• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Người biến mất
  3. Trang 6

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 5
  • 6
  • 7
  • More pages
  • 60
  • Sau

Chương một

X

in chào mừng quý khán giả thân mến. Hoan nghênh!

Xin chào mừng tới buổi diễn của chúng tôi!

Chúng tôi sẽ có hàng loạt màn trình diễn hồi hộp dành cho quý vị trong hai ngày tới khi những ảo thuật gia, những thầy phù thủy với đôi tay khéo léo sẽ trình diễn phép lạ của họ để làm vui lòng các bạn và khiến các bạn say đắm.

Màn trình diễn đầu tiên của chúng tôi là sự tái hiện tiết mục của một nghệ sĩ trình diễn mà ai cũng đã biết: Harry Houdini1, nghệ sĩ thoát hiểm xuất sắc nhất ở Mỹ, nếu không muốn nói là toàn thế giới, một người đã trình diễn trước những nguyên thủ quốc gia và các tổng thống Hoa Kỳ. Một số màn trốn thoát của ông khó tới mức suốt bao nhiêu năm trời sau cái chết không đúng lúc chút nào của ông vẫn không ai dám thử.

1 Harry Houdini (1874 - 1926), người Mỹ gốc Hungary, được coi là một trong những ảo thuật gia vĩ đại nhất mọi thời đại (các chú thích trong sách là của người dịch, nếu không có ghi chú gì thêm).

Hôm nay chúng tôi sẽ tái hiện cuộc trốn thoát mà ông đã mạo hiểm với nguy cơ chết ngạt trong tiết mục có tên gọi là Kẻ lười bị treo cổ.

Trong màn trình diễn này, nghệ sĩ của chúng tôi nằm sấp, tay bị còng sau lưng bằng còng tay Darby kinh điển. Mắt cá chân bị cột lại với nhau và một sợi dây thừng dài quấn quanh cổ như một sợi thòng lọng, rồi cột vào mắt cá. Do chiều hướng chân duỗi thẳng ra kéo thòng lọng thít lại và khiến quá trình chết ngạt kinh khủng bắt đầu.

Tại sao nó được gọi là Kẻ “lười” bị treo cổ? Vì kẻ bị kết án tự hành hình mình.

Trong nhiều tiết mục nguy hiểm hơn của Houdini, các trợ lý luôn có mặt với sẵn dao và chìa khóa để giải thoát cho ông trong trường hợp ông không thoát ra được. Thường thì một bác sĩ cũng sẵn sàng.

Hôm nay, sẽ không có những dự phòng như thế. Nếu không thoát ra được trong vòng bốn phút, nghệ sĩ trình diễn sẽ chết.

Chúng ta sẽ bắt đầu trong phút chốc… nhưng trước hết là một lời nhắn nhủ: Đừng bao giờ quên rằng khi đã bước vào màn trình diễn của chúng tôi thì bạn đã từ bỏ thực tại.

Những gì bạn tin tưởng tuyệt đối rằng mình đã thấy có thể không hề tồn tại. Những gì bạn coi là một ảo giác có thể lại là sự thật phũ phàng của Chúa.

Người bầu bạn với bạn trong màn trình diễn của chúng tôi hóa ra lại là một người hoàn toàn xa lạ. Một người đàn ông hay phụ nữ trong đám khán giả mà bạn không nhận ra có thể lại biết bạn quá rõ.

Thứ có vẻ an toàn có thể lại đầy chết chóc. Và những nguy cơ kinh khủng mà bạn luôn đề phòng có thể chẳng là gì ngoài sự phân tâm để lôi kéo bạn tới mối nguy lớn hơn.

Trong màn trình diễn của chúng tôi các bạn có thể tin điều gì? Có thể trông cậy ai?

Thưa quý khán giả kính mến! Câu trả lời là bạn đừng nên tin bất kỳ điều gì cả. Và đừng trông cậy vào ai. Không ai hết.

