V
ụ giết người quả là lạ lùng.
Một vụ giết người kép ở một vùng hẻo lánh của đảo Roosevelt – mảnh đất hẹp với những nhà chung cư, bệnh viện và những đống đổ nát trên sông Đông. Vì trạm xe điện nằm cách không xa trụ sở Liên Hiệp Quốc ở Manhattan, nhiều nhà ngoại giao và nhân viên Liên Hiệp Quốc sống trên đảo đó.
Và hai người trong số đó – những phái viên cấp thấp đến từ Balkan – đã bị sát hại, mỗi người đều bị bắn hai phát vào sau đầu, tay bị trói lại.
Có vài thứ kỳ lạ mà Amelia Sachs đã tìm thấy khi kiểm tra hiện trường. Cô tìm thấy tàn của một loại thuốc lá không có trong dữ liệu thuốc lá của bang hay liên bang, những dấu vết của một loài thực vật vốn xa lạ với vùng đô thị này cùng những dấu vết của một chiếc valy nặng đã được đặt xuống và có vẻ là mở ra cạnh các nạn nhân sau khi họ bị bắn.
Và lạ lùng nhất là việc mỗi người đều mất chiếc giày bên phải của mình. Không tìm thấy chúng ở đâu cả. “Cả hai đều là giày bên phải, Sachs,” Rhyme nói, nhìn vào bảng bằng chứng trước mặt anh, còn cô đi qua đi lại. “Chúng ta nghĩ gì về điều đó?”
Nhưng câu hỏi tạm thời bị cắt ngang vì điện thoại di động của Sachs reo. Đó là thư ký của đại úy Marlow, hỏi liệu cô có thể tới gặp ông ở văn phòng không. Đã vài ngày trôi qua kể từ khi họ khép lại vụ Gã phù thủy, đã vài ngày kể từ khi cô biết Victor Ramos đang chống lại cô. Không có thêm tin tức gì về vụ đình chỉ.
“Khi nào?” Sachs hỏi.
“À, ngay bây giờ,” người phụ nữ đáp.
Sachs gác máy, với một cái liếc và nụ cười nửa miệng về phía Rhyme, cô nói, “Thế đấy. Em phải đi rồi.”
Họ thoáng nhìn vào mắt nhau. Rồi Rhyme gật đầu và cô bước ra cửa.
Nửa tiếng sau, Sachs đã ở trong văn phòng của đại úy Gerald Marlow, ngồi đối mặt với người đàn ông đang đọc một tập tài liệu vàng nhạt trong số đám tài liệu bất tận của mình. “Một giây thôi, sĩ quan.” Ông tiếp tục xem xét thứ giấy tờ đang hút hết tâm trí mình, thỉnh thoảng lại ghi chú.
Cô cựa quậy sốt ruột. Cấu vào viền móng tay, rồi đến móng tay. Hai phút dài đằng đẵng trôi qua. Ôi Chúa ơi, cô nghĩ thầm rồi hỏi, “Được rồi, sếp. Có chuyện gì? Hắn ta đã nhượng bộ sao?”
Marlow đánh dấu một điểm trên tờ giấy ông đang đọc rồi nhìn lên. “Ai cơ?”
“Ramos. Về kỳ thi trung sĩ đấy?”
Và cả gã khốn nhỏ mọn kia – tay cảnh sát dê xồm ở bài tập đánh giá.
“Nhượng bộ hả?” Marlow hỏi. Ông ngạc nhiên vì sự ngây thơ của cô. “Chà, sĩ quan, đó chưa bao giờ là một lựa chọn, anh ta nhượng bộ ấy.”
Vậy là chỉ còn một lý do cho cuộc nói chuyện trực tiếp này. Cô hiểu ra với sự rõ ràng sắc bén như phát đạn súng ngắn đầu tiên bắn ra ở trường bắn ngoài trời. Phát đạn đầu tiên… trước khi cơ bắp, đôi tai và làn da ta trở nên trơ lì vì những phát đạn liên tiếp. Chỉ có một lý do để cô bị gọi lên đây. Marlow sẽ thu hồi vũ khí và phù hiệu của cô. Giờ cô bị đình chỉ.
