• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Người biến mất
  3. Trang 7

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 6
  • 7
  • 8
  • More pages
  • 60
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 6
  • 7
  • 8
  • More pages
  • 60
  • Sau

Chương hai

"A

nh ấy đang nghe nhạc.”

“Tôi không nghe nhạc. Nhạc chỉ tình cờ bật. Vậy thôi.”

“Nhạc hả?”

Lon Sellitto lầm bầm khi anh bước vào phòng của Lincoln Rhyme. “Thật trùng hợp.”

“Anh ấy lại còn thích nhạc jazz,” Thom giải thích với tay thanh tra cảnh sát bụng phệ. “Phải nói là tôi ngạc nhiên đấy.”

“Như tôi đã nói,” Lincoln Rhyme nóng nảy nói tiếp, “tôi đang làm việc thì nhạc tình cờ bật lên. Ý anh là gì, trùng hợp là sao?”

Gật đầu với màn hình phẳng phía trước giường Flexicair của Rhyme, người trợ lý mảnh khảnh, trẻ trung, mặc một cái áo sơ-mi trắng, quần tây màu nâu vàng và đeo cà-vạt tím đậm, nói, “Không, anh ấy không làm việc. Trừ khi việc nhìn chằm chằm vào một trang giấy cả tiếng đồng hồ là làm việc. Anh ấy sẽ không để tôi thoát với công việc như thế.”

“Lệnh, lật trang.” Máy tính nhận ra giọng của Rhyme và tuân theo mệnh lệnh của anh, lật qua một trang mới của tờ Tạp chí Khoa học Pháp y trên màn hình. Anh hỏi Thom với giọng gay gắt, “Nói đi, anh muốn đánh đố tôi xem tôi đang nhìn chằm chằm vào thứ gì hả? Cấu tạo của năm loại chất độc lạ hàng đầu được tìm thấy trong các phòng thí nghiệm khủng bố gần đây ở châu Âu? Và nếu chúng ta đánh cược một chút vào những câu trả lời thì sao?”

“Không, chúng ta có việc khác phải làm,” người trợ lý đáp, ý chỉ đủ kiểu chức năng cơ thể mà những người chăm sóc phải lưu tâm vài lần một ngày khi bệnh nhân của họ là người liệt cả tứ chi như Lincoln Rhyme.

“Vài phút nữa chúng ta sẽ chuyển sang việc đó,” nhà tội phạm học nói, tận hưởng một đoạn lặp đặc biệt dữ dội của kèn trumpet.

“Chúng ta chuyển sang việc đó ngay bây giờ. Xin thứ lỗi, Lon.”

“Được rồi, được rồi.” Sellitto cao to, đầu bù tóc rối bước vào hành lang bên ngoài phòng ngủ ở tầng hai căn nhà phố trên đường Central Park West của Rhyme. Anh đóng cửa lại.

Vào lúc Thom thực thi phận sự của mình một cách khéo léo, Lincoln Rhyme lắng nghe tiếng nhạc và tự nhủ: Chỉ là trùng hợp thôi sao?

Năm phút sau, Thom để Sellitto quay trở lại phòng ngủ. “Cà phê chứ?”

“Ừ. Quả là cần chút cà phê. Mẹ kiếp, sáng sớm thứ Bảy mà đã phải làm việc.”

Người trợ lý rời đi.

“Nhìn tôi thế nào, Linc?” Tay thanh tra cảnh sát tuổi trung niên xoay một vòng rồi hỏi. Bộ vest xám là thứ quần áo điển hình trong tủ đồ của anh ta – có vẻ như được may bằng thứ vải nhàu vĩnh viễn.

“Trình diễn thời trang sao?” Rhyme hỏi.

Phải chăng là trùng hợp?

Rồi tâm trí anh trở lại với đĩa CD. Làm sao một người có thể chơi trumpet mượt mà đến thế? Làm sao ta có thể tạo ra thứ âm thanh đó từ một nhạc cụ kim loại chứ?