Giờ thì màn đã kéo lên, ánh sáng mờ dần, nhạc đang tắt dần, chỉ còn lại những tiếng tim đập thình thịch chờ đợi mà thôi.

Và màn trình diễn của chúng tôi xin phép được bắt đầu…

***

Căn nhà có vẻ đã chứng kiến không ít những bóng ma.

Kiểu gô-tích, đầy bồ hóng, đen tối. Nằm kẹp giữa hai tòa nhà cao tầng ở khu Upper West Side, trên nóc là sân thượng có rào và rất nhiều cửa sổ hai cánh. Tòa nhà từ thời Victoria2 và có lúc đã là một trường nội trú, rồi một viện điều dưỡng, nơi những kẻ tâm thần phạm tội sống nốt cuộc đời tàn tạ của mình.

2 Thời Victoria: Giai đoạn lịch sử gọi theo tên Nữ hoàng Anh Victoria, người cai trị từ 1837 tới 1901, cũng là thời kỳ nước Anh là cường quốc số một thế giới.

Trường Âm nhạc và Nghệ thuật biểu diễn Manhattan có thể đã là nơi trú ngụ của vài tá hồn ma bóng quế.

Nhưng không bóng ma nào mới như bóng ma đang lởn vởn ở đó ngay lúc này, trên cơ thể còn ấm của một phụ nữ trẻ nằm sấp, trong hành lang mờ ảo bên ngoài một khán phòng nhỏ. Mắt cô trợn trừng nhưng vẫn chưa mờ đục, máu trên gò má vẫn chưa biến thành màu nâu.

Mặt cô tím tái như một trái mận bởi sợi thừng căng siết chặt cột cổ cô với mắt cá chân.

Xung quanh cô là một hộp đựng sáo, giấy chép nhạc và một ly cà phê Starbucks lớn đã đổ hết ra ngoài, thứ chất lỏng màu đen ấy làm ố quần bò và chiếc áo phông Izod màu xanh lá cây của cô, để lại một đường như hình dấu phẩy trên sàn đá cẩm thạch.

Cũng có mặt ở đó là gã đàn ông đã giết cô, gã đang cúi người và kiểm tra cô cẩn thận. Gã rất từ tốn và không thấy có gì phải vội vã cả. Hôm nay là thứ Bảy, vẫn còn sớm. Gã biết không có lớp học nào ở trường này vào các ngày cuối tuần. Đám học trò có sử dụng phòng tập nhạc, nhưng những phòng đó ở mé khác của tòa nhà. Gã nghiêng người gần lại người phụ nữ, liếc nhìn, tự hỏi liệu mình có nhìn thấy một linh hồn, một bóng ma trỗi dậy từ cơ thể cô. Chẳng có gì cả.

Gã đứng thẳng dậy, cân nhắc xem còn có thể làm gì với hình dáng bất động trước mặt mình.

“Anh chắc chắn đó không phải tiếng thét chứ?”

“Phải… Không,” tay bảo vệ nói. “Có lẽ không phải là tiếng thét thật, cô biết đấy. La hét. Giận dữ. Chỉ một hai giây thôi. Rồi ngừng hẳn.”

Diane Franciscovich, một cảnh sát tuần tra đang làm việc ở khu vực Hai Mươi, hỏi tiếp, “Có ai nghe thấy gì khác không?”

Tay bảo vệ cao lớn, thở nặng nhọc, liếc nhìn nữ cảnh sát dong dỏng, tóc nâu, lắc đầu và mở đôi tay to lớn của anh ta. Anh ta chùi hai tay lên chiếc quần tây xanh.

“Có gọi hỗ trợ không?” Nancy Ausonio hỏi, một cảnh sát tuần tra trẻ, thấp hơn đồng nghiệp của cô, tóc vàng.