Chó chết, chó chết, chó chết…
Cô cắn môi.
Nhẹ nhàng khép tập hồ sơ lại, Marlow nhìn cô theo cách của một người cha khiến cô lo lắng; như thể cái án mà cô sắp bị tuyên trầm trọng tới mức cô cần sự dỗ dành ân cần của người cha. “Những người như Ramos, sĩ quan, ta không thể đánh bại họ. Không phải ở trên sân của họ. Ta đã thắng trận đấu, còng tay anh ta ở hiện trường. Nhưng anh ta thắng cuộc chiến. Những người như thế luôn thắng cuộc chiến.”
“Ý ông là những người ngu ngốc? Những người nhỏ mọn? Những người tham lam?”
Một lần nữa, vẻ thản nhiên đã ăn vào máu của một sĩ quan cảnh sát chuyên nghiệp đã khiến ông lờ đi câu hỏi đó.
“Hãy nhìn chiếc bàn này đi,” ông vừa nói vừa làm theo. Trên bàn la liệt hồ sơ giấy tờ. Hàng chồng hàng đống những tập hồ sơ và biên bản. “Và tôi vẫn nhớ tôi đã kêu ca về công việc giấy tờ khi còn là một cảnh sát tuần tra.” Ông lục lọi một trong những đống giấy đó, có vẻ đang tìm thứ gì đấy. Rồi bỏ cuộc. Cố tìm ở một chồng khác. Ông rút ra vài tài liệu cũng không phải là những gì ông muốn rồi dành chút thời gian quý báu của mình sắp xếp lại chúng rồi tiếp tục cuộc tìm kiếm lần nữa.
Ôi trời, mình chưa bao giờ nghĩ sẽ phải trải qua chuyện này.
Lúc đó, trong cô, nỗi buồn và sự thất vọng kết lại thành một hòn đá. Rồi cô nghĩ: Được rồi, họ muốn chơi kiểu này đúng không? Có lẽ mình sẽ bị hạ nhưng họ sẽ bị thương. Ramos và tất cả những kẻ khốn nạn như Ramos sẽ được nếm mùi máu.
Đã tới lúc ăn thua…
“Phải rồi,” viên đại úy nói, cuối cùng cũng tìm thấy thứ ông ta muốn, một phong bì lớn với một mảnh giấy được ghim trên đó. Ông đọc nó thật nhanh. Liếc nhìn chiếc đồng hồ có hình bánh lái con tàu trên bàn của mình. “Chết tiệt, nhìn đồng hồ đi. Bắt tay vào việc thôi, sĩ quan. Tôi cần phù hiệu của cô.”
Chán nản, cô ngoan ngoãn thò tay vào túi. “Bao lâu?”
“Một năm, sĩ quan,” Marlow nói. “Xin lỗi.”
Bị đình chỉ một năm, cô nghĩ trong tuyệt vọng. Cô đã tưởng tệ nhất chỉ là ba tháng.
“Đó là điều tốt nhất tôi có thể làm. Một năm. Phù hiệu, tôi đang yêu cầu đây.” Marlow lắc đầu. “Xin lỗi vì gấp gáp thế này. Tôi có một cuộc họp khác ngay bây giờ. Những cuộc họp – chúng làm tôi phát điên. Cuộc này là về bảo hiểm. Công chúng nghĩ tất cả những gì chúng ta làm là bắt nghi phạm. Hoặc nhiều khả năng hơn, không bắt được nghi phạm. Ừm, hừm – một nửa công việc này toàn là những thứ hợp tác vớ vẩn. Cô có biết cha tôi gọi việc hợp tác kinh doanh là gì không? ‘Hợp tác quay-cuồng.’ Ông ấy làm việc cho American Standard ba mươi chín năm. Là đại diện kinh doanh. B-Ậ-N-quay-cuồng. Công việc của chúng ta cũng giống như vậy.” Ông chìa tay ra.