Tay thanh tra cảnh sát nói tiếp: “Tôi đã giảm hơn bảy cân. Rachel bắt tôi ăn kiêng. Chất béo là vấn đề. Ta phải giảm chất béo, anh sẽ kinh ngạc thấy mình giảm được bao nhiêu cân.”

“Chất béo, phải. Tôi nghĩ tôi biết chuyện đó rồi, Lon. Vậy…?”

Nghĩa là, đi thẳng vào vấn đề đi.

“Tôi có một vụ lạ lùng. Tìm thấy một thi thể nửa giờ trước ở một trường Âm nhạc phía trên đường này. Tôi là sĩ quan phụ trách vụ việc và cần chút trợ giúp.”

Trường Âm nhạc. Và mình đang nghe nhạc. Quả là một sự trùng hợp thảm hại.

Sellitto nêu ra một số dữ kiện: sinh viên bị giết, thủ phạm suýt bị bắt nhưng trốn thoát qua một cánh cửa bí mật nào đấy mà không ai tìm ra được.

Âm nhạc là toán học. Chuyện đó thì Rhyme, một nhà khoa học, có thể hiểu được. Âm nhạc là logic, âm nhạc được cấu trúc hoàn hảo. Nó cũng là sự vô tận, anh ngẫm nghĩ. Số giai điệu có thể viết ra là vô hạn. Ta không bao giờ chán việc viết nhạc. Anh tự hỏi người ta làm việc đó thế nào. Rhyme tin là anh không có chút sáng tạo nào. Anh từng học đàn dương cầm năm mười một hay mười hai tuổi gì đó, mặc dù anh đã cảm nắng cô Osborne dạy đàn suốt một thời gian dài, những bài học tự thân nó chẳng ra gì cả. Những kỷ niệm đẹp nhất của anh về nhạc cụ đó là việc chụp các bức ảnh phơi sáng của những sợi dây đàn cộng hưởng cho một dự án ở hội chợ khoa học.

“Anh nghe tôi nói không, Linc?”

“Một vụ án, anh đang nói về một vụ án. Lạ lùng.”

Sellitto cung cấp thêm chi tiết, từ từ thu hút sự chú ý của Rhyme. “Phải có cách nào đấy để thoát ra khỏi hội trường. Nhưng không ai trong trường hay nhóm của chúng tôi tìm ra được.”

“Hiện trường giờ thế nào?”

“Vẫn còn khá nguyên vẹn. Chúng ta có thể để Amelia xem thử được không?”

Rhyme liếc vào đồng hồ. “Cô ấy còn kẹt việc trong khoảng hai mươi phút nữa.”

“Không vấn đề gì,” Sellitto nói, vỗ vào bụng mình như thể anh đang tìm phần cân nặng đã mất. “Tôi sẽ nhắn tin cho cô ấy.”

“Lúc này đừng làm cô ấy phân tâm.”

“Tại sao, cô ấy đang làm gì?”

“À, chuyện có hơi nguy hiểm,” Rhyme nói, tập trung trở lại vào thứ âm thanh óng như tơ từ kèn trumpet. “Còn gì nữa không?”

***

Cô ngửi thấy mùi gạch ẩm ướt của bức tường nhà chung cư trước mặt.

Lòng bàn tay cô đổ mồ hôi và phía dưới mái tóc đỏ như lửa nhét trong chiếc mũ bám bụi, da đầu cô ngứa kinh khủng. Dẫu vậy, cô hoàn toàn bất động khi một cảnh sát mặc đồng phục tiến lại gần và cũng áp mặt anh ta vào bức tường gạch.

“Được rồi, tình hình là thế,” người đàn ông nói, hất hàm về phía bên phải họ. Anh ta giải thích rằng ngay chỗ góc quanh của khu nhà chung cư là một bãi đất trống, ở giữa bãi đất đó là chiếc xe dùng để tẩu thoát vừa gặp nạn vài phút trước, sau cuộc rượt đuổi tốc độ cao.