Franciscovich không nghĩ thế, dù không thật chắc chắn. Cảnh sát tuần tra đi tuần ở khu vực này của Upper West Side chủ yếu chỉ phải xử lý các vụ tai nạn giao thông, ăn cắp vặt, và trộm xe (cũng như nắm tay an ủi những người bị cướp). Đây là vụ đầu tiên với họ – hai nữ cảnh sát, vào phiên tuần tra sáng thứ Bảy, khi đang ở trên vỉa hè thì được tay bảo vệ ra hiệu đi gấp vào trong để kiểm tra tiếng thét. Một tiếng thét giận dữ.

“Hãy từ từ đã,” Franciscovich trầm tĩnh nói. “Để xem chuyện gì đang diễn ra.”

Tay bảo vệ nói, “Nghe có vẻ tới từ đâu đó trong này. Không biết nữa.”

“Một nơi rờn rợn,” Ausonio bình luận, cảm thấy khó chịu lạ lùng; cô là kiểu cảnh sát tuần tra có thể nhảy ngay vào giữa một vụ ẩu đả, ngay cả khi những kẻ đó có to gấp đôi cô.

“Âm thanh đó, cô biết đấy. Khó mà diễn tả được. Cô hiểu ý tôi không? Nơi xuất phát ấy.”

Franciscovich đang tập trung vào những gì đồng đội của cô nói. Quả là một nơi rờn rợn, cô nghĩ thầm.

Có vẻ như hàng dặm hành lang u ám kéo dài không thấy có gì khác thường, tay bảo vệ dừng lại.

Franciscovich hất đầu về phía cánh cửa ở trước họ. “Trong đây có gì?”

“Lý nào bọn học trò lại ở đây. Chỉ là...”

Franciscovich đẩy cánh cửa ra.

Bên trong là một hành lang nhỏ dẫn tới cánh cửa có biển Hội trường A. Và ở gần cánh cửa đó là thi thể một phụ nữ trẻ bị trói gô lại, dây thừng quanh cổ, tay bị còng. Mắt mở trừng, đã chết. Một người đàn ông tóc nâu, râu ria, khoảng ngoài năm mươi đang khom lưng phía trên cô ta. Gã nhìn lên, ngạc nhiên khi thấy họ bước vào.

“Không!” Ausonio hét lên.

“Ôi, Chúa ơi,” tay bảo vệ kêu lên.

Hai cảnh sát rút vũ khí ra và Franciscovich nhìn xuống người đàn ông mà cô nghĩ là một tay vững vàng đáng ngạc nhiên. “Không được động đậy! Đứng lên từ từ. Tránh xa cô ấy và giơ tay lên.” Giọng cô kém cứng rắn hơn nhiều so với những ngón tay đang nắm chặt khẩu súng ngắn Glock.

Gã làm theo mệnh lệnh.

“Nằm úp xuống sàn. Để tay ở chỗ thấy được!”

Ausonio bắt đầu tiến về phía cô gái.

Đó là lúc Franciscovich để ý thấy bàn tay phải của gã, giơ cao khỏi đầu, đang nắm chặt.

“Xòe tay…”

Póc…

Cô không còn thấy gì khi một luồng sáng chói mắt tràn ngập căn phòng. Có vẻ như nó được chiếu thẳng từ tay của nghi phạm và lơ lửng một lát trước khi tắt ngấm. Ausonio tê liệt, Franciscovich cúi người, loạng choạng lùi lại phía sau rồi liếc nhìn, huơ khẩu súng tới lui. Hoảng loạn, bởi cô biết kẻ giết người đã nhắm mắt và khi luồng sáng tắt, gã sẽ chĩa khẩu súng của mình về phía họ hoặc lao vào họ với một con dao trong tay.

“Đâu, đâu, đâu?” Cô hét lên.

Rồi cô nhìn thấy – mờ ảo bởi thị lực đã sút kém và làn khói đang tan – kẻ giết người chạy vào trong hội trường. Gã đóng sầm cửa lại. Có tiếng kéo lệt xệt bên trong khi gã di chuyển bàn ghế để chặn cửa.