Nỗi tuyệt vọng tràn ngập quanh cô, nhấn chìm cô. Cô đưa cho ông ta chiếc bọc da đã sờn cũ có phù hiệu bạc và thẻ cảnh sát.
Phù hiệu số Năm Tám Tám Năm…
Cô có thể làm gì đây? Đi làm bảo vệ sao?
Đằng sau ông ta, điện thoại của viên đại úy reo và ông ta quay lại để trả lời.
“Marlow đây… Vâng thưa ngài… Chúng tôi sẽ sắp xếp an ninh cho việc đó.” Và trong lúc ông ta tiếp tục nói chuyện với người gọi đến, điều gì đó về phiên tòa xử Andrew Constable, có vẻ là vậy, viên đại úy đặt chiếc phong bì nội bộ lên đùi. Ông ta kẹp điện thoại ở cổ, quay sang đối mặt với Sachs và tiếp tục cuộc nói chuyện của mình trong khi tháo sợi chỉ đỏ quấn quanh móc cài của chiếc phong bì được đóng dấu.
Tiếp tục rì rầm về phiên tòa, về những cáo buộc mới chống lại Constable và những kẻ khác trong Hội Ái quốc, về các cuộc đột kích vào Canton Falls. Sachs để ý thấy giọng nói uyển chuyển, tôn trọng một cách hoàn hảo của ông ta, cách ông ta chơi trò kính trên nhường dưới xuất sắc. Có lẽ ông ta đang nói chuyện với thị trưởng hay thống đốc.
Có thể chính là nghị sĩ Ramos.
Chơi trò chơi đó, trò chơi chính trị… Đó có thực sự là công việc của cảnh sát không? Nó quá xa lạ với bản tính của cô tới mức cô tự nhủ liệu cô có liên quan gì tới công việc cảnh sát này không.
Chẳng bận-quay-cuồng.
Suy nghĩ đó làm cô đau khổ. Ôi, Rhyme chúng ta sẽ phải làm gì đây?
Chúng ta sẽ vượt qua, anh ấy sẽ nói thế. Nhưng cuộc đời không chỉ là vượt qua. Vượt qua là thua rồi.
Marlow, vẫn đang kẹp điện thoại giữa tai và vai, lầm bầm không dứt thứ ngôn ngữ của chính quyền. Ông ta cuối cùng cũng mở được phong bì ra và bỏ phù hiệu của cô vào trong đó.
Rồi ông ta với tay và rút ra thứ gì đó được bọc trong một tờ giấy ăn.
“… không có thời gian để làm lễ. Sẽ làm thứ gì đó sau.” Thông điệp này chỉ thì thầm và Sachs thấy có vẻ ông ta đang nói với cô.
Lễ sao?
Ông ta liếc nhìn cô. Giờ lại một lời thì thầm nữa, tay ông ta che tai nghe. “Đây là chuyện bảo hiểm. Ai mà hiểu được chứ? Tôi phải học tất cả những thứ về bảng thống kê tỉ lệ tử vong, tiền trợ cấp, bồi thường bảo hiểm kép…”
Marlow mở tấm khăn giấy ra, để lộ một huy hiệu vàng của NYPD.
Trở lại với giọng bình thường khi ông ta nói trong điện thoại: “Vâng thưa ngài, chúng tôi đang xử lý tình huống đó… Chúng tôi cũng có người ở Bedford Junction nữa. Và khu Harrisonburg ở đầu đường. Chúng tôi hoàn toàn chủ động.”
Rồi lại thì thầm, với cô. “Giữ số cũ của cô nhé, sĩ quan.” Ông giơ phù hiệu lên, màu vàng óng ánh. Những con số giống với số tuần tra của cô: 5885. Ông nhét chiếc phù hiệu vào trong bọc phù hiệu bằng da của cô. Rồi ông tìm thấy thứ gì đó khác trong chiếc phong bì màu vàng: thẻ cảnh sát tạm thời. Ông gắn nó lên cái bọc phù hiệu rồi trả lại.