“Còn lái được không?” Amelia Sachs hỏi.

“Không. Lao vào một thùng rác và không chạy được nữa. Ba nghi phạm. Chúng đã thoát ra nhưng chúng ta cầm chân được một. Gã ngồi trong chiếc xe với khẩu súng trường đi săn rất dài. Một cảnh sát tuần tra đã bị thương.”

“Tình trạng thế nào?”

“Ngoài da thôi.”

“Xác định được vị trí chưa?”

“Chưa. Ngoài phạm vi. Một dãy nhà ở phía tây chỗ này.”

Cô hỏi, “Tay nghi phạm thứ ba thì sao?”

Viên cảnh sát thở dài. “Chó chết, gã đã lẻn vào được tầng một tòa nhà.” Anh ta hất đầu về phía khu nhà chung cư mà họ đang ở gần. “Đó là một rào chắn. Hắn có một con tin. Người phụ nữ đang mang thai.”

Sachs tiêu hóa đống thông tin khi cô đổi chân trụ, làm thế để giảm bớt cơn đau vì bệnh thấp khớp ở những khớp xương. Mẹ kiếp, đau thật. Cô nhìn vào bảng tên trên ngực người đồng hành. “Vũ khí của kẻ bắt con tin là gì, Wilkins?”

“Súng ngắn. Không rõ loại gì.”

“Phe ta ở đâu?”

Người đàn ông trẻ chỉ vào hai cảnh sát đứng sau bức tường ở cuối khu đất. “Hai người nữa phía trước tòa nhà, để kiềm giữ H-T6.”

6 H-T, tức “hostage-taker,” nghĩa là “kẻ bắt con tin.”

“Có ai gọi Đội Khẩn cấp không?”

“Tôi không rõ. Tôi đã để mất bộ đàm của mình khi chúng tôi bắt đầu nổ súng.”

“Anh có mặc áo chống đạn không?”

“Không. Tôi đang tuần tra giao thông mà… Giờ chúng ta sẽ làm cái quái gì đây?”

Cô ấn vào bộ đàm Motorola để chỉnh một tần số cụ thể rồi nói, “Hiện trường Năm Tám Tám Năm gọi cấp trên.”

Một lát sau: “Đây là Đại úy Bảy Bốn. Nói đi.”

“Mười - mười ba đang ở khu đất phía đông khu sáu không năm Delancey. Có cảnh sát bị bắn hạ. Cần hỗ trợ, xe cứu thương và Đội Khẩn cấp ngay lập tức. Hai đối tượng, đều có vũ khí. Một đang giữ con tin; chúng ta sẽ cần một người đàm phán.”

“Rõ, Năm Tám Tám Năm. Cần trực thăng quan sát không?” “Không, Bảy Bốn. Một nghi can có súng trường hỏa lực lớn. Và chúng sẵn sàng bắn cảnh sát.”

“Chúng tôi sẽ đưa lực lượng hỗ trợ tới ngay khi có thể. Nhưng Đặc vụ Cảnh vệ đang phong tỏa một nửa thành phố vì phó Tổng thống sắp tới từ JFK7. Sẽ có chậm trễ. Hãy tự xử lý tình huống. Hết.”

7 Tức sân bay quốc tế của thành phố New York, đặt theo tên cố tổng thống Mỹ John Fitzgerald Kennedy.

“Rõ. Hết.”

Chà, phó Tổng thống cơ à, cô nghĩ. Ông vừa mất lá phiếu của tôi rồi.

Wilkins lắc đầu. “Nhưng chúng ta không thể đưa một người đàm phán vào gần khu căn hộ được. Tay súng vẫn còn trong xe.”

“Tôi sẽ xử lý chuyện đó,” Sachs đáp.

Cô đi tới chỗ góc khu chung cư và liếc nhìn chiếc xe, một chiếc xe rẻ tiền cắm đầu vào thùng rác, cửa mở toang, một người đàn ông gày gò đang cầm một khẩu súng trường ngồi ở trong.

