghi phạm rồi.”
“Gã mặc gì?” Viên thanh tra hỏi Welles và cộng sự của cô, cả hai đều đang cố nhớ lại. Họ đưa ra một mô tả đại khái.
Tuy nhiên, Sachs đang nghĩ điều đó không còn quan trọng nữa. Gã đã thay quần áo khác rồi. Cô nhìn dọc theo bốn lối ra của những hành lang tối tăm mà cô thấy được từ đây và quan sát thấy bóng dáng vài chục người. Lính gác, giám thị, cảnh sát…
Hay có lẽ là Gã phù thủy, cải trang làm một người trong số đó.
Nhưng hiện giờ, cô để việc săn đuổi trong tay những người khác và trở lại với lĩnh vực chuyên môn của riêng mình: hiện trường tội ác, mà cuộc tìm kiếm ban đầu tưởng chỉ là thủ tục ngắn gọn, nhưng giờ đã trở thành một vấn đề sống còn.