Ausonio quỳ trước cô gái. Cô dùng một con dao quân đội của Thụy Sĩ cắt sợi thừng ở cổ, lật cô gái lại, và dùng van miệng3 bắt đầu hô hấp nhân tạo.

3 Van miệng: hay ống ngậm miệng (disposable mouthpiece) là dụng cụ dùng để giữ mở khoang miệng bệnh nhân.

“Còn lối thoát nào khác không?” Franciscovich hét lên với tay bảo vệ.

“Chỉ có một lối… phía sau, ở góc quanh. Về phía bên phải.” “Cửa sổ thì sao?”

“Không có.”

“Này,” cô vừa gọi Ausonio vừa bắt đầu chạy thật nhanh. “Canh chừng cửa chính!”

“Rõ,” viên cảnh sát tóc vàng đáp và thổi một hơi nữa vào đôi môi đã tím tái của nạn nhân.

Lại có thêm tiếng kéo lê đồ đạc bên trong khi kẻ giết người tăng cường cho rào chắn của gã; Franciscovich chạy thật nhanh ở góc quanh về phía cửa mà tay bảo vệ đã nói, gọi hỗ trợ từ bộ đàm Motorola. Khi nhìn về phía trước, cô thấy có người đang đứng ở cuối hành lang. Franciscovich dừng ngay lại, nhắm vào ngực người đàn ông và chiếu luồng sáng chói từ chiếc đèn pin halogen của cô vào gã.

“Chúa ơi,” người gác cổng kêu lên, buông cây chổi đang cầm.

Franciscovich cảm ơn Chúa vì cô đã không đặt ngón tay lên cò súng. “Ông có thấy ai ra khỏi cánh cửa đó không?”

“Có chuyện gì vậy?”

“Ông có thấy ai không?” Franciscovich hét lên.

“Không, thưa sĩ quan.”

“Ông ở đây bao lâu rồi?”

“Tôi không biết. Chắc là mười phút.”

Lại có thêm tiếng kéo đồ đạc bên trong khi tên sát nhân tiếp tục chặn cửa. Franciscovich ra lệnh cho ông già đi vào hành lang chính với tay bảo vệ rồi lần lại chỗ cửa hông. Súng giơ cao, mắt nhìn thẳng, cô nhẹ nhàng thử vặn tay nắm. Nó không khóa. Cô bước sang một bên để mình không nằm trong đường đạn nếu gã khốn đó bắn qua cánh cửa gỗ. Một mẹo mà cô nhớ nhờ phim NYPD Blue, dù một giáo viên có lẽ cũng đã nhắc tới chuyện đó lúc cô học ở Học viện Cảnh sát.

Lại có tiếng rầm rầm bên trong.

“Nancy, có đó không?” Franciscovich thì thầm vào bộ đàm của cô.

Giọng Ausonio, run rẩy, nói, “Cô ấy chết rồi, Diane. Tôi đã cố. Nhưng cô ấy chết rồi.”

“Gã đó không thoát ra lối này. Gã vẫn còn trong phòng. Tôi có thể nghe tiếng gã.” Im lặng.

“Tôi đã cố, Diane. Tôi đã cố.”

“Quên chuyện đó đi. Coi nào. Cô để tâm vào vụ này chứ? Có để tâm không?”

“Ừ, tôi không sao. Thật mà.” Giọng của viên cảnh sát đanh lại. “Hãy bắt gã nào.”

“Không,” Franciscovich nói, “chúng ta sẽ giữ gã ở trong đó cho tới khi Đơn vị Phản ứng Khẩn cấp4 tới. Tất cả những gì chúng ta phải làm là thế. Hãy ở yên đó. Tránh xa cửa trước ra. Và ở yên đó.”