Tôi sẽ xử lý chuyện đó…

Cô hét lên, “Này anh trong xe, anh bị bao vây rồi. Chúng tôi sẽ nổ súng nếu anh không bỏ vũ khí. Làm ngay đi!”

Gã cúi xuống và chĩa súng về hướng cô. Cô lom khom để tìm chỗ nấp. Trên bộ đàm Motorola, cô gọi cho hai cảnh sát ở phía sau khu đất. “Có con tin trong xe không?”

“Không.”

“Các anh chắc chứ?”

“Chắc” là lời đáp của viên cảnh sát. “Chúng tôi nhìn rõ trước khi gã bắt đầu bắn.”

“Được rồi. Các anh bắn được không?”

“Có thể là qua cửa.”

“Không, đừng bắn bừa. Hãy vào vị trí. Nhưng chỉ bắn khi các anh đã rõ mọi thứ.”

“Rõ.”

Cô thấy hai người di chuyển vào vị trí bên hông. Một lát sau các cảnh sát nói, “Tôi có góc bắn có thể hạ hắn ngay. Tôi có nên hành động luôn không?”

“Ở yên đó.” Rồi cô hét lên, “Anh trong xe. Với khẩu súng trường. Anh có mười giây để hạ vũ khí, còn không chúng tôi nổ súng. Hạ vũ khí đi. Anh hiểu không?” Cô nhắc lại điều đó bằng tiếng Tây Ban Nha.

“Mẹ mày.”

Cô coi câu đó là xác nhận đã nghe thấy.

“Mười giây,” cô hét lên. “Chúng tôi đang đếm đây.”

Cô nói qua bộ đàm với hai cảnh sát, “Cho hắn hai mươi giây. Rồi các anh được bắn.”

Khi sắp hết mười giây, gã hạ khẩu súng trường xuống và đứng lên, tay giơ cao. “Đừng bắn, đừng bắn!”

“Tiếp tục giơ thẳng tay lên. Đi về phía góc tòa nhà. Nếu hạ tay xuống anh sẽ bị bắn.”

Khi gã tới góc nhà, Wilkins còng tay và lục soát gã. Sachs vẫn cúi thấp người. Cô nói với nghi phạm, “Gã ở trong đó. Bạn của anh. Là ai vậy?”

“Tôi sẽ không nói…”

“Có, anh sẽ nói đấy. Vì nếu chúng tôi hạ gã, điều chúng tôi sắp làm, thì anh sẽ mắc trọng tội giết người. Nào, gã ở trong đó có đáng bốn mươi năm ở Ossining8 không?”

8 Ossining, tức làng Ossining, hạt Westchester, bang New York, nơi có nhà tù an ninh tối đa khét tiếng nước Mỹ Sing Sing.

Gã thở dài.

“Nào,” cô quát. “Tên, địa chỉ, gia đình, sở thích, tên của mẹ gã, có người thân nào có tiền án không – tôi cá là anh có thể nghĩ ra rất nhiều thông tin hữu ích về gã.”

Gã thở dài và bắt đầu nói; Sachs nguệch ngoạc viết ra những chi tiết.

Chiếc bộ đàm Motorola của cô kêu lên. Người đàm phán giải thoát con tin và Đội Khẩn cấp vừa xuất hiện phía trước tòa nhà. Cô đưa các ghi chú cho Wilkins. “Đưa cái này cho người đàm phán.”

Cô vừa đọc cho gã cầm súng trường về các quyền của hắn vừa tự nghĩ xem mình đã xử lý tình huống một cách tốt nhất chưa? Cô có gây nguy hiểm một cách không cần thiết cho sinh mạng nào không? Liệu cô có nên tự mình đi kiểm tra viên cảnh sát bị thương không?