Thẻ định danh cô là Amelia Sachs, thanh tra thám tử bậc ba.
“Vâng thưa ngài, chúng tôi đã nghe chuyện đó rồi và đánh giá mối đe dọa của chúng tôi là đó là một tình thế xử lý được… Tốt, thưa ngài.” Marlow gác máy rồi lắc đầu. “Giao cho tôi phiên tòa của một kẻ cuồng tín vào bất kỳ ngày họp bảo hiểm nào còn hơn. Được rồi, sĩ quan, cô cần phải chụp ảnh để làm thẻ cảnh sát chính thức.” Ông cân nhắc điều gì đó rồi nói thêm một cách cẩn trọng, “Đây không phải là áp đặt gì nên đừng hiểu lầm, nhưng họ thích phụ nữ búi tóc hơn, chứ không để xõa, cô biết đấy, tóc xoã. Tôi cho là nhìn rắn rỏi hơn. Cô có vấn đề gì với chuyện đó không?”
“Nhưng, tôi không bị đình chỉ sao?”
“Đình chỉ ư? Không, cô đã trở thành thanh tra cảnh sát. Họ không gọi cho cô sao? O’Connor lẽ ra phải gọi cho cô. Hay trợ lý của anh ta hay một ai đó.”
Dan O’Connor, người đứng đầu Cục Thanh tra.
“Không ai gọi cho tôi cả. Trừ thư ký của ông.”
“À. Lẽ ra họ phải gọi.”
“Chuyện gì đã xảy ra vậy?”
“Tôi nói với cô là tôi sẽ làm những gì có thể. Tôi đã làm. Ý tôi là, hãy đối mặt với chuyện này – không lý nào tôi để cô bị đình chỉ. Không thể để mất cô được.” Ông lưỡng lự, nhìn vào đống hồ sơ. “Đó là chưa kể, sẽ là một cơn ác mộng nếu chống lại cô trong bộ vest của Hội Công đoàn Cảnh sát hoặc trong phiên xét xử. Sẽ xấu xí lắm.”
Cô nghĩ: Ồ phải, thưa sếp, hẳn là thế. Thực sự xấu xí. “Nhưng một năm? Ông đã nói gì đó về một năm.”
“Đấy là bài thi trung sĩ mà tôi đang nói tới. Cô không thể thi lại cho tới tháng Tư năm sau. Đó là bên hành chính công và tôi không thể làm gì được. Nhưng tái bổ nhiệm cô vào Cục Thanh tra, đó là việc trong quyền của tôi. Ramos không thể ngăn được điều đó. Cô sẽ là cấp dưới của Lon Sellitto.”
Cô nhìn chằm chằm vào tấm phù hiệu vàng. “Tôi không biết phải nói gì.”
“Cô có thể nói, ‘Cảm ơn rất nhiều, đại úy Marlow. Tôi đã rất vui được làm việc với ông ở Phòng Cảnh sát tuần tra suốt ngần ấy năm. Và tôi rất tiếc vì không thể tiếp tục công việc đó’.”
“Tôi...”
“Tôi đùa thôi, sĩ quan. Bất kể cô nghe được gì thì tôi quả thực có biết đùa. À, cô là bậc ba nhé, hẳn là cô đã thấy.”
“Vâng, thưa sếp.” Cô cố gắng giữ mình không bị cười đến hụt hơi. “Tôi...”
“Nếu cô muốn lên được bậc một và trung sĩ, tôi sẽ suy nghĩ kĩ về việc cô bắt giữ, hay nhốt ai ở hiện trường vụ án. Và đồng thời, cách cô nói chuyện với người ta. Chỉ là vài lời khuyên thôi.”
“Đã hiểu, thưa sếp.”
“Giờ, xin cô thứ lỗi, sĩ quan… Ý tôi là, thanh tra thám tử. Tôi còn khoảng năm phút để học mọi thứ cần phải biết về bảo hiểm.”
***
Bên ngoài, trên đường Centre, Amelia Sachs đi vòng quanh chiếc Camaro của cô, kiểm tra hư hại ở bên hông và đầu xe từ vụ va chạm với chiếc Mazda của Loesser ở Harlem.