4 ESU (Emergency Service Unit): Đơn vị Phản ứng Khẩn cấp, gọi tắt là Đội Khẩn cấp.

Đó cũng là khi cô nghe tiếng người đàn ông hét lên bên trong, “Tao có con tin. Tao giữ một con bé trong này. Nếu bọn mày tìm cách vào đây, tao sẽ giết nó!”

Ôi, Chúa ơi…

“Này anh!” Franciscovich hét lên. “Không ai làm gì hết đâu. Đừng lo. Chỉ là đừng làm hại ai nữa.” Quy trình không biết có phải như thế này không, cô tự nhủ. Cả chương trình ti-vi cô xem lẫn việc huấn luyện ở Học viện không giúp ích gì lúc này. Cô nghe Ausonio gọi Trung tâm và báo cáo lại tình hình hiện tại là có rào chắn và bắt giữ con tin.

Franciscovich gọi gã sát nhân. “Từ từ thôi! Anh có thể...”

Một tiếng súng lớn vang lên bên trong. Franciscovich nhảy lên như một con cá. “Có chuyện gì vậy? Là cô hả?” Cô hét lên trong bộ đàm.

“Không,” đồng đội của cô đáp, “tôi nghĩ đó là cô.” “Không. Là gã. Cô không sao chứ?”

“Không sao. Gã nói mình có con tin. Cô có nghĩ là gã đã bắn cô ấy không?”

“Tôi không biết. Làm sao tôi biết được?” Franciscovich nghĩ: Đội hỗ trợ ở chỗ quái nào rồi chứ?

“Diane,” Ausonio thì thầm một lát sau đó. “Chúng ta phải vào thôi. Có thể cô ấy đã bị bắn. Có thể cô ấy bị thương.” Rồi hét lên: “Này anh!” Không có tiếng trả lời. “Này!”

Vẫn không có gì.

“Có thể gã đã tự sát,” Franciscovich phỏng đoán.

Hay có thể gã nổ súng để khiến chúng ta nghĩ rằng gã tự sát và đợi sẵn bên trong, chờ một mục tiêu rõ ràng ở lối vào.

Rồi hình ảnh kinh khủng đó trở lại với cô: cánh cửa tồi tàn dẫn vào hành lang hội trường mở ra, chiếu ánh sáng mờ ảo lên nạn nhân, mặt cô ta đã chuyển sang màu xanh và lạnh lẽo như một buổi sáng mùa đông. Ngăn những chuyện như thế này xảy ra là lý do cô muốn trở thành cảnh sát.

“Chúng ta phải vào trong, Diane,” Ausonio thì thầm.

“Tôi cũng đang nghĩ thế. Được rồi. Chúng ta sẽ vào.” Cô nói có phần hơi cuồng nhiệt khi nghĩ tới gia đình mình và việc phải đặt tay trái lên tay phải khi bắn một khẩu súng ngắn tự động trong tình huống phải nổ súng chiến đấu. “Nói với bảo vệ là chúng ta cần ánh sáng trong hội trường.”

Một lát sau Ausonio nói, “Công tắc ở ngoài này. Anh ta sẽ bật lên khi tôi nói.” Franciscovich nghe thấy một tiếng thở sâu qua bộ đàm. Rồi Ausonio nói, “Sẵn sàng. Đếm đến ba. Cô đếm đi.”

“Được rồi. Một… Đợi đã. Tôi sẽ vào từ hướng hai giờ của cô. Đừng bắn tôi.”

“Được rồi. Hướng hai giờ. Tôi sẽ…”

“Cô sẽ ở bên trái tôi.”

“Tiến lên.”

“Một.” Franciscovich nắm chặt nắm đấm cửa. “Hai.”

Lần này ngón tay của cô trượt vào bao vũ khí, nhẹ nhàng sờ vào cò thứ hai – chốt an toàn của khẩu súng ngắn Glock.