Năm phút sau, viên đại úy đi qua góc tòa nhà. Anh ta mỉm cười. “Tay H-T đã thả người phụ nữ. Không ai bị thương. Chúng ta bắt được ba gã. Cậu cảnh sát bị thương sẽ ổn. Chỉ sây sát nhẹ thôi.”

Một nữ cảnh sát với mái tóc vàng cắt ngắn dưới chiếc mũ kếp tham gia cuộc nói chuyện. “Này, kiểm tra đi. Chúng ta có một phần thưởng thêm đây.” Cô đang xách một túi ni-lông đầy bột trắng và ống thủy tinh hút ma túy cùng đủ thứ đồ nghề khác.

Viên đại úy nhìn qua đó và gật đầu đồng tình, Sachs hỏi, “Những thứ đó ở trong xe của chúng?”

“Không. Tôi tìm thấy nó trong một chiếc Ford bên kia đường. Tôi đang thẩm vấn chủ xe trong vai trò nhân chứng thì hắn ta bắt đầu toát mồ hôi và có vẻ lo sợ nên tôi cho lục soát xe.”

“Nó đậu ở đâu?” Sachs hỏi. “Trong ga-ra nhà gã.”

“Cô có xin lệnh lục soát không?”

“Không. Như tôi nói, hắn tỏ vẻ lo sợ và tôi có thể thấy một góc túi ni-lông ở lối đi. Đó có thể là cái cớ hợp lý.”

“Không.” Sachs lắc đầu. “Đó là một cuộc khám xét phi pháp.”

“Phi pháp sao? Chúng ta đã thổi hắn tuần trước vì chạy quá tốc độ và thấy một ký cần sa sau xe. Chúng ta có thể bắt quả tang hắn được chưa.”

“Ở ngoài đường thì khác. Quyền riêng tư trong một phương tiện di động trên công lộ thấp hơn nhiều. Tất cả những gì cô cần để bắt giữ là có một cái cớ hợp lý. Nhưng khi chiếc xe đang ở trong một khu đất tư nhân, ngay cả nếu cô nhìn thấy ma túy, cô vẫn cần lệnh khám xét.”

“Điên thật,” nữ cảnh sát nói với vẻ đề phòng. “Hắn có gần ba trăm gram ma túy tinh chất ở đây. Hắn là một tay buôn bán ma túy liều lĩnh. Bên chống ma túy mất nhiều tháng mới bắt được một kẻ như thế này.”

Viên đại úy nói với Sachs, “Cô chắc chắn chứ, cô cảnh sát?”

“Chắc.”

“Có đề xuất gì không?”

Sachs nói, “Tịch thu đồ vật, dọa cho hắn sợ chết khiếp và đưa thông tin của hắn cho bên chống ma túy.” Rồi cô liếc nhìn nữ cảnh sát. “Và cô tốt hơn là học lại một khóa về khám xét và tịch thu đi.”

Nữ cảnh sát bắt đầu cãi lại, nhưng Sachs không quan tâm. Cô đang quan sát khu đất trống, nơi chiếc xe của kẻ phạm tội húc đầu vào thùng rác. Cô liếc nhìn chiếc xe.

“Sĩ quan...” Viên đại úy lên tiếng.

Cô phớt lờ anh ta và quay sang nói với Wilkins, “Anh nói là có ba gã đúng không?”

“Đúng.”

“Làm sao anh biết?”

“Đó là báo cáo từ cửa hàng đồ trang sức mà chúng đã cướp.”

Cô bước vào khu đất ngập rác, rút khẩu Glock ra. “Nhìn chiếc xe kìa,” cô quát.

“Chúa ơi,” Wilkins nói.

Tất cả cửa xe đều mở toang. Bốn gã đã thoát ra ngoài.

Khom người, cô nhìn quanh khu đất và nhắm khẩu súng về nơi trú ẩn duy nhất có thể gần đó: một ngõ cụt đằng sau thùng rác. “Có vũ khí!” Cô kêu lên, gần như trước khi cô thấy có sự chuyển động.