Chiếc xe tội nghiệp cần một đợt đại tu để trở lại như cũ.
Xe là điểm mạnh của cô, tất nhiên, và cô biết địa điểm, cũng như hình dạng đầu xe, chiều dài và kiểu xoắn của từng chiếc đinh và ốc trong xe. Và có lẽ cô có tất cả những máy bắn đinh, búa đầu tròn, máy mài và các thiết bị khác mà cô cần ở ga-ra của cô ở Brooklyn để tự mình sửa hầu hết những hư hại.
Nhưng Sachs không thích công việc sửa chữa. Cô thấy công việc đó nhàm chán, tẻ nhạt như việc làm người mẫu thời trang hay hẹn hò với những gã cảnh sát đẹp trai, kiêu căng, lỗ mãng. Không phải chuyện gì cao siêu, nhưng có lẽ trong sâu thẳm cô không tin tưởng những gì chỉ có bề ngoài, hời hợt. Với Amelia Sachs, bản chất của những chiếc xe nằm trong trái tim và linh hồn nóng bỏng của chúng: tiếng đập phẫn nộ như trống dồn của cần pít-tông, tiếng rú của động cơ, tiếng sang số hoàn hảo biến một tấn kim loại, da và nhựa thành tốc độ thuần khiết.
Cô quyết định sẽ đưa chiếc xe tới một cửa hiệu ở Astoria, Queens, một hiệu sửa xe cô từng tới trước kia, nơi các thợ máy lành nghề, tương đối trung thực và tôn trọng những cỗ máy mạnh mẽ như chiếc xe này.
Giờ ngồi vững ở ghế trước, cô khởi động máy. Tiếng rầm rầm của nó thu hút sự chú ý của nửa tá cảnh sát, luật sư và doanh nhân gần đó. Rời chỗ đậu xe của cảnh sát, cô quyết định thêm một chuyện nữa. Vài năm trước, sau vài lần đánh bóng, cô đã quyết định sơn lại chiếc xe vốn có màu đen lúc xuất xưởng. Cô đã chọn màu vàng chói. Đó là lựa chọn bốc đồng, nhưng tại sao lại không? Sao lại phải kìm hãm những ý thích bất chợt với các quyết định về màu móng, màu tóc và màu xe của bạn?
Nhưng giờ cô nghĩ rằng đằng nào xưởng sửa xe cũng sẽ phải thay một phần tư tấm kim loại của chiếc Chevy và kiểu gì cũng phải sơn lại nó, cô sẽ chọn một màu khác. Màu đỏ như xe cứu hỏa là lựa chọn nhất thời của cô. Màu đó có hai ý nghĩa với cô. Đó không chỉ là màu mà cha cô luôn nói là phải sơn cho những chiếc xe “cơ bắp”, nó còn hợp với màu chiếc xe vận động của Rhyme, chiếc xe lăn Storm Arrow. Đó sẽ là thứ tình cảm mà nhà tội phạm học sẽ tỏ ra hoàn toàn hững hờ, nhưng trong thâm tâm anh sẽ hết sức hài lòng.
Phải, cô nghĩ, sẽ là màu đỏ.
Cô nghĩ tới việc bỏ chiếc Chevy ở lại xưởng ngay lúc này, nhưng rồi nghĩ lại, cô quyết định sẽ đợi. Cô có thể lái một chiếc xe xập xệ vài ngày nữa; cô từng làm thế rất nhiều lần khi còn niên thiếu. Hiện giờ cô muốn về nhà, về với Lincoln Rhyme, chia sẻ với anh tin tức về trò giả kim thuật đã biến chiếc phù hiệu của cô từ bạc thành vàng, và trở lại với công việc lần giở những bí ẩn gay cấn đang chờ đợi họ: hai nhà ngoại giao bị sát hại, thực vật ngoại lai, những dấu vết đáng ngờ ở vùng đất bùn lầy và hai chiếc giày mất tích.
Cả hai đều là giày chân phải.