“Ba!” Franciscovich hét lớn để chắc chắn là đồng đội của cô nghe thấy mà không cần bộ đàm. Cô đẩy cửa bước vào căn phòng hình chữ nhật lớn ngay khi ánh sáng chói mắt bật lên.

“Đứng yên!” Cô hét lên – với một căn phòng trống.

Khom người, da lấm tấm mồ hôi vì căng thẳng, cô vung vũ khí của mình từ bên này sang bên kia rồi quét mắt nhìn qua từng góc của không gian này.

Không có dấu vết gì của kẻ giết người, không có dấu vết gì của con tin.

Cô liếc sang bên trái, lối vào phía cửa kia, nơi Nancy Ausonio đang đứng, cũng đang hoảng hốt nhìn khắp căn phòng. “Đâu?” Người phụ nữ thì thầm.

Franciscovich lắc đầu. Cô để ý thấy có khoảng năm mươi chiếc ghế gỗ gập xếp thành hàng thẳng thớm. Bốn hay năm chiếc ghế nằm ngửa hoặc nằm nghiêng. Nhưng chúng không có vẻ gì là một rào chắn; chúng được đá ngả ra một cách ngẫu nhiên. Bên phải cô là một sân khấu thấp. Trên đó có một chiếc âm-ly và hai loa, một đàn dương cầm lớn đã mòn vẹt.

Hai cảnh sát trẻ có thể nhìn thấy gần như mọi thứ trong phòng. Ngoại trừ kẻ thủ ác.

“Chuyện gì đã xảy ra, Nancy? Nói cho tôi biết chuyện gì đã xảy ra.”

Ausonio không trả lời; giống như đồng đội của cô, cô đang nhìn quanh hoảng hốt, kiểm tra từng cái bóng, từng món đồ đạc, dù rõ ràng là gã đàn ông không có ở đó.

Rờn rợn…

Căn phòng về cơ bản là một khối lập phương khép kín. Không có cửa sổ. Máy điều hòa và lỗ thông khí chỉ rộng hơn mười lăm xen-ti-mét. Trần nhà bằng gỗ, không có gạch cách âm. Không có cửa sập nào mà cô nhìn thấy được. Không có cửa chính nào ngoài cánh cửa mà Ausonio đã dùng và cửa thoát hiểm mà Franciscovich vừa đi qua.

Ở đâu chứ? Franciscovich nhăn nhó.

Đồng đội của cô trả lời điều gì đấy. Viên cảnh sát không thể hiểu được, nhưng có thể đọc được thông điệp trên mặt cô: Tôi chẳng hiểu gì cả.

“Này,” một giọng nói lớn vang lên ở lối vào cửa. Họ quay về phía đó, chĩa súng nhắm vào sảnh trống không. “Xe cứu thương và một số sĩ quan khác đã tới đây.” Đấy là tay bảo vệ, trốn ở ngoài tầm nhìn.

Tim đập rộn ràng vì cuộc vây ráp, Franciscovich gọi anh ta vào trong.

Anh ta hỏi, “Thế nào, ừm… ý của tôi là quý vị có bắt được gã không?”

“Gã không có ở đây,” Ausonio nói giọng run rẩy.

“Sao cơ?” Người đàn ông thận trọng nhìn vào trong hội trường.

Franciscovich nghe tiếng các sĩ quan và kỹ thuật viên EMS5 đang tới. Tiếng kêu chói tai của trang thiết bị. Dẫu vậy, hai người phụ nữ vẫn chưa thể tới gặp các đồng đội của mình. Họ đứng đờ đẫn giữa hội trường, cảm thấy bất an và khó hiểu, nỗ lực vô ích để cố hiểu xem kẻ sát nhân đã thoát khỏi một căn phòng không có lối thoát như thế nào.

5 EMS: Dịch vụ Y tế Khẩn cấp.


  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 5
  • 6
  • 7
  • More pages
  • 60
  • Sau