Tất cả mọi người xung quanh quay lại khi gã đàn ông cao lớn, mặc áo phông với khẩu súng hoa cải nhảy ra khỏi khu đất, định chạy về phía con đường.

Khẩu Glock của Sachs nhắm thẳng vào ngực gã đàn ông khi gã ra khỏi chỗ trốn. “Bỏ vũ khí xuống!” Cô ra lệnh.

Gã lưỡng lự một chút rồi cười khẩy và chĩa khẩu súng về phía các cảnh sát.

Cô giương khẩu Glock lên.

Với giọng vui tươi, cô nói, “Pằng, pằng… Anh chết rồi nhé.”

Người đàn ông dừng lại và cười lớn. Anh ta lắc đầu khâm phục. “Giỏi đấy. Tôi cứ nghĩ là mình đã được tự do về nhà rồi.” Vắt khẩu súng lớn trên vai, anh ta đi về phía các đồng đội cạnh khu nhà chung cư. “Nghi phạm” kia, người đã ở trong xe, quay lưng lại để được gỡ còng. Wilkins thả anh ta ra.

“Con tin,” do một sĩ quan cảnh sát gốc Latinh không hề có thai mà Sachs quen biết nhiều năm đóng vai cũng tới chỗ họ. Cô vỗ lưng Sachs. “Giỏi lắm, Amelia, cứu được tôi rồi nhé.”

Sachs vẫn giữ khuôn mặt nghiêm trang, dù cô thấy hài lòng. Cô thấy mình như một sinh viên vừa ghi điểm cao cho một kỳ thi quan trọng.

Mà thực tế, mọi chuyện chính xác là như thế.

Amelia Sachs đang theo đuổi một mục tiêu mới. Cha cô, Herman là một cảnh sát tuần tra thuộc Đội Tuần tra khu vực suốt cuộc đời ông. Sachs giờ đang ở cùng cấp bậc đó và có thể sẽ phải hài lòng với việc ở lại vị trí đó thêm vài năm nữa trước khi được thăng cấp, nhưng sau vụ 11 tháng Chín, cô quyết định cống hiến nhiều hơn. Nên cô đã nộp hồ sơ để được thăng cấp thành trung sĩ cảnh sát.

Không có lực lượng thực thi pháp luật nào chiến đấu chống tội phạm giống như các thanh tra của NYPD9. Truyền thống của họ có từ thời của viên thanh tra cứng rắn, sáng láng Thomas Byrnes10, người được bổ nhiệm đứng đầu Sở Cảnh sát còn non trẻ vào những năm 1880. Mẹo của Byrnes bao gồm đe dọa, nắm đầu và sự suy diễn tinh vi – ông có lần đã phá một đường dây trộm cắp lớn bằng cách lần theo một sợi vải nhỏ xíu tìm thấy ở hiện trường tội ác. Dưới sự chỉ huy khoa trương của Byrnes, các điều tra viên ở cục trở nên nổi tiếng là những kẻ bất tử và họ góp phần giảm mạnh tỉ lệ tội ác trong thành phố mà thời đó loạn không kém gì miền Viễn Tây.

9 NYPD, viết tắt của “New York Police Department,” nghĩa là “Sở Cảnh sát thành phố New York.”

10 Thomas Byrne (1842 - 1910), người Mỹ gốc Ireland, cảnh sát trưởng đầu tiên của thành phố New York.

Cảnh sát Herman Sachs là một người sưu tập các kỷ vật về sở cảnh sát. Không lâu trước khi qua đời, ông đã cho con gái mình cổ vật ông thích nhất: một cuốn sổ tay nhàu nát từng thực sự được Byrnes sử dụng để ghi chú về các cuộc điều tra. Khi Sachs còn trẻ – và mẹ cô không có bên cạnh – cha sẽ đọc lớn những đoạn còn đọc được cho cô và hai người họ cùng nghĩ những câu chuyện xoay quanh đoạn đó.

Ngày 12 tháng 10 năm 1883. Đã tìm thấy cái chân kia! Trong thùng than của Slaggardy, năm điểm. Chắc Cotton Williams sắp thú tội.

Nhìn vào vị thế đầy uy tín của nó (và lương bổng rất khá trong lực lượng chấp pháp), thật mỉa mai là phụ nữ lại tìm thấy nhiều cơ hội ở Cục Điều tra hơn là những phòng ban khác của NYPD. Nếu Thomas Byrnes là một thanh tra biểu tượng của nam giới, thì Mary Shanley11 là nhân vật điển hình cho nữ giới – và là một tron những người hùng của riêng Sachs. Bắt tội phạm trong suốt những năm 1930, Shanley là một cảnh sát hung tợn, không khoan nhượng. Người từng nói, “Ta có súng thì ta bắn thôi,” và đó là điều bà làm khá thường xuyên. Sau nhiều năm chống tội phạm ở Midtown, bà nghỉ hưu khi là thanh tra cảnh sát bậc nhất.

11 Mary Shanley (1896 - 1989), nữ cảnh sát nổi tiếng của thành phố New York.

Tuy nhiên, Sachs không chỉ muốn trở thành thanh tra cảnh sát, một công việc vốn chỉ mang tính chuyên môn; cô muốn có cả quân hàm nữa. Ở NYPD, giống như trong hầu hết lực lượng cảnh sát, người ta trở thành thanh tra dựa trên năng lực và kinh nghiệm. Tuy nhiên, để trở thành trung sĩ, ứng viên phải trải qua một kỳ thi ba môn cực nhọc: thi viết, thi vấn đáp và – điều Sachs vừa trải qua – một bài tập đánh giá, một tình huống giả lập để kiểm tra những kỹ năng thực tế về quản trị nhân sự, sự nhạy cảm với cộng đồng và phán đoán dưới áp lực.

Viên đại úy, một cựu binh ăn nói nhỏ nhẹ có phần giống Laurence Fishburne, là người đánh giá chính bài thi đó và đã ghi nhận thành tích cho cô.

“Được rồi, sĩ quan,” anh nói, “chúng ta sẽ viết kết quả ra và chúng sẽ được gửi kèm vào bản đánh giá của cô. Nhưng tôi xin được nói một nhận định không chính thức.” Anh xem sổ tay của mình. “Việc đánh giá nguy cơ của cô với dân thường và các sĩ quan là hoàn hảo. Việc gọi hỗ trợ là đúng lúc và phù hợp. Việc triển khai người đã loại bỏ mọi khả năng thủ phạm thoát khỏi nơi bị bao vây nhưng vẫn giảm thiểu tiếp xúc với thủ phạm. Việc cô nói cuộc lục soát ma túy là bất hợp pháp là đúng. Việc thu thập thông tin cá nhân từ một nghi phạm cho người đàm phán giải thoát con tin là một động thái hay. Chúng tôi không nghĩ tới việc đưa điều đó vào danh sách. Nhưng giờ chúng tôi sẽ làm thế. Và cuối cùng, thành thật mà nói, chúng tôi không bao giờ nghĩ là cô sẽ xác định được có một nghi phạm khác đang lẩn trốn. Chúng tôi đã lên kế hoạch rằng anh ta sẽ bắn sĩ quan Wilkins đây để xem cô xử lý tình huống cảnh sát bị bắn hạ và tổ chức vây ráp một tên tội phạm trốn chạy thế nào.”

Phần nhận xét không chính thức kết thúc ở đó và anh mỉm cười. “Nhưng cô đã bắt được gã khốn.”

Pằng, pằng.

Rồi anh hỏi, “Cô đã làm xong phần thi viết và vấn đáp rồi đúng không?”

“Vâng, thưa sếp. Kết quả sẽ có bất cứ lúc nào.”

“Nhóm của tôi sẽ hoàn tất đánh giá và gửi cho hội đồng những khuyến nghị của chúng tôi. Giờ cô có thể ra về.”

“Vâng, thưa sếp.”

Viên cảnh sát đóng vai kẻ xấu cuối cùng – gã có khẩu súng hoa cải – đi lại chỗ cô. Anh ta là một tay người Ý điển trai, nửa đời sống ở những cầu cảng Brooklyn, cô đoán, và có cơ bắp của một võ sĩ quyền Anh. Bộ râu tua tủa bẩn thỉu bao phủ gò má và cằm anh ta. Anh ta đeo một khẩu súng mạ crôm tự động cỡ lớn cao trên vòng eo gọn gàng và nụ cười ngạo nghễ khiến cô liên tưởng đến việc anh ta có thể muốn sử dụng hình ảnh phản chiếu trên khẩu súng của mình làm gương cạo râu.

“Tôi phải nói với cô. Tôi đã làm vài chục cuộc đánh giá rồi và đây là cuộc khá nhất mà tôi từng thấy, bé cưng.”

Cô cười lớn ngạc nhiên trước từ đó. Chắc chắn là vẫn còn vài kẻ cổ hủ trong sở – từ Đội Tuần tra tới các vị trí cấp cao tại trụ sở chính – nhưng họ thường ra vẻ khinh thị hơn là công khai phân biệt giới tính. Sachs đã không bị một cảnh sát nam gọi là “bé cưng” hay “em yêu” ít ra là một năm rồi.

“Gọi là ‘sĩ quan’ nhé, nếu anh không phiền.”

“Không, không không,” anh ta nói, cười lớn. “Giờ cô có thể thoải mái rồi. Cuộc sát hạch đã xong.”

“Thì sao?”

“Khi tôi nói ‘bé cưng,’ thì nó không còn là một phần của cuộc sát hạch nữa. Cô biết đó, cô không phải đối phó với nó một cách chính thức. Tôi chỉ nói thế vì tôi thấy ấn tượng. Và vì cô… cô biết mà.” Anh ta mỉm cười, sự hấp dẫn của anh ta cũng lấp lánh như khẩu súng của anh ta vậy. “Tôi không hay khen. Nếu tôi đã khen, thì không phải chuyện nhỏ đâu.”

Vì cô… cô biết mà.

“Này, cô không tức giận đấy chứ?” Anh ta hỏi.

“Không giận gì cả. Nhưng vẫn là ‘sĩ quan’ nhé. Anh sẽ gọi tôi vậy và tôi sẽ gọi anh thế.”

Ít ra là trước mặt anh ta.

“Này, tôi không có ý xúc phạm hay gì đâu. Cô là một cô gái xinh xắn. Và tôi là đàn ông. Cô hiểu chuyện đó mà… Vậy thôi.”

“Vậy thôi,” cô đáp lại và bắt đầu bước đi.

Anh ta bước lên trước cô, nhíu mày. “Này, đợi đã. Chuyện này không ổn tí nào. Cho phép tôi mời cô một ly cà phê nhé. Cô sẽ thích tôi khi biết tôi rõ hơn.”

“Không chắc vậy đâu,” một người bạn của anh ta lên tiếng rồi cười lớn.

Gã Bé cưng tốt tính giơ ngón tay thối với người bạn đó rồi quay lại với Sachs.

Đúng lúc đó máy nhắn tin của cô kêu và cô nhìn xuống thấy số của Lincoln Rhyme trên màn hình. Chữ “KHẨN CẤP” hiện ra.

“Tôi phải đi rồi,” cô nói.

“Không có thời gian uống cà phê hả?” Anh ta hỏi, môi hơi bĩu ra trên khuôn mặt đẹp trai.

“Không có thời gian.”

“Vậy số điện thoại thì sao?”

Cô làm hình một khẩu súng với ngón trỏ và ngón cái rồi nhắm vào anh ta. “Pằng, pằng,” cô nói. Và đi nhanh về phía chiếc Camaro màu vàng của mình.